Suy Tư Về Thần Học Và Mục Vụ Liên Hệ Đến Đại Thánh Thể Lần Thứ 50
Được Cử Hành Tại Dublin, Irland, ( Từ 10-17 Tháng Bảy, 2012)
PHẦN MỘT
Một Cơ Hội Quý Giá
Dẫn Nhập
I.a. Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế Lần Thứ Năm Mươi
1. Tháng 6 năm 2012, Đại hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 50 sẽ được cử hành ở Du-blin, nước Ai-Len (Ireland). Thật là một sự trùng hợp lý thú, năm 2012 cũng đánh dấu kỷ niệm lần thứ 50 khai mạc Công Đồng Vaticano II. Đề tài của Đại Hội Thánh Thể ở Du-blin
‘Thánh Thể: sự Hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau’ trùng khớp với ý niệm ‘hiệp thông’ mà Công đồng Vaticano II đã định hướng như điểm trọng tâm của Công đồng.
2. Công Đồng Vaticano II có thể được diễn tả như là một biến cố Hiện Xuống, vẫn là kim chỉ nam chắc chắn giúp Giáo Hội có những định hướng cho mình mãi đến ngày nay. Trong hầu hết các khóa họp, mối quan tâm chính yếu được công đồng bàn luận là làm thế nào, trong khi nhân loại đang bước vào một giai đoạn lịch sử mới với nhiều những thay đổi sâu xa, nhanh chóng và mới mẻ, Giáo Hội có thể bày tỏ Đức Ki-tô rõ nét nhất để con người trong thời đại hôm nay có thể nhìn thấy, nghe hiểu, và gặp gỡ Người đang sống giữa chúng ta. Đáp lại mối quan tâm này, Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn Công Đồng cổ võ khoa Giáo Hội Học về hiệp thông. Do đó, thật là thích hợp khi, trùng với dịp kỷ niệm đầy ý nghĩa 50 năm khai mạc Công Đồng Vaticano II, Đại Hội Thánh Thể hướng ý về chủ đề hiệp thông.
3. Đại Hội cống hiến cho chúng ta một cơ hội quý giá để khám phá xa hơn nữa xem chúng ta đã để cho lời mời gọi canh tân của Giáo Hội về sự hiệp thông tác động, ảnh hưởng trên đời sống chúng ta đến mức nào, xét cả về mặt xây dựng duy trì đời sống hiệp thông bên trong Giáo Hội, cả về việc tiếp cận với tất cả những ai đang cùng với chúng ta tiến bước trên khắp các nẻo đường lịch sử. Ý niệm hiệp thông, thực sự, rất ý nghĩa đối với việc Tin Mừng hóa, tức là, đối với việc truyền thông Tin Mừng của Đức Ki-tô Đấng muốn hiện diện giữa chúng ta với tất cả niềm hạnh phúc, tự do, nhiệt tâm và bình an của Người. Từ Châu Á đến Châu Phi, từ Châu Mỹ đến Châu Đại Dương, cũng như từ Châu Âu, nhiều anh chị em trong đức tin, những người sẽ quy tụ lại tham dự Đại Hội Thánh Thể Quốc tế này, sẽ làm cho những khám phá của chúng ta về đề tài của Đại Hội thêm phong phú qua việc diễn tả sự hiệp nhất và đa dạng về mối hiệp thông của Giáo Hội.
