LÒNG HIẾU KHÁCH NHƯ MỘT MẪU SỐNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ
(Hospitality as a Model of Discipleship)
Lu-ca 7, 36 – 50
(Tác giả: Lm. Anthony Marshall, SSS)
[Trích báo Emmanuel – Tháng 7/ Tháng 8, 2009 (Page: 341-347)]
Đoạn văn Tin Mừng theo thánh Lu-ca đề cập đến chủ đề lòng hiếu khách như là mẫu sống của môn đệ Chúa Ki-tô. Đối với các cộng đồng tôn giáo ngày nay, mặc dù có một số phe phái và chia rẽ, lòng hiếu khách vẫn là điều cần thiết để tạo ra bầu không khí yêu thương lẫn nhau.
Làm môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô có nghĩa là gì? Câu hỏi này đã từng là – và vẫn là – một câu hỏi quan trọng cần đặt ra cho đến ngày nay. Đối với cộng đoàn của thánh Lu-ca, câu hỏi về người môn đệ, và điều gì có ý nghĩa trong bối cảnh Dân ngoại của họ vào cuối nửa thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, là một câu hỏi cấp bách. Đó là một câu hỏi đề cập đến cốt lõi của bản sắc Ki-tô giáo. Trong đoạn văn Tin Mừng theo thánh Lu-ca 7, 36-50, tác giả Tin Mừng đã sử dụng một câu chuyện đơn giản về lòng hiếu khách mà một người Pha-ri-siêu đã coi thường và cử chỉ hiếu khách của một người phụ nữ tội lỗi để minh họa cho lời mời gọi sống yêu thương của Ki-tô giáo. Do đó, lòng hiếu khách là một mẫu sống của người môn đệ Chúa Ki-tô đích thực.
Ông Si-mon Người Pha-ri-siêu
Đoạn Tin Mừng theo thánh Lu-ca 7, 36-50 bắt đầu bằng câu đơn giản này: “Và một người Pha-ri-siêu nào đó xin Người [tức là Chúa Giê-su] dùng bữa với ông, và Người vào nhà người Pha-ri-siêu, rồi ngả lưng xuống” (7, 36). Không rõ trong văn bản liệu người Pha-ri-siêu đặc biệt này – sau này được gọi là Si-mon trong câu 40 – có nằm trong số những người tò mò thuộc đám đông lắng nghe Lời giảng của Chúa Giê-su và nghe Người mô tả về thánh Gio-an Tẩy Giả hay không, và liệu ông có nằm trong số những kinh sư và người Pha-ri-siêu mà thánh sử Lu-ca mô tả là đã “từ chối kế hoạch của Thiên Chúa dành cho họ” (7, 30) hay không. Người ta có thể cho rằng thánh sử Lu-ca đã mô tả ông Si-mon là người quan tâm đến cả sứ điệp mà Chúa Giê-su đã rao giảng cho đám đông, và cả đến chính con người của Chúa Giê-su. Lời mời của ông Si-mon đến với Chúa Giê-su cho thấy rằng hẳn đã có sự thu hút và mối quan tâm chung vì Chúa Giê-su cũng có thể từ chối lời mời nếu Người không quan tâm đến lễ hội.
Ông Si-mon không chỉ là một người Pha-ri-siêu bình thường, nhưng thánh sử Lu-ca cho rằng ông là một người Pha-ri-siêu “nào đó”, có thể là trong số đám đông tò mò đang lắng nghe Chúa Giê-su. Có lẽ ông Si-mon đã lắng nghe Chúa Giê-su, và rất có thể ông đã tìm kiếm sự rõ ràng từ Chúa Giê-su về sứ điệp cứu độ của Người và sứ vụ của thánh Gio-an Tẩy Giả, đó là lý do tại sao ông mời Chúa Giê-su dùng bữa tối để họ có thể thảo luận thêm về vấn đề này.
Ông Si-mon được miêu tả là một người Pha-ri-siêu giàu có, đủ giàu để tổ chức bữa tiệc tối cho Chúa Giê-su và những vị khách được mời khác. Rõ ràng, ông Si-mon phải lên kế hoạch chi tiết và danh sách khách mời cho sự kiện này. Hẳn là ông cố tình chọn Chúa Giê-su làm khách của mình.
