(Để Nhớ Đến Thầy tiếp theo)

CÔNG BỐ LỜI CHÚA

13- BÀI ĐỌC I

I. VĂN KIỆN 

Dứt Lời nguyện Nhập lễ, mọi người ngồi xuống. Vị tư tế có thể nói vắn tắt dẫn tín hữu vào Phụng vụ Lời Chúa. Ðộc viên tới giảng đài và đọc Bài đọc thứ nhất từ sách Bài đọc đã để sẵn trước Thánh lễ, mọi người ngồi nghe, và đến cuối thì nói to: "Ðó là Lời Chúa", mọi người đáp lại: "Tạ ơn Chúa".  Có thể tùy nghi giữ một chút thinh lặng, để mọi người suy gẫm giây lát những lời vừa nghe (QCSL 28). 

II. LỊCH SỬ 

Trong hội đường Do Thái xưa, người ta vẫn lần lượt đọc các sách Luật theo cách từ phần này sang phần khác (lectio continua); còn các sách Ngôn sứ được đọc theo kiểu chọn lọc (lectio selecta). Hội Thánh đã thừa kế việc cử hành Lời Chúa như vậy của hội đường Do Thái để lần lượt đọc các sách khác nhau trong bộ Kinh Thánh. Vì vậy, Sách Thánh là cuốn sách phụng vụ đầu tiên và cũng là cuốn sách phụng vụ duy nhất trong ba thế kỷ đầu. 

Thời Giáo Hội sơ khai, các sách Cựu Ước tiếp tục được công bố trong hội đường và ở những nơi khác nhau (nhà tư hay nghĩa trang) khi nổi nên chiến dịch bách hại Kitô giáo.[1] Ban đầu, các tín hữu đọc sách Luật và sách các Ngôn sứ, xen kẽ bằng những Thánh vịnh Đáp ca hay những Thánh ca Cựu Ước khác. Dần dần, họ đã thêm vào những bài Tân Ước, đó là những Bút tích của các Tông đồ (Cv 4,42; 2 Tm 2,2). Bài kết thúc luôn luôn là Tin Mừng , được coi như đỉnh cao tỏa sáng trên các Bài đọc khác, và nhờ ánh sáng này những sự việc được nói đến trong các sách khác trở nên sáng tỏ. Điều này thật đúng với lời thánh Augustinô (354-430): "Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước và Cựu Ước ẩn tàng trong Tân Ước" và cũng phù hợp với tư tưởng của thánh Irênê (130-200): "Những gì Môsê viết đều là những lời của Đức Kitô".[2]

Thật ra, không có sự đồng nhất giữa các gia đình phụng vụ về số lượng các Bài đọc trong mỗi Thánh lễ cũng như việc lựa chọn những đoạn Sách Thánh nào cho mỗi mùa hay mỗi lễ. Chẳng hạn: 1] Bên Đông phương, nghi điển  Syri có khi đọc 6 bài;  nghi điển phụng vụ Copte cho đọc 4 bài Tân Ước; nghi điển xứ Canđê công bố 4 bài vừa Cựu Ước vừa Tân Ước (sách Luật, sách Ngôn sứ, sách Tông đồ và Tin Mừng ); 2] Trong khi đó, bên Tây phương, nghi điển Ambrôsiô, Gallican, và Hispanic đều sử dụng 3 Bài đọc ngay từ đầu (Ngôn sứ, Tông đồ, Tin Mừng ) nhưng dần chỉ giữ lại hai bài thuộc Tân Ước (Thánh thư và Tin Mừng  (Epistola - Evanggelium) y như phụng vụ Byzantine từ thế kỷ VII.[3]  

Tuy có những khác biệt, nhưng các nghi điển phụng vụ lại có hai điểm đồng nhất này:

        1] Sau một thời gian thả nổi, người ta đã đi đến quyết định là trong Thánh lễ chỉ công bố những bản văn trích từ Sách Thánh. Bằng chứng là năm 393, Công đồng Hippone đã truyền: "Ngoài những Sách Thánh đã được chính thức công nhận, trong Nhà thờ không đưọc đọc bất cứ sách nào khác với danh nghĩa là Bài đọc Sách Thánh"[4];

        2] Luôn phải có ít là hai Bài đọc, và Bài đọc sau cùng luôn phải là bài Tin Mừng .

