Công Đồng Vaticanô Và Bí Tích Thánh Thể

CÔNG ĐỒNG VATICANÔ

VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ

 

NHẬP ĐỀ:

Công đồng Triđentinô (13.12.1545 - 4.12.1563) đã dành ba khoá họp XIII, XXI và XXII để trình bày giáo lý đức tin về Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh chống lại Phong trào Cải cách.

Trong khóa họp XIII (11.10.1551), với “Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể”, gồm 8 khoản, 11 điều luật, Công Đồng bàn về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu, [1] về việc Chúa Giêsu thiết lập Bí tích cực thánh [2] như dấu chỉ tình yêu của Ngài và về Bí tích Thánh Thể với ba chiều kích : tưởng niệm công trình cứu độ đã đuợc thực hiện trong quá khứ, thông ban ơn cứu độ trong hiện tại (= nuôi dưỡng và thanh luyện linh hồn) và loan báo sự viên mãn cánh chung (tương lai), về biến thể (Transsubstantiatio). [3]

Trong khóa họp XXII (17.9.1562), với “Sắc lệnh về Thánh Lễ”, gồm 9 khoản và 9 điều luật. Công Đồng bàn về việc thiết lập Hy tế Thánh Lễ [4] và minh chứng Thánh Lễ là hy tế đích thực, dựa vào việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Hy tế Thánh Thể đã được thiết lập để “hiện tại hóa” hy tế thập giá.

Cuối cùng, vì phong trào Cải Cách đề cao chức tư tế cộng đồng đối chọi với chức tư tế thừa tác, cho nên trong khóa họp XXIII, Công đồng buộc phải bênh vực chức tư tế thừa tác do Đức Kitô thiết lập. Tuy nhiên, phản ứng này của Công đồng đã làm giảm nhẹ vai trò tham dự tích cực của các tín hữu: họ chỉ được coi như là những người hưởng nhờ bí tích và trong Thánh Lễ, họ chỉ tham dự với tư cách là những người “nghe Lễ”.

Công đồng Vaticanô II là một Công đồng mục vụ, khai mạc ngày 11.10.1962 và bế mạc ngày 8.12.1965 với 4 khoá họp:

-      Khoá họp thứ nhất (11.10.1962 – 8.12.1962)

-      Khoá họp thứ hai (29.9.1963 – 4.12.1963)

-      Khoá họp thứ ba (14.9.1964 – 21.11-1964)

-      Khoá họp thứ tư (14.9.1965 – 8.12.1965)

Ngày 4.12.1963, ngày bế mạc long trọng khoá họp thứ hai, Đức Giáo hoàng Phaolô VI công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium). Ngày 25.1.1964, Đức Phaolô VI ban Tự sắc Sacram Liturgiam công bố Hiến chế Phụng vụ Thánh bắt đầu có hiệu lực và thành lập một Hội Đồng để thực thi Hiến chế này.

Hiến chế về Phụng Vụ Thánh đã thổi một luồng gió canh tân vào Giáo Hội. Công cuộc canh tân được đón nhận cách mau lẹ, nhất là trên bình diện Phụng vụ. Hoa quả dễ thấy nhất của cuộc canh tân do Công đồng Vaticanô II thực hiện là việc Đức giáo hoàng Phaolô VI công bố Sách Lễ Rôma năm 1970 và tiếp theo là các sách Nghi thức của từng Bí tích. Hiến chế về Phụng vụ thánh đã đưa ra nguyên tắc cho việc canh tân này như sau:

“Mẹ Hội Thánh tha thiết mong ước toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các cuộc cử hành Phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Do chính bản tính Phụng vụ đòi hỏi việc tham dự như thế, lại nữa, nhờ Phép Rửa Tội, việc tham dự Phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo, là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, là dân được tuyển chọn” (1P 2,9). [5]

Từ nguyên tắc trên, Công Đồng đã đưa ra những chỉ thị về canh tân Phụng vụ như sau:

“Trong việc canh tân này, phải tu chính các bản văn và các nghi lễ, làm sao cho chúng diễn tả rõ ràng hơn những thực tại thánh mà chúng biểu thị, và để các tin hữu có thể dễ dàng thấu triệt các thực tại ấy càng nhiều càng tốt, cũng như có thể tham dự bằng việc cử hành những nghi lễ ấy cách trọn vẹn, linh động và cộng đồng”. [6]

Như vậy, trong việc canh tân Phụng vụ, hai việc làm cụ thể mà Công đồng đòi hỏi là:

-      Tu chính các bản văn;

-      và tu chính nghi lễ.

Để tu chính các bản văn, trước hết, Công đồng nói đến vai trò của Thánh Kinh trong Phụng vụ:

“Để xúc tiến việc canh tân, phát triển và thích ứng Phụng vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh Kinh đậm đà và sống động, đã được truyền thống khả kính của các nghi lễ Đông phương và Tây phương minh chứng”. [7]

“Trong các việc cử hành thánh, cần phải tu chính việc đọc Thánh Kinh cho dồi dào hơn, thay đổi hơn và thích hợp hơn”. [8]

Mục đích của việc canh tân Phụng vụ là giúp tín hữu “tham dự Phụng vụ một cách ý thức, linh động và hữu hiệu”, [9] do đó, Công đồng đã chấp thuận việc dùng tiếng bản quốc trong Phụng vụ. [10]

Còn đối với việc tu chính các nghi lễ, Công đồng đưa ra những tiêu chuẩn:

“Các nghi lễ phải chiếu toả nét đơn sơ cao quý, trong sáng, vắn gọn ; phải tránh những lập đi lập lại vô ích ; phải thích ứng với tầm lãnh hội của các tín hữu, cách chung không cần nhiều lời giải thích”.[11]

Trên đây là những nét căn bản để canh tân Phụng vụ nói chung. Riêng đối với Thánh Lễ, Công đồng đưa ra những chỉ thị cho việc canh tân từ số 47-58 trong Hiến chế về Phụng vụ thánh, Chúng ta sẽ trình bày ở phần II.

