VIỆC CẦU NGUYỆN TÔN THỜ CỦA ĐỨC MARIA
1. Đức Maria đã hiến mình tuyệt đối cho vinh quang Chúa Giêsu Thánh Thể. Mẹ biết rằng ý muốn của Cha hằng hữu là làm cho mọi người nhận biết, yêu mến và phục vụ Thánh Thể; rằng Thánh Tâm Chúa Giêsu cần thông ban cho hết mọi người ân sủng và vinh quang của Ngài. Mẹ cũng biết rằng sứ mạng của Thánh Thần là bành trướng và hoàn thiện hoá vương quốc Chúa Giêsu Kitô trong tâm hồn con người, và Giáo hội được lập nên là để tặng trao Chúa Giêsu cho thế giới. Do đó, tất cả ước muốn của Đức Maria là làm cho người ta nhận biết Ngài trong phép Thánh Thể. Tình yêu mãnh liệt của Mẹ đối với Chúa Giêsu đã cảm thấy nhu cầu cần phải bành trướng theo phương cách này, nhu cầu cần phải tự thánh hiến – như một thứ đền bù, có thể nói như vậy - bởi vì chính Mẹ không có khả năng làm vinh danh Ngài như Mẹ muốn.
Suốt từ khi có biến cố đồi Canvê, tất cả mọi người đều là những người con của Mẹ. Mẹ đã yêu họ với tình từ mẫu dịu dàng và mong mỏi cho họ được những sự lành tối cao như cho chính Mẹ; do đó, Mẹ luôn luôn bị nung nấu với ước muốn làm cho Chúa Giêsu trong Thánh Thể được mọi người biết đến, để thiêu đốt tất cả các trái tim với tình yêu Ngài, để thấy họ được lôi kéo vào đường phụng sự tình yêu Ngài.
Để xin được ân huệ này, Mẹ Maria đã tiêu hao thời giờ của Mẹ dưới chân bí tích cực thánh đáng tôn thờ, trong hy sinh và cầu nguyện. Ở đó, Mẹ nghiên cứu việc cứu độ thế giới. Với lòng nhiệt thành vô bờ bến, Mẹ theo dõi những nhu cầu của các tín hữu mọi nơi và mọi thời đại, những người sẽ thừa hưởng phép Thánh Thể và là những người tôn thờ nhiệm tích ấy.
Nhưng sứ mạng thiết thân nhất của Trái Tim Mẹ Maria là không ngừng lo cho việc rao giảng và công tác truyền giáo của các Tông đồ và của các phần tử mang chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô được thành công. Cho nên không có gì phải ngạc nhiên khi thấy những người làm công tác tông đồ này đã quá dễ dàng qui hồi toàn thể các vương quốc, vì Mẹ Maria đã kiên trì ở lại dưới chân ngai tình thương, thay mặt cho họ van nài tình xót thương của Đấng Cứu Chuộc. Lời cầu nguyện của Mẹ đã cải tạo vô số linh hồn, và vì mỗi cuộc trở lại đều là hoa trái của lời cầu, và vì lời cầu của Mẹ Maria không thể bị từ chối, nên các Tông đồ đã có được nơi Mẹ nhân lành sự trợ giúp quyền phép nhất. “Phúc cho ai được Đức Maria cầu nguyện cho!”