Người phụ nữ đã xức dầu chân Chúa Giê-su là một vị khách không được mời, nhưng ông Si-mon không đuổi cô ra khỏi bữa tiệc. Ông đã thắc mắc về việc Chúa Giê-su chấp nhận cử chỉ của cô; chứ không phải sự hiện diện của cô. Có vẻ như phụ nữ là một phần thường xuyên của trải nghiệm ăn uống thời xưa, nhưng sự hiện diện của người phụ nữ đặc biệt này là nguyên nhân khiến ông Si-mon lo lắng. Không có nhiều thông tin về người phụ nữ này ngoài những gì thánh sử Lu-ca chỉ ra: cô là một cư dân thành phố và cô có tiếng là tội lỗi.
Con Người Chúa Giê-su
Chúa Giê-su được miêu tả như một nhân vật khôn ngoan (câu 35) đã khéo léo sử dụng dụ ngôn liên quan đến khái niệm đúng đắn về tình yêu Ki-tô giáo để dạy ông Si-mon (40-43). Chúa Giê-su được cho là một Ngôn sứ, vì chính ông Si-mon gọi Người như vậy - mặc dù Người đã sẵn sàng khiêm tốn hạ mình khi chấp nhận sự chú ý của người phụ nữ (câu 39). Chúa Giê-su là Người vui thích lòng hiếu khách; Người thích thú với bữa ăn ngon và các sự kiện xã hội. Vào cuối câu chuyện, thánh sử Lu-ca cho độc giả thấy rằng Chúa Giê-su có thẩm quyền và quyền năng để tha thứ tội lỗi (câu 48). Trên thực tế, từ câu chuyện này, người ta có thể thấy rằng thánh sử Lu-ca miêu tả Chúa Giê-su như: Ngôn sứ, người tha thứ tội lỗi, nhân vật khôn ngoan, người theo chủ nghĩa xã hội và là một đối tác đối thoại có khả năng và nhẹ nhàng. Nói cách khác, Chúa Giê-su là một người nhân hậu và hiếu khách.
Chúa Giê-su chủ yếu được mô tả là người có thể đối thoại một cách lịch sự với những người chỉ trích hoặc lo ngại về những Lời giảng dạy và hành động của Người. Người không ngại dùng bữa tối và phục vụ những người khác với mình. Thánh sử Lu-ca miêu tả cho thấy Chúa Giê-su đã giải quyết một cách hiệu quả các quan điểm khác nhau; đó không phải là vấn đề khó khăn đối với Người.
Thánh sử Lu-ca cũng khéo léo chỉ ra rằng Ki-tô hữu thường quan tâm đến việc chào đón những ai là bạn bè và thành viên của cộng đồng cũng như những người khác biệt và có lẽ là bất đồng với cộng đồng. Lòng hiếu khách được mở rộng và chấp nhận trong cộng đồng của thánh Lu-ca không chỉ đối với bạn bè của mình mà còn đối với toàn thể dân Chúa - cả bạn bè và kẻ thù. Lòng hiếu khách là ví dụ chính về ý nghĩa của việc trở thành một Ki-tô hữu sống yêu thương, và bởi vì cộng đồng của thánh Lu-ca đang tranh luận tìm hiểu xem đâu là ý nghĩa của việc trở thành Kitô hữu, nên câu chuyện này đóng vai trò như một mô hình/mẫu sống.
Người Phụ Nữ Tội Lỗi
Ai là vị khách không mời trong bữa tiệc tối của ông Si-mon? Chúng ta không thể biết nhiều thông tin trực tiếp từ chính văn bản, ngoại trừ việc thánh sử Lu-ca xác định cô là “một người phụ nữ tội lỗi sống trong thành phố” (câu 37). Bằng cách nào đó, người phụ nữ này đã biết được bữa tiệc tối tại nhà ông Si-mon, và rõ ràng là cô dễ dàng bước vào phòng ăn mà dường như không bị chú ý để phục vụ dưới chân Chúa Giê-su. Bản thân điều này có thể thực hiện được tại một bữa tiệc tối như vậy và trong khu vực ăn uống của một ngôi nhà Hy Lạp – Rôma vì cách sắp xếp phòng ăn và chỗ tốt nhất dành cho những vị khách.
Người đọc không bao giờ được biết vì tội gì mà người phụ nữ này đã bị gắn mác là tội nhân. Họ đã có nhiều suy đoán về loại tội mà người phụ nữ này có thể đã phạm phải và do đó cô ấy bị những người khác dán nhãn công khai là tội nhân. Vì thánh sử Lu-ca nhanh chóng đề cập rằng người phụ nữ này đến từ thành phố và rằng cô ấy là một tội nhân, nên mại dâm thường được coi là nguồn gốc chính gây ra tội lỗi của người phụ nữ này. Người ta có thể không bao giờ biết được lý lịch thực sự của người phụ nữ tội lỗi này; nhưng bất kể loại tội nào cô ấy đã phạm, thì những lời chào đón hiếu khách của cô ấy trái ngược với sự thiếu hiếu khách mà ông Si-mon đã thể hiện là một trong những vấn đề trọng tâm của câu chuyện này.