 Công đồng Vaticanô II không đưa ra một văn kiện riêng biệt nào về Bí tích Thánh Thể như Công Đồng Triđentinô. Tuy nhiên, Công Đồng đã đặc biệt nói về bí tích Thánh Thể trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh và rất nhiều nơi trong các văn kiện khác.

Công đồng Vaticanô II bàn về Thánh Thể dưới nhiều góc cạnh khác nhau: thần học, phụng vụ, mục vụ và linh đạo.

I. THẦN HỌC VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ:

Công Đồng Triđentinô đã tóm tắt nội dung của thần học về bí tích Thánh Thể vào 3 đề tài: Sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu, Thánh Thể được xét như là bí tích và Thánh Lễ là Hy tế. Về phương diện giáo lý, Công Đồng Vaticanô II cũng không đi ra ngoài lược đồ “kinh viện” này. Tuy nhiên, Vaticanô II đã ưu tiên suy nghĩ về mầu nhiệm Thánh Thể trong tương quan với Giáo Hội.

HY TẾ THÁNH LỄ

Bản chất hy tế của Thánh Lễ được Công Đồng Triđentinô long trọng xác quyết, một lần nữa được tuyên xưng trong Công Đồng Vaticanô II, với những lời rất có ý nghĩa sau đây:

"Trong bữa tiệc sau hết, vào đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh tưởng nhớ sự chết và phục sinh của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt Qua. Trong tiệc này, chúng ta nhận được Chúa Kitô làm của ăn, được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm vinh quang tương lai".[12]

Đây là đoạn văn quan trọng tóm tắt thần học của Vaticanô II về Thánh Thể. Hy tế Thánh Lễ do chính Chúa Giêsu thiết lập, để nhờ đó Hy tế thập giá được hiện tại hoá qua các thời đại cho đến ngày tận thế. Bí tích Thánh Thể được Chúa trao lại cho Giáo Hội để tưởng nhớ mầu nhiệm Vượt qua của Người. Bí tích Thánh Thể là hồng ân tuyệt hảo nhất cho Giáo Hội, là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc vượt qua. Công đồng nhấn mạnh nhiều đến hiệu quả của việc lãnh nhận Mình Chúa như lương thực thiêng liêng, đem lại cho những ai lãnh nhận tràn đầy ân sủng và niềm hy vọng vinh quang. Chiều kích cánh chung của Thánh Thể cũng được đề cập đến trong đoạn văn này.

Như vậy, theo Vaticanô II, mỗi khi cử hành bí tích Thánh Thể, Giáo Hội tưởng nhớ (Anamnèse) cuộc Vượt Qua của Đức Kitô; lúc đó, cuộc Vượt Qua này trở nên hiện diện giữa cộng đoàn, vì lễ tế của Đức Kitô trên thập giá chỉ dâng một lần là đủ và luôn sống động để đem lại ơn cứu độ. "Mỗi lần hy tế thập giá được cử hành trên bàn thờ, lúc đó Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta chịu hiến tế, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện". [13]

Hy tế (Sacrifice) của Chúa Kitô và hy tế Thánh Lễ chỉ là một. Lễ vật duy nhất là Đức Kitô, xưa chính Người dâng trên thập giá, nay được dâng lên nhờ thừa tác vụ linh mục. Chỉ khác biệt ở cách dâng.[14] Công đồng đã nói đến sự duy nhất và sự khác biệt này trong Sắc lệnh về chức vụ và đời sống linh mục :

"Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng Trung Gian Duy Nhất. Nhân danh Hội Thánh, hy tế này nhờ tay các linh mục được hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa lại đến". [15]

SỰ HIỆN DIỆN THỰC S

Mầu nhiệm về sự hiện diện thực sự của Chúa dưới hình bánh và hình rượu, đã được xác nhận trong Công Đồng Vaticanô II với cùng một ý nghĩa và tư tưởng như đã được Công Đồng Triđentinô đặt thành tín điều.

Công đồng Vaticanô II đã nói đến các hình thức hiện diện của Chúa trong Giáo Hội: “Người hiện diện trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người, vì thế ai rửa tội thì chính là Chúa Kitô rửa. Người hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Người hiện diện trong khi Hội Thánh cầu khẩn và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa : “Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa ho” (Mt 18,2)”,[16] nhưng cách hiện diện siêu vượt hơn hết là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể :

“Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện trong Hy Lễ, không những trong con người thừa tác viên, vì “như xưa Người đã tự dâng mình trên thập giá, thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục”,[17] mà nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình Thánh Thể”. [18]

THÁNH THỂ VÀ GIÁO HỘI

Công đồng Triđentinô, vì phải chống lại Cải Cách, nên đã dồn mọi nỗ lực vào việc chứng minh Thánh Lễ là một hy tế và mối liên hệ giữa hy tế thập giá và hy tế Thánh Lễ. Công đồng Vaticanô II ưu tiên nhấn mạnh đến chiều kích giáo hội của Thánh Thể. Thánh Thể là lương thực cho Giáo Hội lữ hành. Giáo Hội sống nhờ Thánh Thể. Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội. Thực vậy, Thánh Thể là “chóp đỉnh” của hành trình gia nhập Kitô giáo (initiation chrétienne) nhưng cũng là chóp đỉnh của hoạt động tông đồ, bởi vì hoạt động tông đồ giả thiết sự thuộc về Giáo Hội. Thánh Thể cũng là “nguồn mạch” của mọi sinh hoạt trong đời sống Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội. [19]

Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội

Theo Vaticanô II, Thánh Thể cũng biểu lộ bản chất của Giáo Hội, một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, cả trên bình diện Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương

“Trong phần đất mình, mỗi đoàn thể là dân tộc mới được Thiên Chúa kêu gọi trong Thánh Thần và trong sự viên mãn hoàn toàn (x. Tx 1,5). Nơi các đoàn thể đó, tín hữu được tụ họp lại nhờ sự rao giảng Phúc âm Chúa Kitô và mầu nhiệm Tiệc thánh Chúa được cử hành, để “nhờ Thịt và Máu Chúa, tất cả kết thành huynh đệ và thành một thân thể. Chúa Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn ấy, dù nhỏ bé nghèo hèn hay tản mác khắp nơi. Và nhờ Thần lực Người, Giáo Hội hiệp thành duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Bởi vì “việc tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không có công hiệu nào khác hơn là biến đổi chúng ta thành Đấng mà chúng ta nhận lãnh” (Thánh Inhaxiô thành Antiokia, Smyrna 8,1)”. [20]

Trong số này, Công Đồng trích dẫn lời của thánh Inhaxiô thành Antiokia về hiệu quả của việc lãnh nhận Thánh Thể là làm cho chúng ta được biến đổi theo hình ảnh của Đức Kitô.

Qua việc tham dự vào cùng một tấm bánh và cùng một chén, Bí tích Thánh Thể biểu lộ sự hiệp nhất trong Giáo Hội:

“Khi tham dự Thánh Lễ, nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo, các tín hữu dâng lên Thiên Chúa Lễ vật thần linh và cùng với Lễ vật ấy, họ tự dâng chính mình họ. Khi dâng lễ cũng như khi hiệp lễ, không phải cách hỗn độn, nhưng mỗi người một cách góp phần vào việc cử hành Phụng vụ. Hơn nữa, được bổ dưỡng bởi Mình Thánh Chúa Kitô trong Thánh Lễ, họ biểu lộ cách cụ thể sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa, sự hiệp nhất ấy được diễn tả đầy đủ và thực hiện cách kỳ diệu trong bí tích cực trọng này”. [21]

Thánh Thể là mối dây bác ái

Hiệu quả đầu tiên của việc hiệp lễ là cho chúng ta được thông hiệp với Chúa Kitô, Đầu của Thân Thể Người là Giáo Hội. Như thế, thuộc về Chúa Kitô để thuộc về Giáo Hội. Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta thực hành đức ái. Công đồng nói đến trách nhiệm hàng đầu của giám mục giáo phận là giúp cho các tin hữu của mình hiểu, sống và diễn tả mầu nhiệm Thánh Thể trong tình liên đới yêu thương:

“Vậy các ngài (giám mục) phải luôn luôn lo lắng cho các Kitô hữu thấu hiểu và sống sâu xa hơn mầu nhiệm phục sinh thế nào, để nhờ Bí tích Thánh Thể, họ tạo thành một thân thể liên kết rất chặt chẽ trong tình bác ái duy nhất của Chúa Kitô”. [22]

Giám mục giáo phận là dấu chỉ hiệp nhất của Giáo Hội địa phương, vì thế, việc ngài cử hành Thánh Thể cùng với cộng đoàn giáo hội địa phương biểu hiệu rõ nét đức ái và sự hiệp nhất của Giáo Hội:

“Mỗi lần giám mục cử hành tác vụ thánh với cộng đoàn tụ họp quanh bàn thờ, đó là biểu hiệu đức ái và sự hiệp nhất của nhiệm thể, và nếu thiếu sự hiệp nhất đó, không thể có ơn cứu rỗi”. [23]

“Các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, thông ban và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người; nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ”. [24]

Thánh Thể đưa người tín hữu vào trong sự hiệp thông với Đức Kitô và Thân thể của Người là Giáo Hội

Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào trong tương quan hiệp thông với Đức Kitô, nhưng dấu chỉ hữu hình của mối tương quan này được biểu lộ qua sự hiệp thông giáo hội. Lãnh nhận Thân Mình Chúa Kitô (Corps sacramentel du Christ) để trở nên chi thể của thân mình giáo hội của Người (Corps ecclesial du Christ):

“Khi bẻ bánh tạ ơn, chúng ta thực sự thông dự vào Thân thể của Chúa, nên chúng ta được nâng lên để hiệp thông với Người và với nhau. “Chúng ta tuy nhiều, nhưng là một tấm bánh, một thân thể, vì hết thảy chúng ta cùng thông phần vào một tấm bánh” (1Cr 10,17). Thế nên, tất cả chúng ta trở thành chi thể của Thân thể ấy (x. 1Cr 12,27), “vì mỗi người là chi thể của nhau” (Rm 12,5)”. [25]

Bí tích Thánh Thể xây dựng Giáo Hội

“Phụng vụ, nhất là Lễ Tạ ơn, như là nguồn mạch từ đó ân sủng tuôn tràn trong chúng ta và làm cho con người được thánh hoá trong Chúa Kitô một cách vô cùng hữu hiệu, đồng thời Thiên Chúa được tôn vinh: đây cũng là cứu cánh của mọi công việc khác của Giáo Hội”. [26]

