Mỗi Mùa Có Ơn Riêng

MỖI MÙA CÓ ƠN RIÊNG 

MÙA CHAY


      Việc thiết lập Mùa Chay đã có từ thế kỷ thứ 4. Đây là giai đoạn cuối cùng nhằm chuẩn bị cho anh chị em dự tòng lãnh nhận các bí tích khai tâm của Ki- tô giáo (Rửa Tội, Thêm sức, Thánh Thể) vào Đêm vọng Phục Sinh. Mùa Chay cũng là thời kỳ cuối cùng để những ai phạm tội trọng (những tội nhân công khai) và những ai bị rút phép thông công tham dự Thánh Lễ, giữ chay và tỏ lòng thống hối, để sau đó được hòa giải bằng một cử hành đặc biệt vào sáng Thứ Năm Tuần Thánh. Cộng đoàn đã đồng hành với một vài người trong số họ, và dần dần chiều kích Thanh Tẩy và thống hối của Mùa Chay đã được toàn thể cộng đoàn thừa nhận. Cách riêng, nghi thức xức tro, ban đầu chỉ dành cho các tội nhân, nhưng sau đó được dành cho mọi người, để đánh dấu sự khởi đầu của Mùa Chay. Tầm quan trọng của việc giữ chay, sống nhiệm nhặt và khổ chế dần dần đưa vào thời đó một đặc tính thống hối nặng nề, nhằm tăng thêm vẻ u buồn. Việc giữ chay vào Mùa Chay (trừ Chúa Nhật) cốt ở chỗ: mỗi ngày chỉ dùng một bữa chính, và hai bữa nhẹ trong ngày. Thứ Tư Lễ Tro và các ngày Thứ Sáu cũng là những ngày kiêng ăn thịt. Tuy nhiên, Giáo hội lại cho phép những miễn trừ riêng và chung, phù hợp với nhu cầu của thời đại và dân chúng.
      Vào thời cha Eymard, Mùa Chay bắt đầu sau ba Chúa Nhật: Quinquagesima (Chúa Nhật trước Tuần Chay, 50 ngày trước lễ Phục Sinh), Sexagesima (Chúa Nhật 60), và Septuagésima (Chúa Nhật 70) (gọi là các Chúa Nhật trước Mùa Chay). Giống như ngày nay, Mùa Chay bắt đầu với Thứ Tư Lễ Tro, trong 5 Chúa Nhật tiếp đó, các bài Tin Mừng được công bố: Chúa Nhật thứ I nói về việc Đức Giê- su trong hoang địa (Mt 4,1-11); Chúa Nhật thứ II: Chúa biến hình (Mt 17,1-9); Chúa Nhật thứ III: chữa lành người bị quỷ ám (Lc 11,14- 28); Chúa Nhật thứ IV: Hóa bánh ra nhiều (Ga 6,1-15). Chúa Nhật thứ V gọi là Chúa Nhật Thương Khó, và bắt đầu giai đoạn cuối cùng của Mùa Chay (Passiontide), nhấn mạnh đến lòng căm thù mà các kẻ thù dành cho Đức Giê- su và những đau khổ của Người. Vào Chúa Nhật thứ V, các ảnh tượng và thánh giá trong các nhà thờ cũng được phủ khăn. Tin Mừng Gioan 8,46-59 được công bố (cuộc đối chất với người Do Thái về căn tính của Người).
      Trong linh đạo Mùa Chay hiện nay, việc giữ chay đã mất đi nhiều tầm quan trọng so với thời trước. Ngược lại, giá trị của chiều kích thanh tẩy lại trổi vượt hơn. Lời mời gọi hoán cải đã khôi phục lại chiều kích cộng đoàn và việc chăm chú lắng nghe Lời Chúa chiếm một vị trí quan trọng. Sách Bài Đọc cũng rất khác. Chẳng hạn như trong các Chúa Nhật, chủ đề Phép Rửa cũ đã được phục hồi (năm A), và hai chu kỳ mới cũng được thêm vào (B,C).
1. Thứ Tư Lễ Tro
      Bản văn này diễn tả rõ linh đạo Mùa Chay, cũng như những điểm nhấn của nó vào thời cha Eymard. Bắt đầu với nghi thức xức tro, bản văn này triển khai thành một bài suy niệm về ba điểm:
       - Tro gợi nhắc chúng ta về nơi xuất xứ của mình: về cát bụi, và do đó chúng ta được mời gọi sống khiêm tốn.