4. Đến nay đã 80 năm kể từ khi Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần cuối cùng được tổ chức ở Ireland, vào lúc đánh dấu kỷ niệm lần thứ 1500 thánh Patrick đến đảo Ireland và tình yêu Thánh Thể được các nhà truyền giáo người Ai-len (Irish) loan truyền rông rãi. Đại Hội Thánh Thể năm 1932 là một biến cố rất ý nghĩa xét theo nhiều khía cạnh. Mặc dầu được đánh giá cao bởi những tiêu chuẩn hôm nay và bởi một sự thành công mỹ mãn nào đó, có thể nói rằng Đại Hội Thánh Thể đã góp phần đáng kể vào việc chữa lành những vết thương đau do cuộc nội chiến gây ra, một cuộc nội chiến đã xé nát đất nước Ai-len thành từng mảng chỉ vài năm trước đó. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy rằng sự hòa hợp đầy nhiệt huyết giữa cảm thức Công Giáo và niềm tự hào dân tộc vào dịp đó không phải là không có những trở ngại trong thời hạn lâu dài. Đã từng có những thay đổi ở Ai-Len trong thời kỳ chuyển giao. Bối cảnh hiện thời rất khác nhau. Kiểu mẫu, mục đích và kết quả của những Đại Hội Thánh Thể cũng đã thay đổi đáng kể trong những năm qua. Mới đây, một Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế diễn ra giống một cuộc hội ngộ niềm tin hơn, bao gồm những khóa hội thảo, những buổi hòa nhạc, những nhóm hội họp, những cuộc trình diễn, trưng bày. Kết quả của tất cả những điều đó là Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế năm 2012 sẽ khác hoàn toàn với Đại Hội được tổ chức 80 năm trước.
5. Những người dân Ai-len đương thời chuẩn bị sẵn sàng cho Đại Hội Thánh Thể là một trong những điểm sáng và cũng là bóng tối. Một mặt, trong khi quan tâm đến ‘tảng đá’ đức tin mà vì niềm tin đó những người thiện nam tín nữ và con cái của Giáo Hội đã bị bách hại, thì mặt khác, chúng ta vẫn có thể biết ơn Thiên Chúa vì những đóng góp rất anh hùng và quảng đại của những thế hệ tổ tiên dân tộc Ai-len dành cho Giáo Hội và nhân loại. Trong những thời điểm gần đây, tiến trình hòa bình mà các giáo hội đã góp phần ở vùng Bắc Ai-len đã vẫn là một câu chuyện lịch sử đầy những tin vui. Dù có những khó khăn kinh tế hiện tại, với niềm tự hào, người dân Ai-len có thể nhận ra những sự tiến triển kinh tế-xã hội lớn lao trên vùng đảo so với năm 1932. Tuy nhiên, cần nhận biết rằng, ngay từ bước khởi đầu của những suy tư mục vụ và thần học này, đến nay Giáo Hội ở Ai-len đang thực hiện một con đường chữa lành, canh tân và sửa chữa đối với việc lạm dụng tình dục trẻ em và việc xúc phạm những bạn trẻ, đặc biệt gây ra bởi những linh mục và Tu sĩ. Bằng nhiều cách thức, như những môn đệ trên đường tiến về E-mau, những người Công Giáo Ai-len cảm thấy bị mất hướng (disorientated) bởi những điều đã xảy trong Giáo Hội của họ. Tiếng kêu cứu của những nạn nhân và của những người sống sót sau những lạm dụng tình dục do Tu sĩ gây ra vang thấu từ đất tới trời cao, đòi hỏi những dấu chỉ biểu lộ sự sám hối tận căn.
6. Đại Hội Thánh Thể năm 2012 có thể được xem như một thời điểm ‘sám hối’ (Kairos) theo như ý nghĩa Kinh Thánh nói về một thời gian thuận tiện khi những điều đặc biệt nào đó có thể xảy ra do sự can thiệp của Thiên Chúa. Đó chính là lúc cả Giáo Hội ở Ai-Len và Giáo Hội hoàn vũ có thể đón nhận được nhiều ân phúc từ việc lắng nghe lại những gì Thánh Thần đã và đang nói với Giáo Hội, trong và qua Công Đồng Vaticano II. Quả thật, đó là một cơ hội đầy ơn quan phòng của Thiên Chúa dành cho những người cùng đến hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau ‘để suy tư về những vết thương giáng xuống trên thân mình Đức Ki-tô, về những phương cách chữa trị đôi lúc đầy đau thương nhưng thật cần thiết để bao bọc và chữa lành chúng, và về nhu cầu hiệp nhất, bác ái, hỗ trợ lẫn nhau trong một tiến trình lâu dài để phục hồi và canh tân Giáo Hội’. Đại Hội Thánh Thể cũng có thể được coi như một khoảnh khắc ‘dừng chân’ (statio moment), tức là một sự nghỉ ngơi trong chốc lát và cầu nguyện, một trạm dừng chân dọc theo hành trình của Giáo Hội mà Giáo Hội Ailen mời gọi Giáo Hội hoàn vũ. Như thế, đó chính là một khoảnh khắc đặc biệt trong cuộc lữ hành của Giáo Hội Ai-len khi Giáo Hội hoàn vũ được mời gọi để đặc biệt tập trung vào một trong những khía cạnh của Thánh Thể, đó là khía cạnh hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau, như được đề nghị trong đề tài của Đại Hội. Làm như thế chúng ta sẽ tôn thờ Thánh Thể một cách công khai trong mối dây bác ái và hiệp nhất. Cùng quy tụ với những khách hành hương từ muôn phương trên thế giới, Đại Hội là dấu chỉ đích thực biểu lộ niềm tin và tình bác ái trong sự hiệp thông mà mọi người được mời gọi.