Công Đồng xác tín rằng Bí tích Thánh Thể và lòng yêu mến Lời Chúa chính là sự sống của Giáo Hội và cho Giáo Hội. Giáo Hội được tăng triển là nhờ vào việc lãnh nhận Thánh Thể và đời sống thiêng liêng được đổi mới là nhờ vào lòng yêu mến Lời Chúa:

“Nếu đời sống Giáo Hội được tăng triển nhờ năng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể thế nào, thì đời sống thiêng liêng cũng hy vọng có thể được đổi mới như vậy nhờ thêm lòng sùng kính Lời Chúa, là “Lời hằng tồn tại muôn đời” (Is 40,8; 1P 1,23-25)”. [27]

Thánh Thể thúc bách Giáo Hội loan báo Tin Mừng

Trong số 17 của Hiến chế tín lý về Giáo Hội, Công Đồng nhấn mạnh đến trách nhiệm của toàn thể Dân Chúa là góp phần loan báo Tin Mừng, nhưng chỉ các tư tế mới hoàn tất việc xây dựng Nhiệm Thể Giáo Hội nhờ Thánh Thể, bởi vì Thánh Thể hoàn tất hành trình gia nhập Kitô giáo

“Tuy bất cứ ai cũng có thể ban Phép Rửa cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn tất xây dựng Nhiệm Thể bằng Hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua miêng tiên tri: “Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính Danh Ta” (Ml 1,11)”. [28]

“Các công lao khó nhọc trong việc tông đồ, đều nhằm làm cho mọi người trở nên con cái Thiên Chúa nhờ đức tin và Phép Rửa, cùng nhau quy tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần hiến tế và ăn tiệc của Chúa”. [29]

"Tất cả những bí tích khác cũng như các thừa tác vụ trong Giáo Hội và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với bí tích Thánh Thể và qui hướng về đó. Thật vậy, Phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội, đó là chính Chúa Kitô, Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta, Người là Bánh hằng sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống. Như thế, Người mời gọi và dẫn đưa con người hiến dâng chính mình, dâng những vất vả của mình và mọi tạo vật làm một với Người. Bởi vậy, bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tuyệt đỉnh của toàn thể công việc rao giảng Tin Mừng: trong khi các người dự tòng được dẫn đưa dần dần đến việc tham dự bí tích Thánh Thể, thì các tin hữu, những người đã mang ấn tích Rửa tội và Thêm sức, sẽ được kết hiệp trọn vẹn với Thân thể Chúa Kitô, nhờ bí tích Thánh Thể". [30]

“Nhờ lời rao giảng và cử hành các bí tích, mà trung tâm và tuyệt đỉnh là Bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo làm cho Chúa Kitô, Đấng tác thành công trình cứu rỗi được hiện diện”. [31]

Thánh Thể là lương thực cho Giáo Hội lữ hành

“Chính vì vậy mà Chúa đã sai các môn đệ đi khắp thế gian rao giảng Phúc âm, để khi con người đã được tái sinh do Lời Thiên Chúa, được gia nhập Giáo Hội nhờ Phép Rửa, một Giáo Hội với tư cách là thân thể của Ngôi Lời nhập thể được nuôi dưỡng và sống động bằng Lời Chúa và bánh Thánh Thể”. [32]

Bí tích Thánh Thể hướng tới đại kết

Công đồng Vaticanô II mời gọi các tín hữu công giáo hãy nhìn vào truyền thống Đông phương, một truyền thống rất mộ mến Thánh Thể:

“Mọi người đều thấy hiển nhiên là các tín hữu Đông phương rất mộ mến cử hành Phụng vụ thánh, nhất là việc cử hành Bí tích Thánh Thể, nguồn sống của Giáo Hội và đảm bảo vinh quang đời sau, nhờ đó, các tín hữu hiệp nhất với giám mục được đến gần Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con Ngôi Lời nhập thể đã chịu đau khổ và được hiển vinh, trong ân sủng tràn đầy của Chúa Thánh Thần, họ được cùng thông hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi rất thánh và ‘thông phần bản tính Thiên Chúa’ (2P 1,4). Vì vậy, nhờ việc cử hành Thánh Thể trong từng Giáo Hội ấy, Giáo Hội Thiên Chúa được xây dựng và phát triển, và sự hiệp thông giữa các Giáo Hội ấy tỏ rõ qua việc đồng tế”. [33]

Đối với các cộng đoàn giáo hội thuộc phong trào Cải Cách, Vaticanô II vẫn có cái nhìn tích cực về việc các cộng đoàn này tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc thánh và ước mong Thánh Thể sẽ là đối tượng cho cuộc đối thoại đại kết:

“Những cộng đoàn Giáo Hội ly khai với chúng ta, mặc dù không hiệp nhất đầy đủ với chúng ta như Phép Rửa tội đòi hỏi, và mặc dù chúng ta tin họ không còn giữ được bản chất đích thực và nguyên vẹn của Mầu nhiệm Thánh Thể, chủ yếu là vì thiếu Bí tích Truyền chức thánh, nhưng khi tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc Thánh, họ đã tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa nhờ hiệp thông với Chúa Kitô và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người. Do đó, phải dùng giáo lý về Tiệc thánh của Chúa, về các Bí tích khác, về việc phượng tự cũng như về các chức vụ của Giáo Hội làm đối tượng cho cuộc đối thoại”. [34]

CHIỀU KÍCH CÁNH CHUNG CỦA THÁNH TH

Trong một kinh nguyện cổ, Giáo Hội ca tụng mầu nhiệm Thánh Thể như sau: "Ôi Tiệc Thánh, Đức Kitô đã trở thành lương thực cho chúng ta; tiệc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người, ban cho ta hồng ân viên mãn và bảo chứng cho vinh quang mai sau".