      - Nghi thức này, ban đầu được dành cho các tội nhân công khai, nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân, do vậy chúng ta nên tỏ lòng ăn năn và hoán cải.
       - Tro nhắc cho chúng ta biết chúng ta sẽ trở về với cát bụi, do đó tro nhắc chúng ta về cái chết chắc chắn xảy đến, về những việc mà hết thảy chúng ta phải chuẩn bị.
      Để đi vào tinh thần của Giáo hội và lòng đạo đức của anh chị em, không gì tốt hơn bằng việc giải thích ý nghĩa của ngày lễ tro. Tro nói rõ lên ba sự thật: sự khiêm hạ nơi nguồn gốc của chúng ta, cần phải hoán cải, cái chết cận kề.
       Sự khiêm hạ nơi nguồn gốc của chúng ta

      Trước hết: Giáo hội khai mạc Mùa Chay thánh bằng việc xức tro lên đầu, với lời nhắc nhở: Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro [x. St 3,19].
      Đó chính là cội nguồn của chúng ta, đó chính là thành phần làm nên bản tính nhân loại của chúng ta. Vì thế, Chúa Thánh Thần có nhiều lý do để phán rằng: Làm sao tro bụi lại dám kiêu căng? [Hc 10,9] Không có gì trong tro cả: không quyền sở hữu, không khả năng, không tiềm năng: vì thế, không có giá trị nội tại nào nơi con người cả, không có gì cả; thật là hư vô trống rỗng, một chút tro bụi đã trở thành con người nhờ quyền năng Thiên Chúa. Vậy nên, nếu con người là hư vô trống rỗng, nếu con người có bất kỳ phẩm chất hay công trạng nào, thì tất cả đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và thuộc về Ngài.
      Nếu con người làm được những việc lớn lao, thì vinh quang phát xuất từ ân sủng Chúa, là Đấng giúp con người hành động và đạt được thành công.
      Tro bị chà đạp, nhưng chúng không phàn nàn, chúng sẽ sai khi làm như thế, vì đó là nơi ở bẩm sinh dành cho chúng, đó cũng là nơi ở của chúng ta, vì chúng ta chỉ là một chút cát bụi mà thôi; và đó là chỗ dành cho chúng ta để đưa ra một lý do chính xác hơn, bởi lẽ tội lỗi đã thâm nhập vào trong chúng ta. Ngày nào đó chúng ta sẽ bị mọi người giẫm lên, nhưng chẳng có bất kỳ công phúc nào. [...]
      Tro được Giáo hội làm phép, để chúng có thể trở nên những dấu hiệu và kênh chuyển thông ân sủng. Ân sủng gì vậy? Thưa, ơn hoán cải, là chân lý thứ hai mà tro muốn nói tới.
        Cần phải hoán cải

       Giáo hội xức tro vào đầu Mùa Cha nhằm nhắc chúng ta rằng vì là những tội nhân, chúng ta phải cố gắng hoán cải.
       Vào thời kỳ sám hối tập thể của các tội nhân, Giáo hội, trong ngày đầu tiên của Mùa Chay, sẽ đưa họ đến cửa cung thánh, và tại đó, Giáo hội tuyên bố họ là những hối nhân qua việc xức tro và đề ra cho họ việc thực hành sám hối, sau đó mời họ về, vì họ cảm thấy bất xứng khi tham dự cùng cộng đoàn; họ không còn vào nhà thờ nữa cho tới khi kết thúc việc sám hối của mình. Họ vẫn đứng ở bên ngoài cửa, cầu nguyện ở đó, và van xin sự trợ giúp của anh chị em giáo dân. Giáo hội, theo sự khôn ngoan của mình, đã bảo toàn việc thực hành kỷ luật này chỉ trong ngày lễ Tro, nhưng lại khuyên phải có lòng khiêm nhường và ăn năn thống hối.