2. Những người tôn thờ chia sẻ đời sống và sứ mạng cầu nguyện của Đức Maria dưới chân phép bí tích cực thánh. Đó là sứ mạng đẹp nhất trong tất cả các sứ mạng, và sứ mạng đó không gặp nguy hiểm. Đó là sứ mạng thánh thiện nhất, vì mọi nhân đức đều được thực hành trong đó. Hơn nữa, đó là sứ mạng cần thiết nhất cho Giáo hội, Giáo hội cần những linh hồn cầu nguyện hơn là cần những nhà giảng thuyết mạnh mẽ; cần những người hãm mình hơn những người hùng biện. Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần có những người biết hy sinh hãm mình để làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đang bị khiêu khích bởi những tội ác ngày càng gia tăng trong các quốc gia. Chúng ta cần có những linh hồn biết nài nỉ van xin để tái mở những kho tàng ân sủng đã bị đóng lại do đám quần chúng thờ ơ nguội lạnh. Chúng ta phải là những người tôn thờ đích thực; tức là những người sốt sắng và hy sinh. Khi có nhiều linh hồn như thế chung quanh vị thủ lãnh thần linh, thì Thiên Chúa sẽ được vinh hiển, Chúa Giêsu sẽ được mến yêu, và xã hội sẽ lại một lần nữa được Kitô hoá, đem chiến thắng lại cho Chúa Giêsu nhờ việc tông đồ của lời cầu nguyện Thánh Thể.
3. Hơn nữa, việc tông đồ của Đức Maria cốt tại chính việc rao giảng có sức thuyết phục bằng gương sáng. Những bài giảng như thế thích hợp với từng người và với mọi người, và một linh hồn nhiệt tâm làm cho Thánh Thể được biết đến và được mến yêu, thì trong sự kết hợp với Đức Maria, nó sẽ tự hiến thân thêm vào đó với lòng tha thiết hết sức lớn lao. Còn có thái độ khiêm tốn và cung kính nào mà người tôn thờ hoàn hảo lại không tỏ ra trước Thánh Thể! Nó sẽ xử sự như các thiên thần đã làm trước ngai toà Thiên Chúa. Hoàn toàn thấu nhập trong đức tin và bị thu hút vào trong sự hiện diện thần linh, nó không còn chú ý đến bất cứ điều gì chung quanh nó nữa.
Và nó sẽ không bao giờ ra trước mặt Chúa mà không trang phục cách khiêm tốn và thích hợp, y như đi dự buổi tiếp tân long trọng. Kẻ nào trang phục lôi thôi hoặc cung cách cẩu thả là dấu kém đức tin, và nội tâm bê bối.
Đức Maria vẫn quì lại dưới chân Thiên Chúa của Mẹ lâu như Mẹ có thể. Đây là tư thế được Hội thánh nhận là thích hợp nhất đối với việc tôn thờ - nói lên sự tôn kính của thân xác, sự khiêm nhường của đức tin. Quì dưới chân Chúa Giêsu là tư thế được tình yêu ưa chuộng.
Ở trong nơi thánh, trước bí tích cực thánh, trên tất cả, sự cung kính phải là nhân đức bên ngoài tiêu biểu của những người tôn thờ. Sự cung kính này là sự tuyên xưng long trọng đức tin của họ, và đồng thời, đó là ân sủng đạo đức sốt sắng của họ; vì Thiên Chúa luôn luôn trừng phạt sự bất kính trong thánh đài bằng cách để đức tin yếu dần và rút bớt ơn sùng hiếu. Kẻ nào bất kính hoặc khiếm nhã trước nhan Chúa thì sẽ cảm thấy khô khan lạnh lẽo khi cầu nguyện đâu có gì lạ. Đây mới chỉ là một phần nhỏ hình phạt mà nó đáng chịu, nó đáng bị trục xuất ra khỏi nhan thánh Chúa như một kẻ xấc xược thô lỗ, hoặc kẻ điên rồ ngu dại.