Trong bữa Tiệc ly, Chúa hướng các môn đệ đến tiệc Vượt Qua viên mãn trong Nước Trời: "Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy sẽ không còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy"(x. Mt 26,29; Lc 22,18; Mc 14,25). Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Giáo Hội nhớ lại lời hứa này và hướng về Đấng đang đến. Trong kinh nguyện, Giáo Hội kêu cầu Người mau đến: "Maranatha" (1Cr 16,22), "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến" (Kh 22,20), "Ước gì trần gian này mau qua đi và ân sủng Ngài đến" (x. Didaché 10,6).

Bí tích Thánh Thể là bảo chứng chắc chắn và là dấu chỉ tỏ tường về niềm hy vọng một Trời Mới Đất Mới, nơi đó công lý ngự trị (x. 2Pr 3,13). Mỗi khi cử hành mầu nhiệm này, "công trình cứu độ chúng ta sẽ được thực hiện". [35]

Trong Hiến chế mục vụ Vui mừng và Hy vọng, Công đồng đã nói đến chiều kích cánh chung của Bí tích Thánh Thể: bảo chứng cho niềm hy vọng, lương thực đi đường, bữa tiệc tiền dự vào Nước Trời:

“Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng niềm hy vọng và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời”. [36]

Bí tích Thánh Thể vừa là lương thực cho đời sống đức tin và đức ái của người tín hữu, vừa là bảo chứng cho niềm hy vọng được thông phần vào sự phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô:

“Người còn lấy chính Mình Máu Người nuôi họ, cho họ tham dự vào cuộc sống vinh hiển của Người”. [37]

Bí tích Thánh Thể còn đưa ta vào hiệp thông với Giáo Hội các thánh trên trời:

“Khi cử hành Hy tế tạ ơn, chúng ta kết hợp rất mật thiết với việc thờ phượng của Giáo Hội trên trời, vì hiệp cùng Giáo Hội, chúng ta kính nhớ trước hết Đức Maria vinh hiển, trọn đời đồng trinh, sau là thánh Giuse, các thánh tông đồ và tử đạo cùng toàn thể các thánh” (x. Sách Lễ Rôma, Lễ Quy)”. [38]

PHỤNG V

Phong trào canh tân Phụng vụ ao ước người tín hữu tham dự tích cực vào đời sống phượng tự của Giáo Hội. Phong trào này là nguồn cảm hứng cho công cuộc canh tân Phụng vụ của Vaticanô II. Cử hành Thánh Thể như thế nào để sinh ích lợi cho tín hữu đó là mối bận tâm căn bản của Vaticanô II. Cụ thể là phải duyệt lại Nghi thức Thánh Lễ:

“Vì vậy, để Hy tế Thánh Lễ, ngay cả nghi thức bên ngoài thu đạt được hiệu năng mục vụ trọn vẹn, Thánh Công Đồng quyết định những điều sau đây về Thánh Lễ cử hành có dân chúng tham dự, nhất là vào những ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc” : [39]

  1. Phải canh tân Nghi thức Thánh Lễ để biểu lộ rõ ràng hơn ý nghĩa riêng biệt của các phần cũng như mối tương quan của chúng, đồng thời để việc tham dự của tín hữu tích cực hơn ; [40]
  2. Để bàn tiệc Lời Chúa được phong phú hơn cho các tín hữu, phải mở rộng kho tàng Thánh Kinh hơn, để trong một số năm ấn định đọc cho dân chúng nghe phần quan trọng của Thánh Kinh ; [41]
  3. Bài giảng được coi như thành phần của chính Phụng vụ. Phải giảng trong các ngày Chúa nhật và lễ buộc có dân chúng tham dự; [42]
  4. Phải tái lập “Lời nguyện chung” hay “Lời nguyện tín hữu” nhất là vào những ngày Chúa nhật và lễ buộc; [43]
  5. Tiếng bản xứ được phép dùng trong những Thánh Lễ cử hành có đông giáo dân tham dự; [44]
  6. Rất đáng khuyến khích các tín hữu tham dự Thánh Lễ hoàn hảo hơn, bằng cách, sau khi linh mục rước lễ, họ cũng lãnh nhận Mình Chúa trong cùng một Hy lễ đó

Dù vẫn duy trì các nguyên tắc tin lý do Công đồng Triđentinô quy định, nhưng có thể cho rước lễ dưới hai hình; [45]

  1. Thánh lễ gồm hai phần: Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh thể, được liên kết chặt chẽ đến nỗi chỉ tạo thành "một hành vi phụng thờ duy nhất". Do đó, Công đồng khuyến dụ các chủ chăn, trong khi dậy giáo lý, phải nhiệt thành dậy dỗ các tín hữu biết tham dự trọn vẹn Thánh Lễ, nhất là vào những ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc. [46]

        Để hiểu được tầm quan trọng lớn lao của những quyết định trên đây liên quan đến việc cử hành Thánh Lễ, chúng ta nên đối chiếu những quyết định của Công đồng Vaticanô II với những quyết định của Công đồng Triđentinô.

Vào thời buổi khó khăn, khi đức tin công giáo về bản chất hy lễ của Thánh Lễ, về chức tư tế thừa tác, về sự hiện diện thực sự và liên tục của Đức Kitô dưới hình bánh và hình rượu gặp nguy hiểm, thì mối bận tâm đầu tiên của thánh Piô V, vị giáo hoàng công bố Sách Lễ Rôma năm 1570 là lo bảo tồn truyền thống còn mới, đang bị tấn công nhiều mặt, bằng cách thay đổi rất ít trong nghi thức thánh.