      Thế nhưng, vì sao phải là việc sám hối tập thể bề ngoài như vậy? Phải chăng chúng ta không thể sám hối cách hiệu quả bằng những bộ áo quần bình thường, và thậm chí là những trang phục đắt tiền? Vâng, đúng thế, vì chúng ta có thể nhìn vào vài vị đại thánh- các thánh nam và nữ- đã ăn năn sám hối giữa cảnh sa hoa, với những áo choàng lộng lẫy và kim cương hột soàn. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận là những biểu hiện bên ngoài của việc sám hối thì rất hữu ích, nó thôi thúc những tâm tình bên trong. Người phàm cần có một dấu chỉ hữu hình. Hãy để ý đến lời chứng của việc này trong các huấn thị về sám hối. Anh chị em có thể tưởng tượng ra là cách nhìn về những thói quen thô kệch và đáng khinh bỉ trong những huấn thị này thật mãnh liệt dường bao: chúng luôn là một huấn dụ mời gọi sám hối. Và chẳng phải là Giáo hội đã làm điều tương tự như thế sao? Hãy để ý đến cách Giáo hội khoác lên mình phẩm phục có màu sắc u sầu: chúng ta chỉ nghe những bài thánh ca buồn trong đền thánh, và chỉ có những tiếng thở than cùng những lời nguyện xin thống hối và lòng thương xót. Và một ý tưởng khác về sự công chính: chúng ta phạm đủ thứ tội do thân xác của mình gây nên. Tội hão huyền và tội lỗi đam mê dục vọng; chỉ có công lý mới giúp người phạm tội đền tội mà thôi.
      Hỡi các chị em yêu dấu, nào chúng ta hãy mau đền mọi tội lỗi của mình ở trần gian này, vì thời gian sám hối rất vắn vỏi, cái chết có thể đang đứng ngoài cửa, và đây là sự thật thứ ba mà tro muốn tuyên bố với chúng ta.
       Cận kề với cái chết

      Chúng là những dấu chỉ tưởng nhớ đến cái chết. “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”. Đó là điều xảy đến với chúng ta, một chút bụi khô cằn, không tên tuổi, không nét độc đáo nào, không chút thanh danh, và không tình yêu. Ôi chao! Bởi vậy, chúng ta không được tôn sùng thân xác này, nhưng dùng thân xác như một lễ vật đền tội.
      Tro là dấu chỉ sự chết. Khi muốn đốn một cái cây, chúng ta đánh dấu cái cây đó; nó không còn được chăm bón nữa, chúng ta không còn đếm quả của nó nữa. Sự chết cũng nhắc chúng ta về sự trường cửu; vậy nên, chị em của tôi ơi, chúng ta không còn sống cho thế gian này nữa, nơi mà có lẽ chúng ta sẽ không còn ở nữa, vì ôi chao! Ai biết điều này có phải là mục tiêu sau cùng, lời tiên báo sau cùng về sự chết của chúng ta không? Có lẽ là như thế.
      Vì vậy, chúng ta hãy sẵn sàng bỏ lại, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, thì bấy giờ chúng ta mới luôn bình tĩnh và thanh thản. Khác với người mắc phải lỗi lầm, người phạm tội, người lo sợ ông chủ và vị thẩm phán của mình tới. Ai đang làm việc bổn phận của mình, người ấy sẽ khao khát và chờ mong ông chủ của mình đến trong niềm tin cậy. [...]
      Hãy sống mùa sám hối này như thể đây là ngày cuối đời của mình vậy, như thể anh chị em cùng chết với Đức Giê-su Ki-tô, và cùng sống lại với Người trong vinh quang muôn đời.
      Ngày 28 tháng 2 năm 1849 Thứ tư sauChúa Nhật thứ I Mùa Chay (PT 131,1-3)
2. Con đường thánh thiện đích thực
      Trong bài suy niệm này, cha Eymard triển khai một chủ đề quen thuộc với ngài, và là chủ đề mà ngài đề xuất như một đường mòn trong Mùa Chay. Để có được tình yêu chân thật của Thiên Chúa, thì việc trung thành tuân giữ lề luật và các nhân đức, là chưa đủ. Trái lại, điều cần thiết là phải làm những gì đẹp lòng Chúa, vì vinh quang của Ngài; điều cần thiết là chỉ muốn những gì làm đẹp lòng và tôn vinh Chúa mà thôi.
      Hãy xem, thời gian trôi qua mau, Mùa Chay đã đến rồi, [...] để đi tới, cũng như nói về Thứ Sáu Tuần Thánh, Lễ Phục Sinh với niềm vui, Lễ Thăng Thiên, Lễ Mình Máu Chúa Ki-tô, và chúng ta tiến về thiên đàng. Thánh Phao-lô thường nói: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta [x. Rm 8,18]. Chúng ta luôn phải nhìn mọi sự như Chúa nhìn chúng, vì mục đích là tôn vinh Ngài, và chính vì thế tôi muốn thu hút sự chú ý của chị em.