I.b. Ý Nghĩa Của Sự Hiệp Thông
7. Ngay đầu tập tài liệu này, chúng ta cần làm sáng tỏ ý nghĩa của khái niệm Hiệp Thông. Những người Công Giáo thường nói ‘đi Rước Lễ’ hay ‘Hiệp Lễ’ trong Thánh Lễ. Tuy nhiên, ý niệm hiệp thông theo thần học (‘koinonia’ = hiệp thông trong bản Tân Ước tiếng Hy Lạp) thì rất đa dạng, muôn vẻ.
8. Trong khi loan báo về Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã biết rằng Người được sai đi ‘đem Tin Mừng cho người nghèo khó … công bố ơn giải thoát cho những kẻ bị giam cầm và mở mắt cho kẻ mù lòa, để kẻ bị áp bức ra đi tự do’ (xem Lc 4: 16-20). Qua lời và hành động của Người, Người đã hình thành nên một cộng đoàn thiên sai của những môn đệ, những con người đã kinh nghiệm rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần họ trong chính Đức Giê-su. Những thành viên của cộng đoàn này liên hệ với nhau bằng một cách thế mới, bằng những tương quan đậm nét tình yêu, tự do và sự thật, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau. Những ai đã được mời gọi để hướng dẫn, lãnh đạo thì phải thực thi trách nhiệm của mình qua việc phục vụ. Trong Tin Mừng Thứ Tư chúng ta nghe Đức Giê-su cầu nguyện, vào đêm trước khi Người chịu chết, một lời nguyện xin mà dường như tóm tắt sứ vụ của Người, rằng ‘ để tất cả có thể nên một. Lạy Cha, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta, như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con’ (Ga 17:21). Không có gì khác hơn, Cộng đoàn phải chia sẻ vào chính sự sống của Thiên Chúa.
9. Tuy nhiên, kế hoạch cứu thế của Đức Giê-su dường như đã thất bại thê thảm với cái Chết của Người trên Thập giá. Mặc dù vậy, đó không phải là sự kết thúc câu chuyện về Đức Giê-su. Đức Ki-tô phục sinh đã chiến thắng sự chết. Nơi mà tội lỗi đã xuất hiện, với những bóng tối, sự chia rẽ, và sự kinh hãi của nó, bây giờ ân sủng đã tràn đầy phong phú với tất cả ánh sáng, sự hiệp thông, tự do của nó (xem Rom 5: 17-21). Đức Ki-tô chịu Đóng đinh và Phục Sinh đã tái qui tụ cộng đoàn của Người . Những mối tương quan thân hữu được đào sâu. Người đã vẫn đang sống, và xây dựng cộng đoàn của Người qua việc loan báo Tin Mừng, qua các bí tích, đặc biệt qua việc cử hành Thánh Thể, qua việc phuc vụ của các thừa tác viên, qua những đặc sủng và qua tình yêu hỗ tương của những thành viên trong Giáo Hội: ‘Họ đã chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và không ngừng cầu nguyện’
(Cv 2: 42). Cũng như xưa kia những người đã sống trên dương thế, và quả thực hơn thế nữa, bây giờ những ai đang theo Đức Ki-tô đã không sống cho riêng mình. Họ đã được nên một trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau qua những mối dây hiệp thông, nhưng đặc biệt qua Thánh Thể.