        Công Đồng Triđentinôâ đã nhận thấy ích lợi huấn giáo lớn lao trong việc cử hành Thánh Lễ, nhưng chưa rút ra được từ đó tất cả các hiệu quả thực tiễn. Thật vậy, có nhiều người đã xin Công Đồng cho phép dùng tiếng bản xứ khi cử hành Thánh Lễ. Nhưng trước lời thỉnh cầu này, Công Đồng đã xét tới hoàn cảnh đáng lưu tâm lúc đó, mà nghĩ rằng: nhiệm vụ của Công Đồng là nhấn mạnh một lần nữa đến giáo lý truyền thống của Hội Thánh: hy lễ Thánh Thể, trước hết, là hành động của chính Chúa Kitô, cho nên hiệu năng riêng của Thánh Lễ không bị ảnh hưởng do cung cách tham dự của tín hữu. Bởi đó, Công Đồng đã dùng những lời vừa mạnh mẽ vừa đắn đo như sau: “Mặc dầu Thánh Lễ có hàm chứa một nền giáo huấn phong phú cho giáo dân, nhưng các nghị phụ nhận thấy là cử hành Thánh Lễ khắp nơi bằng tiếng bản xứ, thì không có lợi”. [47]

Công Đồng đã lên án kẻ nào chủ trương rằng: “Phải lên án nghi lễ Hội Thánh Rôma dạy đọc nhỏ tiếng phần Lễ Quy và lời truyền phép; hoặc, phải cử hành Thánh Lễ bằng tiếng bản xứ mà thôi”. [48]

 Tuy nhiên, một đàng Công Đồng cấm dùng tiếng bản xứ trong Thánh Lễ, một đàng lại truyền cho các mục tử phải dùng lời giáo huấn thích hợp để thay thế: “Để đoàn chiên Đức Kitô khỏi phải đói khát”. Công đồng truyền cho các mục tử và hết mọi người có trách nhiệm coi sóc các linh hồn phải hoặc tự mình, hoặc nhờ người khác, năng trình bày khi cử hành Thánh Lễ một vài điều trong những điều đọc trong Thánh Lễ, và trong số các mầu nhiệm, phải diễn giảng một vài điều về mầu nhiệm hy lễ rất thánh này, nhất là trong các Chúa Nhật và lễ trọng”. [49]

Trong khi đó, Công Đồng Vaticanô II được triệu tập để làm cho Giáo Hội thích nghi với các nhu cầu của nhiệm vụ tông đồ trong thời đại này, do đó Công Đồng nhìn nhận rằng: “Nhiều khi việc dùng tiếng bản xứ có thể rất hữu ích cho dân chúng”, và đã cho phép dùng tiếng bản xứ. [50]

Quyết định trên đây đã được khắp nơi nồng nhiệt đón nhận, vì nhờ đó, mầu nhiệm Thánh Lễ được am hiểu đầy đủ hơn.

Công Đồng Vaticanô II còn nhắn nhủ các chủ chăn phải diễn giảng trong các ngày Chúa Nhật và lễ trọng, và được phép xen ít lời nhắc bảo vào giữa các nghi lễ thánh.

Cũng với một tinh thần và nhiệt tâm mục vụ đó, Công Đồng Vaticanô II đã có một lý do mới, để có thể cân nhắc quyết định của Công Đồng Triđentinôâ về việc rước lễ dưới hai hình. Thật vậy, ngày nay, không còn ai nghi ngờ những nguyên tắc giáo lý về hiệu lực rất đầy đủ của việc rước lễ dưới một hình bánh, nên Công Đồng đã đôi khi cho phép được rước lễ dưới hai hình, nghĩa là nhờ một hình thức biểu lộ dấu bí tích rõ ràng hơn, giáo dân có cơ hội đặc biệt để hiểu sâu hơn mầu nhiệm họ tham dự.

MỤC VỤ

Vì là một Công đồng mục vụ, cho nên khi bàn về Bí tích Thánh Thể, Vaticanô II không dừng lại ở bình diện giáo lý, nhưng nhấn mạnh đến chiều kích hiện sinh nghĩa là cần thiết phải có một sự găp gỡ giữa người lãnh nhận với Đấng được lãnh nhận. Từ đó, ta thấy các Bí tích không chỉ là những phương tiện khách quan để múc lấy ân sủng, nhưng là hành động cứu độ của Đức Kitô trong từng cá nhân và trong Hội Thánh.

CHIỀU KÍCH CỘNG ĐOÀN CỦA VIỆC CỬ HÀNH THÁNH TH

Cùng với chức tư tế thừa tác, Công đồng cũng đưa ra ánh sáng một thực tại quan trọng khác, đó là chức tư tế vương giả của giáo dân. Chức tư tế cộng đồng này đã bị lu mờ vào thời Công đồng Triđentinô, vì lý do “chống Cải cách”.

Quan điểm giáo hội học của Công đồng Vaticanô II khởi đi từ dân Thiên Chúa. Giáo Hội là dân Thiên Chúa, dân được chuộc về bằng giá máu Đức Kitô, được Chúa quy tụ, được Lời Người nuôi dưỡng; là dân được kêu gọi để dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của toàn thể gia đình nhân loại, là dân hiến dâng hy lễ của Đức Kitô, để trong Người mà tạ ơn về mầu nhiệm cứu độ; và sau hết, là dân liên kết với nhau nên một, nhờ thông phần Mình và Máu Đức Kitô. Dân này, mặc dầu từ nguồn gốc đã là thánh, nhưng nhờ sự thông phần một cách có ý thức, linh động và hữu hiệu vào mầu nhiệm Thánh Thể, sẽ không ngừng tiến triển trên con đường thánh thiện.