      Hỡi chị em, có hai phương thế để thánh hóa hành động của chúng ta nhằm tôn vinh Chúa. Phương thế đầu tiên chính là làm việc thiện vì việc thiện, thực hành nhân đức vì nhân đức, làm những việc lành vì ơn cứu độ và sự trọn lành của chúng ta, tắt một lời là, vì động lực siêu nhiên. Động lực này tôn vinh Thiên Chúa, nhưng qua một con đường nhỏ bé, linh hồn không cảm thấy hài lòng, nó không bước vào đường chân lý, linh hồn đi vào một phương thế mà chúng ta gọi cách gián tiếp là, nó có thể dừng lại trên con đường này, và làm hư hao những gì là đẹp nhất và thánh thiện nhất. Để đạt được tình yêu, tình yêu Thiên Chúa ngang qua lề luật và các nhân đức, điều này tốt, nhưng nó vẫn không đáp ứng được nhu cầu cần thiết của chúng ta, một sự hài lòng, một sự nghỉ ngơi đôi chút sau khi làm việc. Hỡi chị em, hãy để ý rằng chị em sẽ chẳng bao giờ hài lòng với điều lành chị em làm; Thiên Chúa không muốn chị em dừng lại ngay cửa, chị em sẽ chỉ hạnh phúc khi chị em đạt được mục tiêu mà thôi.
       Hãy nhớ rằng linh hồn nào luôn cảm thấy hài lòng, hạnh phúc, và tự do, là những linh hồn lao tác vì vinh quang của chính Thiên Chúa, vì vinh quang của Người.
      Trong hành động của họ, luôn có niềm vui và sự tự do; khi hành động được hoàn tất, sẽ không còn kinh nghiệm về sự dịu ngọt và bình an nữa; khi hành động được hoàn tất, tâm trí của anh chị em sẽ đi nơi khác, nó luôn di chuyển. Trái lại, khi chúng ta làm việc vì niềm vui thích, vì vinh quang chính đáng của Thiên Chúa, thì tâm hồn chúng ta không phải là mục tiêu. Nó vui hưởng và hạnh phúc, nó đặt mình vào trong vinh quang của Thiên Chúa, là chính mục tiêu đích thực của nó. Khi điều ấy xảy ra, chúng ta cảm thấy hài lòng và hạnh phúc, và chúng ta áp dụng bản thân mình vào mọi thứ, vì tâm hồn chúng ta chỉ muốn những gì làm đẹp lòng Chúa, những gì có thể tôn vinh Người, và những gì có thể làm đẹp lòng Người ngay giây phút này, chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta hiểu rằng mình được tuyển chọn để làm những điều đẹp lòng Chúa.
      Tôi không biết phải giải thích thế nào cho rõ nữa: linh hồn chỉ hạnh phúc khi linh hồn ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa.
      Ngày 19 tháng 2 năm 1864, Thứ sáu sau Chúa Nhật thứ I Mùa Chay (PS 501,1-2)
3. Suy gẫm về cuộc thương khó của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta
      Đây là bài suy gẫm của cha Eymard khi cha còn là một tu sĩ Dòng Đức Mẹ (Marist), bài suy gẫm này dành cho nhóm các “trinh nữ” (một nhánh của Hội dòng Ba Đức Mẹ) tại Lyon. Đây là một lời mời gọi thường xuyên suy gẫm về cuộc khổ nạn của Chúa, hầu hiểu được mầu nhiệm tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Khi trích lời của thánh Phao-lô, cha Eymard khẳng định tầm quan trọng của việc được trở thành những người lãnh nhận tình yêu này.
      “Để kết hiệp với tinh thần của Giáo hội trong suốt Mùa Chay thánh này, điều ích lợi dành cho chúng ta đó là dành giờ suy gẫm cuộc khổ nạn của Chúa, vì lòng sùng kính đối với cuộc thương khó nên là nền tảng cho nhân đức của chúng ta và là linh hồn cho lòng đạo đức của chúng ta. Thánh Phan-xi-cô đờ San thường nói rằng bất kỳ lòng sùng kính nào mà không đặt nền trên cuộc Thương Khó của Đấng Cứu Độ, thì sẽ không vững chắc, vì nó thiếu một nền tảng. Những động lực khiến chúng ta cam kết suy gẫm về Cuộc Thương Khó này là rất mạnh.