10. Thánh Phao-lô tông đồ, trong thư thứ nhất gởi tín hữu thành Cô-rin-tô, suy tư về ý nghĩa của Thánh Thể như là sự hiện diện, bàn tiệc hiệp thông, và hy tế (xem 1 Cr. 10:16-22). Người đang viết cho một cộng đoàn giàu có phong phú với nhiều tặng ân và những con người có nhiều khả năng và vai trò khác nhau, nhưng trong đó cũng có những chia rẽ trầm trọng. Thánh Phao-lô muốn đem họ trở về sống tinh thần gia đình khi khẳng định rằng: ‘vì Thánh Thể mà chúng ta được gắn kết chặt chẽ với nhau trong sự hiệp thông’. Người viết: ‘Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.’
(1 Cr 10: 16-17). Phao-lô dùng từ ‘hiệp thông’ để nói về sự ‘chia sẻ’. Bằng việc đón nhận Thánh Thể, nhiều thành viên của cộng đoàn đã trở nên một, tức là họ chia sẻ thật sâu xa vào Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô đến độ họ cùng nhau trở nên Thân Mình Đức Ki-tô. Theo đó, chính Đức Giê-su Ki-tô làm cho những tặng ân đa dạng và những chức năng phong phú trở nên có ý nghĩa và hài hòa hơn. Người ta không thuộc về Đức Ki-tô một cách đơn giản như thể họ là những thành viên của một hiệp hội trong xã hội hay một hội đồng mà Đức Giê-su thiết lập, nhưng đúng hơn, theo một nghĩa rất xác thực, qua Thánh Thể, họ được đưa vào sự hiệp thông ngôi vị sâu xa với Đức Ki-tô Phục sinh và với nhau.
11. Tông đồ Phao-lô cảm thấy rằng người phải tái rao giảng cho cộng đoàn Cô-rin-tô về ý nghĩa của sự hiệp thông. Như vậy người trình bày cho chúng ta một trình thuật rất cổ xưa về Bữa Tiệc Cuối của Chúa (1 Cr 11:17-33) như thể muốn nhấn mạnh rằng khi được tham dự cách bí tích vào Bữa Tiệc Cuối của Chúa, chúng ta tìm thấy trong mầu nhiệm Vượt Qua mật mã di truyền (the genetic code) giúp hiểu về căn tính của Giáo Hội là sự hiệp thông. Sau cùng, chính sự trao ban Thân Mình của Đức Giê-su trong cái Chết và cuộc Tử nạn của Người mang lại cho nhân loại ơn cứu độ, và ơn cứu độ có thể được hiểu như là sự hiệp thông với Đức Ki-tô và nhờ đó hiệp thông với nhau. Bây giờ Thánh Thể mời gọi và làm cho chúng ta có thể sống mối hiệp thông này trong đời sống chúng ta. Điều này hàm ý một phương pháp hòa giải, sự chịu đựng kiên nhẫn và hiện diện hỗ tương đối với nhau.
Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra mà nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm đễ tưởng nhớ đến Thầy.” Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình vá Máu Chúa. Vậy ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình… Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. (1 Cr 11: 23-29, 33)
12. Thánh Phao-lô đã rất xác tín rằng Thánh Thể hoàn toàn có khả năng biến đổi chúng ta và cả những mối tương quan của chúng ta với nhau, cho nên thánh nhân đã bị sốc khi nhận thấy có sự dửng dưng, sao lãng đối với người nghèo và nhận thấy thiếu một tình yêu hỗ tương giữa những tín hữu Cô-rin-tô. Quả thật, ám chỉ tới những sự chia rẽ giữa cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, Phao-lô, vị sáng lập cộng đoàn, tiến xa hơn nữa khi nói rằng thực tế họ đang kết án chính họ theo nghĩa là đời sống họ đang tương phản với những gì họ đang loan báo trong việc cử hành Thánh Thể. Cử hành Thánh Thể không phải là một bổn phận luân lý; đầu tiên và trước hết Cử hành Thánh Thể là một sự biến đổi do Chúa Giê-su mang lại. Được mời gọi hiệp thông trong Chúa Ki-tô và đáp lại lời mời gọi đó hẳn là phẩm giá của chúng ta.