Vaticanô II khẳng định rõ ràng chỉ có một chức tư tế duy nhất, chức tư tế của Đức Kitô. Tất cả dân Thiên Chúa đều tham dự vào chức tư tế này nhờ việc xức dầu trong Bí tích Thánh Tẩy. Một đàng, Công đồng Vaticanô II phân biệt rõ ràng “chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật” vốn “khác nhau không chỉ về cấp bậc, mà còn về bản chất, đàng khác nói lên sự bổ túc cho nhau, bởi vì cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô, theo cách thức riêng của mình”. [51]

Từ cái nhìn giáo hội học này, Công đồng Vaticanô II nói rằng việc cử hành Thánh Lễ là việc của toàn thể Hội Thánh, trong đó mỗi người chỉ làm và làm trọn công việc thuộc về mình, tùy theo cấp bậc của mình trong dân Thiên Chúa.

VIỆC THAM DỰ TÍCH CỰC, LINH ĐỘNG VÀ Ý THỨC CỦA DÂN CHÚA

Hiến chế Phụng vụ đã nói lên thao thức của Giáo Hội là mong ước các tín hữu đến với Bí tích Thánh Thể bằng một đức tin sâu xa, một tấm lòng yêu mến, biết ơn và dâng hiến:

“Giáo Hội hằng bận tâm lo cho các kitô hữu đừng tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy (Thánh Lễ) như những khách bàng quang, câm lặng, nhưng nhờ hiểu thấu đáo mầu nhiệm ấy qua nghi lễ và kinh nguyện sao cho họ tham dự hoạt động thánh cách ý thức, thành kính và linh động, cho họ được đào luyện bởi Lời Chúa, được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa, biết tạ ơn Chúa ; trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình ; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Kitô, Đấng Trung gian, họ được tiêu hao trong tình kết liên với Thiên Chúa và với nhau, để cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người” [52].

Khi nhấn mạnh tới điều này, Công đồng Vaticanô đã trở về với truyền thống của các giáo phụ, đặc biệt là với một số bản văn của thánh Augustinô, luôn coi Bí tích Thánh Thể là Hy tế của “Đức Kitô toàn thể” (Le Christ total) gồm Chúa Kitô là Đầu và Giáo Hội là Thân Thể của Người:

“Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hiệp với Hy tế của Chúa Kitô, Đấng Trung gian duy nhất; hy tế này nhờ tay các linh mục, nhân danh Giáo Hội, hiến dâng một cách bí tích và không đổ máu trong bí tích Thánh Thể, cho tới khi Chúa lại đến. Chính việc tế lễ này là điểm nhắm tới và hoàn tất của tác vụ linh mục. Thật vậy, việc thi hành tác vụ của các ngài bắt đầu bằng việc rao giảng Phúc âm, múc lấy sức mạnh và năng lực từ Hy tế của Đức Kitô và kết thúc bằng việc “hiến dâng lên Thiên Chúa toàn thể thành đô được cứu rỗi, đó là cộng đoàn và xã hội các Thánh, như một lễ vật của toàn dân, nhờ vị Linh mục thượng phẩm, cũng là Đấng tự hiến trong cuộc Tử nạn vì chúng ta, để chúng ta trở nên Thân Thể của Người là Đầu vô cùng cao cả” (x. thánh Augustinô, Thành đô Thiên Chúa 10, 6 : PL 41,284). [53]

LINH ĐẠO THÁNH THỂ:

        Nét đặc sắc của Công đồng Vaticanô II khi bàn về Thánh Thể là muốn gửi đến mọi thành phần dân Chúa “một linh đạo thánh thể” phù hợp với từng cách sống.

THÁNH THỂ LÀ NỀN TẢNG VÀ TRUNG TÂM CỦA MỌI CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU

“Không một cộng đoàn kitô hữu nào được thiết lập mà không đặt nền tảng và trọng tâm vào việc cử hành Bí tích Thánh Thể; cho nên mọi nền giáo dục về tinh thần cộng đoàn phải được bắt đầu từ đó”. [54]

“Trong khi hoàn thành công việc thánh hoá, các linh mục quản xứ hãy lo lắng để việc cử hành Hy Tế Thánh Thể phải là trọng tâm và tuyệt đỉnh của toàn thể đời sống cộng đoàn Kitô giáo”. [55]

“Nhờ Hiến Tế Thánh Thể, các cộng đoàn tín hữu luôn được cùng Chúa Kitô hướng tới Chúa Cha”. [56]

“Việc lập lại giao ước của Chúa với con người trong Lễ Tạ ơn nung nấu và lôi cuốn các tín hữu vào trong tình yêu nồng nàn của Chúa Kitô”. [57]

“Vì thế, tiệc Thánh Thể là trung tâm tụ họp các tín hữu mà linh mục là người chủ sự”. [58]

THÁNH THỂ LÀ HƯỚNG ĐI CỦA VIỆC HUẤN LUYỆN CHỦNG SINH

“Các chủng sinh phải được chuẩn bị chu toàn tác vụ phụng vụ và thánh hoá, để thi hành công cuộc cứu rỗi qua Hy tế Thánh Thể và các Bí tích, bằng lời cầu nguyện và nghiêm chỉnh cử hành các nghi lễ phụng vụ”. [59]