       1. Qua việc suy gẫm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ hiểu đôi chút về mức độ nghiêm trọng và sự xấu xa của tội lỗi khi thấy Chúa Giê-su đã phải chịu đau khổ nhiều để hoàn toàn đền tội. Và khi chúng ta suy niệm để thấy được rằng chính tội lỗi của mình là nguyên nhân chính đưa đến những đau khổ của Chúa Giê-su, hẳn chúng ta phải có một con tim chai đá lắm khi không biết ghê tởm tội lỗi của mình, không biết rơi lệ dưới chân thập giá cùng với những tên lí hình đang đấm ngực đau buồn vì đã đóng đanh Đấng Công Chính.
        2. Qua việc suy gẫm về Cuộc Khổ Nạn mà linh hồn mới hiểu được nhân đức và mới có thể thăng tiến được.
      Thánh Bô-na-ven-tu-ra đã nói: “Bạn có muốn thăng tiến từ nhân đức này đến nhân đức khác, từ ân sủng này đến ân sủng khác? Hãy suy gẫm Cuộc Khổ Nạn của Chúa mỗi ngày nhé. Không có bài luyện tập nào hữu ích hơn để hoàn thiện sự thánh hiến linh hồn, cho bằng thường xuyên suy gẫm đến những đau khổ của Đức Giê-su Ki-tô”.
       Vậy giờ đây, hỡi chị em, chúng ta có thể tin thánh Bô-na-ven-tu-ra, vì ngài đang nói từ chính kinh nghiệm bản thân; ngài biết ngài mắc nợ Chúa Giê-su chịu đóng đinh điều gì. Điều đó nhắc nhở tôi về biến cố sau đây: ngày nọ, thánh Tô-ma A-qui- nô hỏi thánh Bô-na-ven-tu-ra xem ngài đã rút ra những giáo lý tuyệt vời ấy ở đâu, để xuất bản và ghi chép lại, thánh Bô-na- ven-tu-ra chỉ cho thánh Tô-ma xem bức ảnh chịu nạn, mọi vẻ u buồn từ những nụ hôn mà ngài để lại trên bức ảnh ấy: đây là quyển sách của tôi- ngài nói với thánh Tô- ma. Đó là nơi tôi đã tìm được mọi thứ để viết ra; tôi biết rất ít, từ chính quyển sách mà tôi đã học.
       Hỡi chị em, đó là bí mật của sự khôn ngoan nơi các thánh, đó là khuôn vàng thước ngọc; vâng, nhân đức nào không dựa trên nền tảng là thập giá Đức Giê- su thì sẽ không tăng tiến, nó thiếu đi nhựa sống vốn làm nên các vị tử đạo; nhân đức nào chỉ yêu mến Đức Giê-su vì chính mình, sẽ dừng lại tại cánh cửa của Vườn Dầu; nếu nhân đức đi lên cung điện của vị thượng tế như thánh Phê-rô, thì sẽ có cảm nghiệm đáng buồn về sự yếu đuối của mình; thế nhưng, để cùng đi với Chúa Giê-su lên đồi Can-vê, đến dưới chân thập giá và ở đó cho đến lúc chết, thì nó sẽ cần phải hiểu được mầu nhiệm của tình yêu nơi thập giá.
      3. Qua việc suy gẫm Cuộc Khổ Nạn, chúng ta sẽ hiểu được mầu nhiệm tình yêu này. Không có Cuộc Khổ Nạn của Đấng Cứu Độ, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể hiểu được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta.
      Cicero, một người ngoại đạo, đã nói: tình yêu có hai dấu chỉ mà qua đó người ta có thể nhận ra nó: làm điều tốt cho người chúng ta thương mến, và chịu đau khổ vì tình yêu. Dấu chỉ thứ hai này cho thấy tình yêu trọn hảo.
      Ôi! Chúa Giê-su đưa ra cho chúng ta hai bằng chứng về tình yêu: những ích lợi của Người và những đau khổ của Người. Quả thực, những đau khổ Người đưa ra cho chúng ta chính là dấu chứng về tình yêu lớn lao của Người: “Ngườiphán: Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình [Ga 15,13]; và Chúa Giê-su hiến mình vì chúng ta, thánh Phao-lô nói: Người hiến mình vì chúng ta khi chúng ta còn là thù địch của Người [x. Rm 5,10].