Tình Yêu Mãnh Liệt và Vô Điều Kiện
Hành động hiếu khách của người phụ nữ cho thấy rằng ông Si-mon đã thất bại trong vai trò là người chủ nhà. Ông đã không dành cho khách những cử chỉ thông thường mà khách mong đợi ở một bữa tiệc tối thời xưa. Trong những gì nghe giống với các động từ thuộc cử hành Thánh Thể theo truyền thống (tức là cầm lấy, chúc lành, bẻ ra và trao tặng), thánh sử Lu-ca kể với độc giả của mình rằng người phụ nữ đã lấy một bình bạch ngọc dầu thơm, khóc, rửa, hôn và xức dầu vào chân Chúa Giê-su (các câu 37-38). Vào thời xưa, khách dự tiệc mong đợi người chủ nhà sẽ dành cho một mình số dấu hiệu chào đón rất cụ thể, bao gồm cả việc rửa tay và chân. Do đó, thánh sử Lu-ca miêu tả người phụ nữ khóc và lau khô chân Chúa Giê-su. Ông Si-mon thậm chí còn không dành cho khách một cử chỉ đơn giản là rửa chân hoặc tay của khách.
Rõ ràng, bằng cách đặt những hành động thiếu lịch sự của ông Si-mon cạnh những cử chỉ hiếu khách của người phụ nữ, thánh sử Lu-ca hy vọng làm sáng tỏ rằng lòng hiếu khách là một ví dụ về ý nghĩa của việc trở thành một Ki-tô hữu, một môn đệ chân chính. Người phụ nữ không hề quan tâm đến chi phí – do đó sử dụng bình bạch ngọc dầu thơm đắt tiền – cũng chẳng xâm phạm vào bữa tiệc tối riêng tư và sau đó phải đối mặt với sự chế giễu của chủ nhà và những vị khách khác. Mạo hiểm mọi thứ để bày tỏ tình yêu của mình với người khác trong cộng đồng thánh Lu-ca thì cũng thật đáng giá, và đó chính là mục đích [của cách trình bày mà thánh sử Lu-ca nhắm đến].
Sự diễn tả tình yêu mãnh liệt này được minh họa thêm bằng dụ ngôn (các câu 41-42) mà thánh sử Lu-ca đặt sau những cử chỉ bất thường của người phụ nữ và sự chế giễu sau đó mà Chúa Giê-su nhận được từ ông Si-mon. Dụ ngôn khá hiệu quả khi chỉ cho thấy rằng tình yêu là trọng tâm trong Lời giảng dạy của Chúa Giê-su, và nó làm sáng tỏ rằng cũng giống như tình yêu được chủ nợ trao tặng một cách tự do, thì tình yêu cũng nên được môn đệ tương lai trao tặng như vậy. Tình yêu Ki-tô giáo là vô điều kiện.
“Ông Đã Không …. Còn Chị Ấy Đã…!”
Tiếp theo dụ ngôn là một khoảnh khắc quan trọng. Chúa Giê-su đã hỏi ông ấy một câu hỏi sâu sắc: “Ông đã thấy người phụ nữ này chứ?” (câu 44). Rõ ràng là ông Si-môn đã thấy người phụ nữ này vào nhà mình, xức dầu, khóc lóc và lau khô chân Chúa Giê-su bằng mái tóc xõa của cô. Ông Si-môn đã thấy cô. Nhưng ông Si-mon thực sự không thấy cô hoàn toàn! Ông chỉ thấy một nhãn hiệu “tội nhân”, chứ không phải một người chị em, một thành viên khác của gia đình nhân loại, một người đang cần giúp đỡ. Ông Si-mon cũng thấy Chúa Giê-su nhưng không thấy quyền được tiếp đãi của mình. Bằng cách đặt lên môi Chúa Giê-su một câu hỏi đơn giản nhưng sâu sắc cho người đối thoại với mình, “Ông đã thấy người phụ nữ này chứ?” Thánh sử Lu-ca đã đi vào trọng tâm của câu chuyện này: lòng hiếu khách. Một cú pháp văn chương tuyệt vời cũng được áp dụng: “Ông đã không … Còn chị ấy đã….” Sự kết hợp mạnh mẽ giữa sự thiếu lòng hiếu khách của Si-môn và cử chỉ yêu thương của người phụ nữ bị gạt ra ngoài lề được đánh giá cao là chìa khóa diễn giải cho đoạn văn này. Đây thực sự là khoảnh khắc dạy dỗ của Chúa Giê-su. Cử chỉ hiếu khách của người phụ nữ là sự đáp lại sự hiện diện của Chúa Giê-su chứ không chỉ là phương tiện để đạt được mục đích. Điều chắc chắn là tình yêu Ki-tô giáo có nghĩa là [tình yêu] vô điều kiện.