13. Như chúng ta đã đề cập đến ngay từ đầu tài liệu này, một lần nữa Công Đồng Vaticano II đã lôi cuốn chúng ta chú ý đến tầm quan trọng của đề tài hiệp thông. Sự hiệp thông giữa các tín hữu trong Đức Ki-tô được đặt nền tảng trên sự chia sẻ vào những điều thánh thiện. Có sự hiệp thông trong đức tin, hiệp thông trong những bí tích, hiệp thông đặc sủng và trên hết, một sự hiệp thông trong bác ái. Hiệp thông hướng tới sự chia sẻ những sự thiện hảo, cả về tinh thần lẫn vật chất. Sự hiệp thông của chúng ta không giới hạn cho những người còn sống, nhưng hiệp thông cả với những người đã ra đi trước chúng ta và đặc biệt với các vị thánh.
14. Đề tài hiệp thông cũng luôn là chủ đề đối thoại giữa những giáo hội. Ủy Ban Quốc tế Công Giáo Rô-ma Anh Quốc (viết tắt: ARIC) đã trình bày về ý niệm hiệp thông như sau:
Hiệp thông với Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô qua Thánh Thần là trọng tâm của sự hiệp thông Ki-tô Giáo. Giữa những cách thế đa dạng mà hạn từ hiệp thông (koinonia) dùng để diễn tả trong những bối cảnh Tân Ước khác nhau, chúng ta tập trung vào cách thế làm sáng tỏ một mối liên hệ giữa những con người với nhau phát xuất từ sự tham dự của họ vào cùng một thực tại nào đó (xem 1 Ga 1:3). Con Thiên Chúa đã mang vào mình bản chất nhân loại của chúng ta, và Người đã ban xuống trên chúng ta Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta thực sự thành những chi thể của thân mình Đức Ki-tô đến độ chúng ta có thể gọi Thiên Chúa ‘Abba, Cha ơi’ (Rm 8:15; Gl 4:6). Hơn nữa, chia sẻ cùng một Thánh Thần, nhờ đó chúng ta trở nên những chi thể của cùng thân mình Đức Ki-tô và là nghĩa tử của cùng một Cha, chúng ta cũng được thắt chặt lại với nhau trong một mối tương quan mới hoàn toàn. Sự hiệp thông (koinonia) với nhau phải được bắt nguồn từ sự hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa trong Đức Ki-tô. Đây là mầu nhiệm về Giáo Hội. Nhờ Phép Thánh Thể, tất cả các tín hữu được đưa vào hiệp thông với nguồn mạch hiệp thông (the source of Koinonia). Chính Người đã phá đổ những bức tường ngăn cách nhân loại (Ep 2:14); chính Người đã chết để quy tụ tất cả con cái Thiên Chúa nên một. (X. Ga 11:52; 17: 20 tt)
15. Đối với chúng ta, đời sống hiệp thông đã bắt đầu trên trái đất này bằng những cách thức nêu trên nhưng nó chưa hoàn thành cho đến ngày trời mới đất mới sẽ đến như lời Đức Giê-su đã hứa. Thánh Thể là một sự hưởng nếm trước và là một lời hứa về trời mới đất mới nơi không ngừng sống trong sự hiệp thông. Tiếng kêu cứu cuối cùng của Kinh Thánh là ‘Vâng, xin hãy đến, lậy Chúa Giê-su!’ (Kh 22:20). Thánh Thể hướng chúng ta, những người sống trong sự hiệp thông với nhau, tới tương lai đó, không phải như một sự đe dọa nhưng như một lời mời gọi. Trong một thế giới có thể dễ dàng trở nên bận tâm tới hiện tại, Thánh Thể mời gọi chúng ta mở lòng mình ra hy vọng vào tương lai như lời Chúa hứa. Qua Thánh Thể chúng ta hưởng kiến tương lai mới này qua lời nói và hành động của chúng ta để sự hiệp thông tương lai có thể đã được tháp nhập vào hiện tại và để chúng ta đã có thể hưởng nếm và sống căn tính cuộc đời của chúng ta trong niềm hy vọng đạt đến sự viên mãn, thành toàn (live out what we are to become).