Theo thánh Justinô, vào thế kỷ II, Giáo Hội thường đọc những bài trích từ sách các Ngôn sứ và từ các sách Hồi ký của các Tông đồ (Tin Mừng ). Tertulianô (thế kỷ II-III) cũng đề cập đến việc các Kitô hữu đọc cách sách Kinh Thánh, Thánh vịnh (có thể đọc cả hạnh các vị Tử đạo); thời gian cho phép chừng nào thì các Bài đọc này dài chừng ấy. Rồi khi độc viên ngừng, vị chủ tọa ban giáo huấn miệng, khuyến dụ hãy noi gương bắt chước mà làm những việc tốt đẹp mới được nghe. Sau cùng, cộng đoàn dâng lên Chúa những lời nguyện xin. [5]

Từ thế kỷ VI trở đi, người ta thấy rõ ràng là chỉ hai Bài đọc được công bố trong Thánh lễ của phụng vụ Roma: Thánh thư và Tin Mừng . Thật ra, Bài đọc I được gọi chung là Thánh thư, nhưng nhiều khi lại được trích từ các sách Cựu Ước, từ sách Công vụ Tông đồ hay sách Khải huyền.

Từ thế kỷ XII, các nghi điển Tây phương bắt chước phụng vụ tại Roma nên cũng chỉ có hai Bài đọc trong các Chúa nhật mùa Chay và mùa Phục sinh. Nhưng khi số lượng ngày lễ kính các thánh có Bài đọc riêng tăng lên (hoặc lấy từ phần chung các thánh), hệ thống các Bài đọc dành cho những ngày trong tuần dần dần không còn nữa. Đó là lý do nhiều đoạn Sách Thánh không bao giờ được nghe công bố trong Thánh lễ.

Sang thời kỳ Công đồng Trentô, do nhận thấy số các Bài đọc trong vòng một năm quá ít, một đề nghị đã được đưa ra: đó là đưa thêm 3 Bài đọc trích từ thư của thánh Phaolô và 3 bài Tin Mừng vào Thánh lễ các ngày trong tuần. Nhưng dự án này bất thành.[6] Vì vậy, Sách lễ  Roma 1570 vẫn chỉ còn chứa đựng những Bài đọc bị cắt tỉa và thiếu sức sống. Hậu quả của sự giảm thiểu này là làm cho những chân lý mặc khải quan trọng không được công bố trong phụng vụ. Tình trạng này kéo dài trong một thời gian rất lâu cho tới thời gian cải cách hậu Công đồng Vatican II bởi chỉ một mình nghi lễ Roma là cho công bố trong Thánh lễ một bài Thánh thư và một bài Tin Mừng cũng như những Bài đọc này đi theo chu kỳ một năm.

Một trong những đóng góp lớn nhất Công đồng Vatican II thực hiện trong lãnh vực phụng tự Công giáo chính là thúc đẩy cho ‘bàn tiệc Lời Chúa được dọn ra dồi dào hơn cho các tín hữu, mở ra cho họ những kho tàng Kinh Thánh phong phú hơn’ (PV 51). Vì vậy, sau Công đồng Vatican II, Giáo Hội đã sớm cho tu chính và xuất bản cuốn Ordo Lectionum Missae mới (Sách Bài đọc cho Thánh lễ) vào ngày 25-05-1969, trong đó Giáo Hội trở lại truyền thống xa xưa, tức là: 1]  Cho công bố ba Bài đọc vào các Thánh lễ Chúa nhật, lễ trọng thay vì chỉ hai bài; 2] Công bố hai Bài đọc trong những lễ khác. Trước đó, tổng cộng trong một chu kỳ, các tín hữu chỉ được nghe 1% Kinh Thánh Cựu Ước và 17% Kinh Thánh Tân Ước, thì nay sẽ tăng lên 14% đối với Cựu Ước và 71% đối với Tân Ước.[7]

Ý tưởng về chu kỳ các Bài đọc Sách Thánh trong phụng vụ có nguồn gốc từ thực hành Do Thái cổ xưa. Có ba cách để phân phối các Bài đọc: 1] Lectio continua (Đọc liên tục): đọc Sách Thánh các liên tục, từ quyền này đến quyển khác, từ chương này đến chương khác; 2] Lectio semi- continua (Đọc bán liên tục): cũng đọc Sách Thánh theo thứ tự các quyển và chương nhưng có thể bỏ qua những câu, đoạn, chương không thích hợp; 3] Lectio antologica: chọn lọc những đoạn thích hợp với đề tài của mùa lễ hay ngày lễ.[8]