Vậy chúng ta hãy cố gắng tỏ ra cung kính. Chúng ta hãy giữ thái độ đoan trang và thành kính; hãy tuyệt đối giữ thinh lặng và cẩn phòng giác quan. Khi ở trong nhà thờ, chúng ta chỉ nên nhìn vào Chúa Giêsu Kitô mà thôi; bạn bè và những người quen biết cũng nên quên đi. Chúa Giêsu là tất cả của chúng ta. Đôi mắt của các cận thần chỉ được nhìn lên đức vua, chỉ tôn vinh duy mình đức vua mà thôi. Trước cảnh cung kính đạo đức sâu xa của những người tôn thờ, thế gian sẽ phải thốt lên: “Có một cái gì đó rất thực ở đây!” Người yếu đuối, khô khan sẽ xấu hổ cho sự nguội lạnh của họ, và một lần nữa nhận ra Chúa Giêsu Kitô – vì gương sáng là bài học khôn ngoan vương giả và là việc tông đồ hữu hiệu nhất.
Đức Mẹ của các em rước lễ lần đầu
Dạy dỗ các em làm công việc vĩ đại này trong cuộc đời các em, giúp các em dọn lòng đón Chúa Giêsu đến viếng thăm lần đầu – ôi! chắc chắn đây là sứ mạng ngọt ngào nhất của Mẹ nhân ái.
Ngày xưa, có một bà mẹ, một hôm bà được một thị kiến ngọt ngào. Đức Trinh Nữ Maria đứng bên nôi con bà; Mẹ mỉm cười với đứa bé và phủ trên chiếc giường người nhỏ xíu của em những bông hoa… Khi Alexander Bertius biết nói, những tiếng đầu tiên của em chính là tiếng Giêsu Maria. Em đã lớn lên dưới bóng thánh giá. Nhờ ánh sáng đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội, em đã thoáng thấy những ẩn áo trong con tim bé nhỏ tí tẹo của em, coi bộ những sự ô uế do hạt giống xấu có thể đã nảy sinh. Em bé lên năm này đã nhớ những lời hứa và những vuốt ve mơn trớn của Mẹ Maria, nên em đã khép mình vào kỷ luật, trừng phạt các chi thể mỏng manh, vì em cảm thấy trong em có những bản năng hướng về điều xấu. Mẹ Maria đã hướng dẫn em và sự sửa soạn cho em chịu lễ lần đầu. Khi giờ phút long trọng và quí báu này đến, Alexander đã tưởng trái tim em đang mở ra và Chúa Giêsu đang chiếm hữu nó một cách khả giác. Kỷ niệm về thị kiến này đã buộc chặt em vào nhà tạm mạnh mẽ đến nỗi khó lòng mà khiến em rời khỏi đó, và mọi người trong thị trấn đều gọi em là “em bé của bàn thờ”. Mẹ Maria đã ban cho em những ân huệ của tình từ mẫu thực sự. Chính Mẹ đã lật từng trang sách cho em học, khi em lâm cơn sốt, chính Mẹ rải hoa chung quanh em làm cho em giảm sốt. Được sự hiện diện yêu thương của Mẹ Maria như thế, cậu học sinh đạo đức này không bao giờ tham gia vào bất cứ trò phóng đãng nào của thế gian, cũng không can dự vào bất cứ cuộc giao du nào hoặc bất cứ trò giải trí chơi bời nào.
Như thế, cả tuổi thiếu nhi lẫn thanh niên, khi đã được đặt dưới sự chăm sóc của Đức Nữ Trinh Thánh Thể, và trung thành với những điều Mẹ sùng bái, thì sẽ trải qua được một cách trong sạch và sẽ chuẩn bị trở nên những trẻ em trung thành cho Giáo hội, và những công dân cho nước trời, được trang hoàng bằng mọi nhân đức. (Parterre de Notre-Dame de la Premìere Communion).
Thực hành: Chúng ta hãy cầu nguyện cho chiếu chỉ của Đức Thánh Cha về việc rước lễ lần đầu cho các trẻ em được thi hành cách chính xác, và cầu cho các giáo lý viên đang chuẩn bị cho các em ấy.
Hoa thiêng: Ôi Maria, con kính chào Mẹ là người đã chiến thắng tất cả các lạc giáo chống đối Thánh Thể, qua việc tông đồ bằng lời cầu nguyện của Mẹ!