I.c. Tính ưu việt của đề tài
16. Đề tài hiệp thông đặc biệt nói tới trọng tâm của căn tính và sứ vụ chúng ta vào một thời điểm có những biến đổi căn bản trong những kiểu mẫu hiệp thông và tương quan nhân loại. Những mạng lưới tương quan nhân vị theo truyền thống và những ràng buộc xã hội càng giảm thiểu, thì càng cần đến những kiểu mẫu liên hệ mới theo những cấp độ vùng, quốc gia và toàn cầu khác nhau. Điều này khơi lên vấn đề làm thế nào Giáo Hội diễn tả đời sống cộng đoàn riêng của mình.
17. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, Giáo Hội phải là một dấu chỉ và là dụng cụ hiệp nhất con người với Thiên Chúa và với nhau. Theo Ter-tu-li-an, một trong những tác giả thời Giáo Hội sơ khai đã viết: ‘Một Ki-tô hữu đơn độc không phải là một Ki-tô hữu’. Trong Thánh Thể, chúng ta khám phá ra mật mã di truyền của hiệp thông (the genetic code of communion) ngay tại trọng tâm căn tính của Giáo Hội. Suy tư về ý nghĩa của hiệp thông, chúng ta nhận ra vì sao sự đổ vỡ trong mối hiệp thông thân mình Đức Ki-tô đánh vào chính trọng tâm sứ vụ Phúc âm hóa của Giáo Hội. Khả năng Giáo Hội lôi cuốn xã hội nghe theo mình nay đã bị giảm thiểu trầm trọng khi xã hội nhận ra rằng Giáo Hội thất bại trong đời sống hiệp thông, và gây ra nhiều vụ bê bối, tai tiếng, dù người ta biết đến nó hay không, chẳng hạn như, chủ nghĩa bè phái, lạm dụng quyền hành gây tổn thương, chủ nghĩa thể chế hay chủ nghĩa duy luật. Tất cả những điều này đòi hỏi chúng ta chú tâm liên tục tới ý nghĩa của sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau trong mọi khía cạnh của đời sống. Đặc biệt, chúng ta phải tìm ra những cách thế mới để chuyển giao đời sống hiệp thông tới những người trẻ đang sống trong thế giới phương Tây, nơi mà bằng chứng niềm tin thường bị chối bỏ. Chẳng có điều gì xác thực hơn khi nói rằng thách đố lớn nhất hôm nay là ‘làm cho Giáo Hội trở thành trường học và ngôi nhà hiệp thông’ với tất cả - khẳng định như thế cũng hàm ý đề cập đến thách đố canh tân thể chế. Ước gì chúng ta có thể nên một, để thế giới có thể vững tin. (x. Ga 17:21)
I.d. Cử Hành Thánh Thể tại Ai-len
18. Công đồng Vaticano II định nghĩa Thánh Thể như là ‘nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Ki-tô hữu’ và khẳng định rằng nó ‘chứa toàn bộ gia sản thiêng liêng của Giáo Hội’. Kể từ thời Thánh Patrick, các giáo dân tại Ai-len đã cử hành Thánh Thể với lòng kính trọng cao độ. Họ đã trung thành cử hành Thánh Thể trong các nhà nguyện nhỏ ngoài đảo, trong các ngôi làng thuộc đan viện, trong các thánh đường. Và sau này, trong suốt những thời gian bị bách hại, Thánh Thể được cử hành trên những tảng đá (Mass rocks). Quá nhiều kho tàng nhắc nhớ chúng ta cần có một tình yêu bao la đối với Thánh Thể. Bản thánh thi nổi tiếng về Thánh Thể bằng ngôn ngữ La-tinh cổ xưa nhất là Sancti Venite, được tìm thấy trong bản văn thuộc đan viện vào thế kỷ 7 tại Ai-len, đó là bản Điệp ca của Bangor. Có một gia sản hình ảnh Thánh Thể được chứa đựng trong cuốn sách danh tiếng của Kells. Trong lịch sử Ai-len gần đây, hình ảnh gắn kết với việc hiện ra của Đức Mẹ tại Knock gồm chứa cả một chủ đề tư tưởng về Thánh Thể. Đại Hội Thánh Thể năm 1932 đã được đề cập trước và cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng năm 1979 là những sự kiện chứng tỏ Thánh Thể chiếm một vị trí đáng tôn kính giữa những người dân Ai-len. Thánh Lễ đã từng là điểm trọng tâm đối với hàng ngàn nhà thừa sai Ai-len, những người đã mang niềm tin đến cho Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ, cũng như có tầm quan trọng đối với nhiều di dân Ai-len ở những vùng khác nhau trên thế giới. Ngày nay cũng vậy, người Ai-len vẫn chiếm một trong những tỷ lệ cao nhất trong việc tham gia Thánh Lễ hàng tuần tại Châu Âu. Số người tham dự Thánh lễ hàng ngày cũng tăng đáng kể. Việc tôn thờ Thánh Thể có tầm quan trọng trong đời sống Giáo Hội tại Ai-len. Đối với một số người, việc tham dự Thánh Lễ vẫn được xem là một thực hành đáng được ưa chuộng. Trong thời gian gần đây, phụng vụ Thánh Thể đã trở nên phong phú nhờ sự hiện diện của những người di dân mới nhập cư tại Ai-len.