“Lòng Tin Của Chị Đã Cứu Chị!”
Đoạn văn Tin Mừng kết thúc với cảnh Chúa Giê-su tha thứ tội lỗi cho người phụ nữ và những vị khách khác thì kinh ngạc khi họ hỏi: “Ôn này là ai mà lại tha được tội?” (câu 49). Không giống như trước, Chúa Giê-su đã không trả lời cho câu hỏi của họ về danh tính của Ngài. Thay vào đó, Ngài đã quay sang người đã trao cho Ngài tình yêu và sai chị đi như một môn đệ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (câu 50). Người phụ nữ được ban cho những lời an ủi và được sai đi làm sứ mệnh. Đức tin của cô vào Chúa Giê-su, được thể hiện qua cử chỉ hiếu khách của cô, đã cứu rỗi cô. Cộng đoàn Ki-tô giáo cũng vậy. Đức tin dẫn đến sự cứu rỗi và đức tin được thể hiện qua tình yêu thương dành cho nhau. Ông Si-môn đã thiếu lòng hiếu khách và do đó đã nằm trong số những người “từ chối kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chính họ” (câu 30). Người phụ nữ đã được cứu – thoát khỏi – tội lỗi của mình và có lẽ, cũng thoát khỏi tiếng xấu là người tội lỗi trong ánh mắt ông Si-mon và những vị khách khác. Lòng hiếu khách đóng vai trò là kiểu mẫu sống để chỉ cho thấy cách thức cộng đoàn Ki-tô giáo được cứu rỗi ngang qua tình yêu thương.
Sự Hiếu Khách Trong Đời Sống Tu Trì Ngày Nay
Đối với độc giả của thánh sử Lu-ca, câu chuyện này nhằm cung cấp cho các môn đệ một kiểu mẫu sống để hiểu thế nào là trở thành Ki-tô hữu. Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ, theo cách riêng của mình, đang phấn đấu sống đúng với ý nghĩa của Giáo hội – Dân Thiên Chúa. Trong chuyến viếng thăm mục vụ năm 2008 tới Hoa Kỳ, Đức Giáo hoàng Bê-nê-dic-tô XVI đã nói nhiều về vị trí độc đáo của Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ. Trong bài giảng tại Thánh lễ dành cho các tu sĩ, linh mục, phó tế và chủng sinh ở New York, Ngài cũng lưu ý rằng: “Cùng với lời kêu gọi của Công đồng Va-ti-ca-nô II tham gia nhiều hơn vào sứ mệnh của Giáo hội đối với thế giới, thì một trong những sự thất vọng lớn sau Công đồng là kinh nghiệm chia rẽ giữa các nhóm khác nhau, các thế hệ khác nhau, các thành viên khác nhau của cùng gia đình tu sỹ.”
Các chủng sinh và tu sĩ trẻ tuổi bước vào các học viện đời sống thánh hiến ngày nay đang gia nhập hàng ngũ giáo sĩ và tu sĩ với sự hiểu biết, di sản và kinh nghiệm về Giáo Hội khác với các thế hệ trước họ. Làm thế nào để bắt đầu hàn gắn những chia rẽ trong cộng đoàn tu trì, nhà xứ và gia đình giáo xứ?
Thật không may, những nhãn hiệu như “tự do” hay “bảo thủ” thường được sử dụng để gạt những người có quan điểm khác ra ngoài lề và loại trừ đối thoại trong tình bác ái. Trong câu chuyện, ông Si-mon đã không làm như vậy khi ông gạt người phụ nữ ra ngoài lề bằng một rất cách đơn giản khi cho rằng cô ấy là một tội nhân sao? Rõ ràng, sự căng thẳng phát sinh từ các quan điểm thần học khác nhau không phải là điều mới mẻ trong lịch sử của Giáo Hội. Trong câu chuyện, Chúa Giê-su đã có thể đối thoại với ông Si-mon vốn là người Pha-ri-siêu mà không bác bỏ hay đuổi ông ra ngoài lề. Chúa Giê-su đã không dán nhãn ông Si-mon hay người phụ nữ, Ngài chỉ đơn giản là cho họ biết sự thật trong tình yêu thương.