Căn cứ vào cách phân phối trên đây, hệ thống các Bài đọc ở thế kỷ II là lectio continua lectio semi- continua. Nhưng theo đà phát triển của năm phụng vụ, người ta bắt đầu "chọn lựa" (lectio selecta) những Bài đọc thích hợp với đời sống của các vị Tử đạo cũng như biến cố cứu độ được cử hành: Phục sinh, Giáng sinh, Hiển linh...Hơn nữa, các vị chủ tế bấy giờ vốn có thể tức thời tạo ra Kinh Tạ Ơn hay sử dụng bất kỳ Kinh Tạ Ơn nào có sẵn, họ đã đề nghị rằng nên để các vị chủ tế có sự tự do tương tự như vậy khi chọn lựa những Bài đọc Kinh Thánh (lectio selecta) cho buổi phụng vụ họ cử hành.[9] Từ thế kỷ V, hệ thống Bài đọc đã thành hình và cố định nhằm nhấn mạnh đến mùa phụng vụ, ngày lễ kính, cách riêng là vào dịp Chúa nhật lễ trọng, nhờ vậy đem lại sự thống nhất chủ đề cho các Bài đọc. Tuy nhiên, vào những ngày thường trong mùa Chay và mùa Phục sinh, cách thực hành vẫn là lectio continua lectio semi- continua.

Hiện nay, nhằm thực thi ý định của Công đồng Vatican II, Sách "Các Bài đọc Thánh lễ" (Ordo Lectionum Missae) có hướng dẫn như sau:

        1] Liên quan đến ngày Chúa nhật và lễ trọng

- Các Bài đọc cho Chúa nhật được sắp xếp theo chu kỳ 3 năm và được đọc theo hình thức lectio semi- continua hầu các tín hữu có thể nghe được những đoạn văn quan trọng nhất của Kinh Thánh (BĐ 58;60). Tính chất đặc thù của mỗi năm dựa trên sách Tin Mừng . 

* Năm A dựa trên Tin Mừng  theo thánh Matthêu;

* Năm B, theo thánh Maccô, nhưng vì Tin Mừng  theo thánh Maccô quá ngắn, không đủ phân phối cho một năm, nên chương 6 của Tin Mừng  theo thánh Gioan (tường thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều và bài giảng về bánh ban sự sống) sẽ được phân phối để đọc trong các Chúa nhật XVII- XXVI của năm B;

* Năm C, theo thánh Luca;

* Tin Mừng  Gioan được công bố rải rác trong Chúa nhật thứ I mùa Chay, trong mùa Phục sinh (như câu chuyện về người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacop, người mù bẩm sinh và sự sống lại của Ladarô) và một số Chúa nhật năm B như đã nói trên.

* Thứ tự các Bài đọc là: Cựu Ước (Bài đọc I; thay bằng sách Tông đồ Công vụ trong mùa Phục sinh như truyền thống đã có từ lâu đời, vì Giáo Hội vẫn quan niệm là việc công bố sự Phục sinh của Chúa Giêsu trong hồi ký của các nhân chứng đầu tiên đã bao gồm cả Lề Luật và các lời Ngôn sứ) - Thư các Tông đồ (Bài đọc II) - Tin Mừng .

- Ba Bài đọc của các Chúa nhật mùa Vọng, mùa Chay hay lễ trọng thường liên kết với nhau bởi vài tư tưởng chung. Còn trong các Chúa nhật Thường niên, chỉ có sự tương đồng ý tưởng giữa bài Cựu Ước và bài Tin Mừng ;

- Trong các ngày lễ trọng cũng có ba Bài đọc: Cựu Ước, thư các Tông đồ, Tin Mừng , trừ mùa Phục sinh cả ba bài đều lấy trong Tân Ước. Nhờ đó, chúng ta thấy rõ mối duy nhất của hai Giao Ước, của lịch sử cứu độ, mà trọng tâm là Đức Kitô được kính nhớ trong mầu nhiệm Vượt qua của Người.