19. Lòng kính trọng cao độ trong cách người Ai-len cử hành Thánh Thể là một tặng ân của Thánh Linh. Có lẽ nó đã được chuẩn bị từ xa bởi tổ tiên người Ai-len, giống như những người khác, đã để lại những dấu chỉ hùng hồn về cuộc tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối của họ. Ví dụ, di tích thời đồ đá tại Newgrange (được xây dựng khoảng năm 3200 trước công nguyên) trong thung lũng Boyne được dựng nên theo một cách thức mà nó diễn tả một cuộc tìm kiếm của con người, một sự diễn tả phù hợp với những gì họ cho là điều duy nhất trường tồn – như việc trái đất liên tục xoay một vòng quanh mặt trời mỗi năm. Điều được cử hành hằng năm trong mùa đông chí tại Newgrange, theo một nghĩa nào đó, là một trực giác (có lẽ đã được Thánh Linh thúc giục, ở mức độ hoàn vũ) của mầu nhiệm Vượt Qua Ki-tô giáo, một mầu nhiệm nói về sự hòa giải, bình an, nên một với Thiên Chúa và với nhau. Khi tiếp cận với Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô, người Ai-len đã khám phá ra Thánh Thể như là kho tàng đích thực và lớn lao hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa, Đấng luôn trường tồn, và hiệp nhất với nhau trong Chúa Ki-tô, Đấng là “Khởi đầu (Al-pha) và Cùng đích (Omêga)” của lịch sử nhân loại. (xem Kh 1: 8).
20. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, đã có những thay đổi trong thái độ đối với Thánh Lễ. Ngày nay, nhiều người nói rằng họ không còn tìm thấy trong Thánh lễ quà tặng sự sống nữa và dường như nó cũng không có liên hệ gì với cuộc sống nữa. Người ta nói rằng Thánh Lễ rất nhàm chán. Thánh Lễ thiếu ý nghĩa về mầu nhiệm. Có một khuynh hướng tìm kiếm sự đáp ứng tâm linh bên ngoài cộng đoàn Thánh Thể của nhà thờ/xứ đạo. Việc giới trẻ quá ít tham dự Thánh Lễ là điều đáng phải lưu tâm. Với số linh mục giảm thiểu, Ai-len có thể sẽ sớm gặp phải vấn đề liên quan đến việc cử hành Thánh Thể mà nhiều quốc gia khác đã đối mặt – đó là, hàng tuần thiếu Thánh Lễ Chúa Nhật ở một số địa phương.
21. Rõ ràng có nhiều lý do để giải thích cho sự thay đổi thái độ của tín hữu đối với Thánh Lễ – nhất là việc cử hành phụng vụ thiếu hấp dẫn, đôi lúc rất nghèo nàn. Tuy nhiên, vào một lúc nào đó khi nhiều người có cảm nghiệm về Thiên Chúa như họ kinh nghiệm về mặt trời lặn xuống chân trời, thì việc khôi phục Thánh Thể trở lại vị trí trung tâm trong cuộc sống con người được kết nối rất nhiều với việc tái khám phá khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa Nhập thể, Đấng là tình yêu, và là Đấng đang ở giữa chúng ta: “Vì ở đâu có hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy, Thầy sẽ ở giữa họ” (Mt 18:20).