      Và đây, kết luận rất an ủi: nếu Đức Giê- su quá yêu thương chúng ta, khi chúng ta còn là kẻ thù của Người, là những kẻ bắt bớ Người, những kẻ tra tấn Người, thì giờ đây chúng ta phải rơi lệ vì tội lỗi của mình, và khát khao yêu mến Người, chẳng lẽ Người sẽ từ chối chúng ta sao?
      Thế nhưng, một ý nghĩ còn sốc hơn nữa, liên quan đến tình yêu của Chúa Giê- su chịu đóng đinh, đó là ý nghĩ của thánh Phao-lô: khi đồng hóa mầu nhiệm cứu độ nơi chính con người của mình, Phao-lô đã dám nói và viết những lời này: Đức Giê- su Ki-tô đã yêu thương tôi và đã hiến mình vì tôi [Gl 2,20]. Thế nhưng, ngài đang nói gì vậy! Phải chăng thánh Phao- lô đã quên rằng Đức Giê- su Ki-tô đã chết vì toàn thể loài người? Vì sao đây dường như được xem là tình yêu quy ngã nơi con tim của Phao-lô? Chao ôi! Chính vì con tim không còn có thể chứa đựng được chính nó, và nếu loài người hiểu được chân lý này, thì cõi lòng họ dường như sẽ chịu sức ép.
      Khi thánh Phao-lô nói: Giê-su Ki-tô đã yêu thương tôi và đã hiến mình vì tôi, ngài có ý nói rằng Chúa Giê-su đã hóa nên người, đã chịu mọi sự tra tấn trong cuộc Khổ Nạn vì một người, vì một mình ngài là Phao-lô, cũng như vì toàn thể nhân loại: và điều Đức Giê-su đã làm trong trường hợp chỉ có một tội nhân được cứu chuộc, thì thánh Phao-lô đã áp dụng cho chính bản thân ngài: Người đã yêu thương tôi; và, liên quan đến điều này, thánh Gioan Kim Khẩu nói: Thiên Chúa quá yêu thương từng người, cũng như yêu thương toàn thể thế gian.
      Chúng ta cũng có thể noi gương thánh Phao-lô, khi thừa nhận rằng chúng ta chỉ là tội nhân nơi trần gian, và Chúa Giê-su cứu chuộc chúng ta trên đồi Can- vê và đã chịu chết vì yêu thương chúng ta; thế nên chúng ta sẽ hiểu được vì sao Đấng Cứu Độ lại phán rằng: Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi [Ga 12,32]; vì trên thập giá, có một người yêu vô cùng mãnh liệt, người ấy đã lôi kéo mọi con tim.
      Ý tưởng thứ ba có thể khiến chúng ta biết ơn tình yêu của Chúa Giê-su chịu đóng đinh hơn, đó là: để hoàn toàn cứu chuộc chúng ta, Người đã không bị thúc ép chịu đau khổ và chịu chết; chỉ một tiếng than thở cũng là đủ, một giọt lệ, hay chỉ một lời cầu nguyện mà thôi. Thế nhưng, theo thánh Gioan Kim Khẩu, những gì khỏa lấp ơn cứu chuộc của chúng ta, sẽ không khỏa lấp được tình yêu của Người; và đó là lý do vì sao, theo thánh Phao-lô, Chúa Giê-su Ki- tô đã chọn những sự hèn hạ và xấu hổ của thập giá, nhằm cứu chuộc chúng ta và minh chứng tình yêu của Người dành cho chúng ta [Hr 12,2].
      Để đi vào tinh thần của những đau khổ nơi Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta phải quan sát hai điều: trước hết là xem chúng không phải là những sự kiện đã diễn ra khá lâu ở Giê-ru-sa-lem, nhưng xem chúng là điều gì đó đang bày ra trước mắt chúng ta. Đó là quy luật do thánh Lê-ô Cả đề ra.
      Thứ hai là, áp dụng những đau khổ ấy vào chính bản thân mình như là hoa trái của những suy niệm của chúng ta; như thể Đức Giê-su Ki-tô đã chịu đau khổ cho chỉ mình chúng ta vậy.
      Ngày 23 tháng 2 năm 1847 Thứ ba sau Chúa Nhật I Mùa Chay (PT 25,1-3)
4. Không có tình yêu nếu không hy sinh
      Bản văn này là bài suy gẫm đầu tiên được đề ra cho ngày tĩnh tâm của cộng đoàn tại Paris. Cha Eymard nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bước theo quan lộ mà Giáo hội đề ra trong suốt năm phụng vụ, đó là cách tốt nhất để làm cho kinh nghiệm thiêng liêng của mình bén rễ sâu nơi những mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Thực ra, trong cuộc Thương Khó, Chúa đã giãi tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Tình yêu của chúng ta dành cho Người cũng gia tăng nhờ thử thách của thập giá.