Kết luận
Người phụ nữ này và ông Si-mon trong câu chuyện có thể dễ dàng đại diện cho hai quan điểm thần học hoặc kinh nghiệm khác nhau trong Giáo Hội ngày nay. Chúa Ki-tô đã chỉ cho thấy đâu là trung tâm và điểm khởi đầu cho sự hiệp thông; ở đây tình yêu là điều cốt yếu. Trong câu chuyện, Chúa Giê-su chỉ ra cho ông Si-mon hiểu rằng mỗi môn đệ tương lai đều được kêu gọi để yêu thương - như được minh họa trong câu chuyện về hai người mắc nợ. Ông Si-mon rõ ràng yêu Chúa Giê-su, nhưng liệu ông có yêu Ngài nhiều như người phụ nữ ở bên lề xã hội không? Mỗi thành viên của cộng đoàn tu có lẽ đều có tình yêu dành cho Chúa Ki-tô, Giáo Hội và đặc sủng sáng lập của hội dòng mình. Nhưng tình yêu này có được phản ánh trong cách mỗi thành viên đối xử với những người khác, ví dụ như, tại bàn ăn không? Có lẽ khởi điểm về lòng hiếu khách trong Giáo Hội là tại bàn tiệc – tức là, bàn thờ và bàn ăn trong phòng ăn.
Khi các linh mục và thành viên của các cộng đoàn tu tìm thấy tình yêu chung, bắt nguồn từ Chúa Giê-su Ki-tô, thì tình yêu đó chắc chắn sẽ được phản ánh rõ ràng hơn trong sứ vụ và đời sống chung. Theo cách này, các linh mục và tu sĩ “sẽ cùng nhau tiến tới sự canh tân tinh thần đích thực mà Công đồng mong muốn, một sự canh tân chỉ có thể củng cố Giáo Hội trong sự thánh thiện và hiệp nhất không thể thiếu để công bố Tin Mừng một cách hiệu quả trong thế giới ngày nay”. Sự hiếu khách dành cho nhau tại bàn ăn và bàn thờ nơi Nhà thờ là điều cần thiết cho vinh quang cao cả hơn của Thiên Chúa và ơn cứu độ các linh hồn.
Hơn nữa, lòng hiếu khách đảm bảo sự tôn trọng chung và tình yêu đối với mỗi người được tạo dựng một cách độc đáo theo hình ảnh Chúa và giống Chúa. Các thế hệ tu sĩ và linh mục trẻ hơn thừa hưởng một di sản tuyệt vời để tiếp tục xây dựng nhờ vào sự hy sinh đầy yêu thương của những tu sĩ và linh mục lớn tuổi hơn mà giờ đây những linh mục/tu sỹ trẻ này dám đứng trên lưng họ.
Tất nhiên, thánh sử Lu-ca không viết cho các linh mục và tu sĩ. Tất cả các Ki-tô hữu được mời gọi trở thành những người yêu mến Thiên Chúa lẫn yêu thương nhau, và chính tình yêu dẫn đến ơn cứu độ. Đoạn Tin mừng theo thánh Luca 7, 36-50 minh họa cho Giáo Hội ngày nay hiểu rằng, bất chấp các phe phái và chia rẽ, lòng hiếu khách là điều cần thiết để tạo ra bầu không khí yêu thương lẫn nhau. Sự biểu lộ tối hậu của tình yêu này tất nhiên là cuộc khổ nạn, sự chết và sự Phục sinh của chính Chúa Giê-su, giờ đây được cử hành và sống trong Bí tích Thánh Thể. Trong bối cảnh của Giáo hội, lòng hiếu khách dành cho nhau là một mô hình của tình yêu Ki-tô giáo; một tình yêu thật cần thiết cho sự hiệp thông và dẫn đến ơn cứu độ.
Mỗi khi chúng ta quy tụ để cử hành và tham gia tích cực vào hy tế Thánh Thể, chúng ta đang tham gia vào hành động hiếu khách thiêng liêng nhất. Chúng ta được nuôi dưỡng và được sai đi để tỏ lòng hiếu khách với nhau theo gương Chúa Giê-su Ki-tô.
(Chuyển ngữ: Lm. Giuse Đinh Đức Huỳnh, SSS)