        2] Liên qua đến ngày thường trong tuần

a/ Khối "Riêng" (mùa Vọng, Giáng sinh, Chay và Phục sinh) gồm một chu kỳ với 2 Bài đọc. Giữa 2 Bài đọc này, có sự tương đồng về chủ đề (hoà hợp ý nghĩa).

b/ Khối "Thường niên" gồm 2 Bài đọc (Bài đọc I + Tin Mừng ). Bài đọc I được chia theo chu kỳ 2 năm và được sắp xếp theo nguyên tắc liên tục tương đối. Bài Tin Mừng  vẫn giữ nguyên cho mỗi năm theo nguyên tắc liên tục tương đối, nhưng Bài đọc I thay đổi (theo năm chẵn và năm lẻ) và được trích hoặc từ Cựu Ước hoặc từ Tân Ước. Không có sự tương đồng về đề tài giữa 2 Bài đọc.  

III. Ý NGHĨA  

Thiên Chúa mặc khải tiệm tiến trong lịch sử cứu độ. Các sách Cựu Ước (Luật, Lịch sử, Ngôn sứ và Giáo huấn) không phải chỉ viết riêng cho dân Itraen, nhưng viết cho toàn thể nhân loại, mặc dù dân Itraen giữ vai trò trọng yếu trong thời Cựu Ước, nhằm "trình bày cho mọi người biết Thiên Chúa là ai và con người là ai, đồng thời trình bày Thiên Chúa công bình và nhân từ đối xử với loài người như thế nào" (MK 15). Bởi vậy, các Bài đọc Cựu Ước được chọn lọc để công bố trong Thánh lễ giúp tín hữu xác tín rằng chỉ có một Thiên Chúa đã và đang hoạt động trong cả thời kỳ Cựu Ước lẫn Tân Ước và Thiên Chúa của Itraen cũng là Thiên Chúa của người Kitô hữu. Đọc và lắng nghe Lời Chúa trong Cựu Ước để tín hữu nhớ lấy những hành động của Thiên Chúa không bị chôn vùi trong quá khứ, để họ thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ của hai Giao Ước, giúp họ hợp nhất với dân của Cựu Ước như một dân của Chúa.[10] Đọc và lắng nghe Lời Chúa trong Cựu Ước còn giúp tín hữu nhận ra cách tỏ tường tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua lịch sử được mặc khải qua các Tổ phụ, các Ngôn sứ và sau cùng là qua Đức Giêsu Kitô như thế nào (x. Dt 1,1-4). Thiên Chúa nói với dân của Người (cả Cựu Ước lẫn Tân Ước), để họ biết được kế hoạch tình yêu của Người mà thờ phượng, tôn vinh, tạ ơn và đền tội. Lời nói tối hậu của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu Kitô. Muốn hiểu được lời nói cuối cùng của Thiên Chúa, phải nghe những lời nói đầu tiên và đã qua của Người. Đó chính là nghe các Bài đọc Cựu Ước.[11]

Sự thinh lặng sau khi lắng nghe Bài đọc I, như QCSL 45 đề nghị, có chức năng giúp cho các tín hữu đón nhận được "âm thanh trọn vẹn từ tiếng nói của Thánh Linh" và hợp nhất kinh nguyện cá nhân của họ "một cách gần gũi hơn với Lời Chúa và tiếng nói công khai của Giáo Hội". [12] 

Lm. Giuse Phạm Đình Ái,sss

(còn tiếp)   


 

[1] Xc. Heliodoro Lucatero, The Living Mass, 12.

[2] Trích lại trong Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith, 33.

[3] Vinh sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 54.

[4] Trích lại trong Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ, 55.  

[5] Xc. Vinh sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, 54; ĐHTT 67.

[6] Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu, 158. 

[7] Paul Turner, The Supper of the Lamb, 26.

[8] Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu, 157. 

[9] Trích lại trong John D. Laurance (ed),  The Sacrment of the Eucharist, 127.

[10] Xc. Charles E. Miller, The Celebration of the Eucharist (NY:  Alba House, 2010), 119.

[11] Nguyễn Cao Luật, Hãy Làm Việc Này, 72.  

[12] Edward Foley, "The Structure of the Mass, Its Elements and Its Parts", 133.

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.