      Chúng ta đang suy gẫm về Cuộc Khổ Nạn của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta mà Giáo hội sẽ cử hành vào ngày mai. Thánh Phan-xi-cô đờ Xan nói rằng nền tảng của tình yêu dành cho Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta chính là lòng sùng kính Cuộc Khổ Nạn của Người, nói rộng ra hơn là ai không có lòng sùng kính này, sẽ không có được tình yêu đích thực, và vì sao vậy? Thưa, bởi vì người ấy không hiểu được sự hy sinh. Chúa đã chịu khổ nạn như một lời chứng và chứng tá về tình yêu dành cho nhân loại; Người đã luôn nói về điều đó và tiếp tục nói với các môn đệ, cũng như toàn thể dân chúng. Người nhắc nhở các tông đồ của mình về việc Người phải chịu đau khổ tại Giê-ru-sa- lem, đến nỗi các tông đồ chán ngán, và thánh Phê-rô, dù bộc trực nhưng rất đáng yêu, cuối cùng cũng nói với Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy [Mt 16,22]. Và Chúa đã bảo ông: Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. [x. Mt 16,23]. Vì sao thế nhỉ? Để loài người có thể hiểu biết bằng cặp mắt đức tin, và để họ có thể làm như thế, cần phải hiểu rõ rằng nếu không hy sinh, thì sẽ không có tình yêu.
      Chúng ta có thể nói như Sách Gương Phúc: Trót đời Chúa Giê-su Ki-tô chỉ là Thánh giá và tử đạo [Gương phúc, Quyển 2, chương 12, câu 34] Thật ngạc nhiên khi Chúa nói về cuộc khổ nạn của Người, chỉ trong mối thân tình với tình yêu của Người. Thế nhưng, trên ngọn núi Ta-bo, trong vẻ rạng ngời của biến cố Biến Hình với Mô-sê và Ê-li-a, thì dường như Người đã nói về thiên đàng, về sự lớn lao của tình yêu Người, nhưng Người lại nói về cuộc khổ nạn của Người, về những gì Người sẽ phải chịu vì yêu thương nhân loại [Mt 17,12]; đây là việc chiêm ngắm vinh quang của Người. [...]
      Khi yêu thương một ai đó, Chúa mạc khải cho người ấy biết tình yêu chịu đóng đinh của Người; chúng ta thấy điều này nơi thánh Phao-lô, người đã được đánh động vì điều này đến nỗi trong những lá thư của mình, ngài chỉ nói về Chúa Giê-su và là Chúa Giê-su chịu đóng đinh. Vì sao thế? Thưa, vì đó chính là thước đo và sự sống của tình yêu ấy, đó là lý do vì sao ngài được gọi trở thành tông đồ của Chúa Giê- su chịu đóng đinh, và ngài thực sự cảm nghiệm được điều ấy. Tâm trí làm theo con tim, và con tim làm theo tình yêu, từ đó nảy sinh ý nghĩ tuyệt vời sau: [...] “Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”., ngài đặt khổ hình thập giá làm điều kiện để đạt đến vinh quang [x. Rm 8,17; Mt 20,21-23]. Kết quả của việc này, đó là Chúa sẽ sống trong ta tới mức chúng ta sẽ chịu khổ nhục, đây là một chân lý đáng kể. Chúng ta có thể thấy là Chúa đã làm như thế nơi cuộc đời của các vị thánh. Khi Người muốn kết hiệp một linh hồn nào đó với Người, hay tiến lại gần Người, thì Người làm cho linh hồn ấy bị tổn thương qua thập giá, luôn luôn là bằng tình yêu, đến mức những linh hồn đang yêu sẽ vươn đến tình yêu này chỉ ngang qua thập giá mà thôi.