“Phải dậy các chủng sinh biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ” (ĐT 8)

THÁNH THỂ LÀ LƯƠNG THỰC NUÔI DƯỠNG ĐỜI SỐNG TU ĐỨC DÒNG TU

“Phải theo tinh thần của Giáo Hội, để đem hết tâm hồn, miệng lưỡi chu toàn các lễ nghi Phụng vụ, nhất là mầu nhiệm Thánh Thể, lại phải nuôi dưỡng đời sống tu đức bằng nguồn mạch phong phú ấy”. [60]

Nét đặc biệt làm nên đời sống tu trì, đó là đời sống cộng đoàn. Vaticanô II xác tín rằng chính Thánh Thể nuôi dưỡng đời sống huynh đệ cộng đoàn:

“Đời sống chung được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc âm, Phụng vụ thánh và nhất là bí tích Thánh Thể phải được duy trì trong lời cầu nguyện, trong sự hiệp thông cùng một tinh thần (x. Cv 2, 42) theo gương Giáo Hội sơ khai”. [61]

THÁNH THỂ LÀ TRUNG TÂM VÀ LÀ CỘI RỄ CỦA TOÀN THỂ ĐỜI SỐNG LINH MỤC

“Thật vậy, đức bác ái mục tử trước hết phát xuất từ Hy Tế Thánh Thể; do đó, Hy tế Thánh Thể là trung tâm và là cội rễ của toàn thể đời sống linh mục; cho nên linh mục phải cố gắng sống thực trong tâm hồn điều mình đã làm trên bàn tế lễ”. [62]

Công đồng khuyến khích các linh mục dâng Thánh Lễ hàng ngày, bởi vì các linh mục là cộng sự viên của ơn cứu độ:

“Công việc cứu chuộc chúng ta được liên tục thực hiện trong mầu nhiệm Hy tế Thánh Thể, trong đó các linh mục chu toàn chức vụ trọng yếu nhất của mình; do đó, hết sức khuyến khích việc cử hành Thánh Lễ hằng ngày, dù các tín hữu không thể tới dự, vì đó là hành động của Chúa Kitô và của Giáo Hội”. [63]

Khi nói đến nhiệm vụ truyền giáo của các linh mục, Công Đồng cho thấy nguồn gốc của chức linh mục có liên hệ mật thiết với Bí tích Thánh Thể:

“Vì nhờ thừa tác vụ riêng của mình, thừa tác vụ này cốt yếu hệ tại Bí tích Thánh Thể, bí tích kiện toàn Giáo Hội, các linh mục thông hiệp với Đức Kitô là Đầu và dẫn đưa kẻ khác đến sự thông hiệp này”. [64]

KẾT LUẬN

Công đồng Vaticanô II với bận tâm mục vụ đã đề cập đến Bí tích Thánh Thể trong tương quan với mọi hoạt động của Giáo Hội. Từ đó, Công đồng đưa ra những áp dụng mục vụ và linh đạo Thánh Thể trong cử hành phụng vụ, đặc biệt là cử hành Thánh Lễ, trong tôn thờ chiêm niệm, trong lời rao giảng, trong hoạt đông bác ái và loan báo Tin Mừng.

Mầu nhiệm Thánh Thể dường như thấm nhập vào trong tất cả các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II. Nhưng có lẽ điều mà Công Đồng ước mong hơn cả đó là mầu nhiệm Thánh Thể thấm nhập và toả chiếu trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.

Lm. Antôn Nguyễn Đức Khiết


[1] DS 1636-1637
[2] DS 1638
[3] DS 1642
[4] DS 1739-1742
[5] PV 24
[6] PV 21
[7] PV 24
[8] PV 35
[9] PV 11
[10] PV 36
[11] PV 34
[12] PV 47
[13] GH 3
[14] Công đồng Triđentinô, khoá XXII, Giáo thuyết về Hy Tế Thánh Lễ, ch. 2 : DS 1743
[15] LM 2
[16] PV 7
[17] Công Đồng Triđentinô, khoá XXII, Giáo thuyết về Hy tế Thánh Lễ, ch. 8
[18] PV 7
[19] PV 10
[20] GH 26, đ. 1
[21] GH 11, đ. 1
[22] GM 15, đ. 2
[23] GH 26
[24] GH 33, đ. 2
[25] GH 7, đ. 2
[26] PV 10, đ. 2
[27] MK 26
[28] GH 17
[29] PV 10, đ. 1
[30] LM 5, đ. 2
[31] TG 9, đ. 2
[32] TG 6, đ. 3
[33] HN 15, đ. 1
[34] HN 22
[35] GH 3
[36] MV 38, đ. 2
[37] GH 48
[38] GH 50, đ. 4
[39] PV 49
[40] PV 50
[41] PV 51
[42] PV 52
[43] PV 53
[44] PV 54
[45] PV 55
[46] PV 56
[47] Công đồng Triđentinô, khoá XXII, Giáo thuyết về Hy tế Thánh Lễ, ch. 8: DS 1749.
[48] Ibidem, ch. 9: DS 1759
[49] Ibidem, ch. 8: DS 1749
[50] PV 36
[51] GH 10
[52] PV 48
[53] LM 2, đ. 4
[54] LM 6, đ. 5
[55] GM 30, đ. 6
[56] TG 15, đ. 2
[57] PV 10, đ. 2
[58] LM 5, đ. 3
[59] ĐT 4
[60] DT 6, đ. 2
[61] DT 15
[62] LM 14, đ. 2
[63] LM 13, đ. 3
[64] TG 39

 

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.