      Đây là thời gian để tôn kính cuộc khổ nạn của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Đây luôn là thời gian để làm việc này, vì chúng ta chính là hoa trái của ơn Cứu Chuộc và Giáo hội cử hành mầu nhiệm này ngang qua các lễ kính, và vì Thánh Thể chính là việc tưởng niệm, là giao ước bằng máu của Người: Này là Mình Thầy bị nộp vì anh em, này là Máu Thầy đổ ra vì anh em [x. Lc 22,19- 20]. Chúng ta sẽ làm gì trong lúc cầu nguyện? Chúng ta sẽ tôn vinh Chúa Giê- su, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Đấng Cứu Độ chịu đóng đinh của chúng ta; chúng ta hoàn trọn Người ngang qua những công trạng của mình. Giáo hội đang làm gì? Giáo hội tuôn đổ trên chúng ta máu của Đấng Cứu Độ... các gia đình Công giáo được nhận biết nhờ thập giá, các tín hữu Công giáo cũng được nhận biết qua thập giá, nếu anh chị em loại thập giá khỏi thế gian, thì anh chị em đang loại bỏ đi mặt trời tình yêu của nó, từ lúc sự chết bị loại bỏ, hay đúng hơn là chính cái chết.
      Chúng ta phải tôn kính Chúa nơi cuộc khổ nạn của Người, đây là lúc làm điều này, và chúng ta nên, bao nhiêu có thể, làm theo tinh thần của mùa phụng vụ, lòng sùng kính chung, sẽ nhận được ân sủng khi làm như thế, chúng ta sẽ trở nên khôn ngoan và biết ơn khi làm theo Hội thánh ngang qua những mầu nhiệm của Hội thánh. [...]
      Vì sao chúng ta lại có những ngày thánh này, mùa Chay này? Chúng ta sẽ trả lời: là vì để chuẩn bị cho Lễ Vượt Qua. Hãy nhớ là sự hoàn trọn của Mùa Chay chính là Thứ Sáu Tuần Thánh, tất cả đều bao hàm điều đó, cũng như phục sinh thì bao hàm cái chết của Người. Thế nên, hãy nhớ rằng, trước khi Chúa chịu chết, tình yêu của Người được quy hướng vào Thánh Thể, chúng ta phải nhận ra sự hiệp nhất hoàn toàn. Hỡi anh em yêu quý của tôi ơi, tôn kính cuộc khổ nạn của Chúa trong một thời gian là chưa đủ; chúng ta phải có được tinh thần của việc tôn sùng này, hầu biến nó thành tâm điểm của đời sống chúng ta. [...] Chúng ta phải nắm lấy sự sống của chúng, và tìm kiếm chúng tại chính cội nguồn, là Chúa chúng ta. Chúng ta phải vác lấy cây thập giá trên đồi Can-vê, cây thập giá nở hoa, bất kể anh em muốn gọi nó là gì đi nữa, thì hãy để cho Chúa sống trong ta. Thánh Phao-lô nói: Đức Giê-su sống trong tôi [Gl 2,20].Một vài tâm hồn nói rằng họ tôn kính Chúa, tôn kính những lời tuyệt vời. Nhưng họ tôn kính Người bằng cách nào?Dĩ nhiên là trong chính Người. Thế nhưng, hỡi anh em yêu quý của tôi ơi, tình yêu phổ quát này chẳng là gì cả, [...] chúng ta phải đón nhận Chúa trong chính việc hạ sinh của Người, hoặc đang sống, hoặc chịu khổ nạn. Nếu tình yêu của anh em không có được đặc tính này, thì đó không phải là một tình yêu sống động, nhưng chỉ là những lời nói tôn thờ, chúng ta chạy, rồi sau đó đến bất cứ nơi đâu. Làm thế nào chúng ta có được thứ tình yêu này? Chúng ta sẽ cầu xin cho có được tình yêu ấy, nó có được qua việc cầu nguyện. Chúng ta phải tìm ra cách để tôn thờ, hầu liên kết Thánh Thể với Cuộc Khổ Nạn, chúng ta sẽ hiểu cái này bằng cái kia mà thôi. Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy [Lc 22,19]: về phần tôi, tôi theo cách của tôi, tôi sẽ lên đồi Can-vê. Đây là bài suy gẫm của tôi: Chúa Giê- su chịu đóng đinh, và hoa trái của nó rất đơn giản, đóng đinh chính mình cùng với Chúa, sống nhờ sự sống chịu đóng đinh của Người, để có được Vườn Dầu của mình, chúng ta phải lãnh nhận máu và nước của Đấng Cứu Độ đã đổ ra vì những tội lỗi bề ngoài và bề trong của mình, đây là điều chúng ta nên làm.
      Thứ Bảy, ngày 5 tháng 4 năm 1862, Lễ vọng Chúa Nhật V Mùa Chay (PR 31 )

 

 

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.