22. Hiến chế Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vaticano II nói rằng trong việc canh tân phụng vụ, ‘việc mọi người tham dự Thánh Lễ cách năng động và đầy đủ là mục tiêu đáng được lưu tâm hơn hết’. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói về tầm quan trọng của việc hiểu biết nghệ thuật cử hành phụng vụ (Ars celebrandi). Những ai đóng các vai trò quan trọng trong việc cử hành, trước nhất là vị linh mục, sau đó là những người đọc sách, nhạc công, những thừa tác viên ngoại lệ cho rước lễ, những người đọc lời nguyện tín hữu cũng như những ai có liên quan đến việc phục vụ bàn thờ hoặc dâng lễ vật, đều cần chuẩn bị kỹ càng. Ngày nay, những nhóm trong xứ đạo thường cùng nhau chuẩn bị phụng vụ. Các chú giải về Thánh Lễ rất hữu ích và những điều đề cập ở đây có thể được rút ra cách đặc biệt từ Hướng Dẫn Chung Về Sách Lễ Rô-ma và Hướng Dẫn Chung Cho Sách Bài Đọc. Tuy nhiên, sẽ không có ai tham dự Thánh Lễ như một khán giả. Tất cả đều được mời gọi tham dự cách năng động, đi sâu vào mầu nhiệm Thánh Thể, nỗ lực yêu thương nhau, và tham dự cách chăm chú và thành kính, hiệp nhất trong chính bản thân họ với tất cả những gì đang diễn ra. Thật vậy, ta có thể nói rằng việc tham dự Thánh lễ cách năng động cần phải chuẩn bị tốt trước khi cử hành Thánh Thể. Tất cả mọi nỗ lực sống Tin Mừng của chúng ta nơi những mảnh đời là sự chuẩn bị tốt nhất nhằm điều chỉnh cho phù hợp với những đặc tính, ý nghĩa của cử hành Thánh Thể.
23. Một trong những hoa trái của Công Đồng Vaticano II là Sách Lễ Rô-ma 1970. Vào lúc Đại Hội Thánh Thể đang diễn ra, người ta hy vọng bản dịch Anh ngữ từ Sách Lễ La-tinh 2008 sớm sẽ được xuất bản. Bản dịch Sách Lễ Anh ngữ mới này sẽ trình bày những hướng dẫn đã được phác thảo trong một chỉ thị đối với Nghi Lễ Rô-ma, gọi là Liturgiam authenticam (Phụng vụ chính thức), nó đòi hỏi một bản chuyển ngữ chính xác hơn về những điều trong Sách Lễ La-tinh. Đại hội Thánh Thể sẽ sử dụng bản dịch Sách Lễ Rô-ma bằng Anh ngữ, xuất bản lần thứ ba.
I.e. Những Anh Chị Em trong Đức Ki-tô
24. Được những giáo huấn của Công đồng Vaticano II gợi hứng, Đại hội Thánh Thể Quốc tế năm 2012 nhắm mục đích trở nên một cơ hội thuận tiện cho những anh chị em thuộc những giáo hội và giáo đoàn khác có thể chia sẻ những hiểu biết sâu sắc và sự khôn ngoan biểu lộ nơi kinh nghiệm và những cơ cấu giáo hội của họ. Chúng ta có chung nhiều học thuyết Thánh Thể. Rõ ràng, nhiều giáo hội và giáo đoàn hiểu về mình như những nhóm/hội Thánh Thể, và cử hành bí tích Mình và Máu Đức Ki-tô.
25. Bản văn hiệu đính (của Đại hội Đại kết các Giáo hội) năm 1982 với đề tài Bí tích Rửa Tội, Bí tích Thánh Thể và Thừa tác vụ được nhiều người chào đón nồng nhiệt vì đã nhấn mạnh đến những học thuyết mà chúng ta cùng chia sẻ. Những cuộc đối thoại đông đảo giữa đôi bên về đề tài Thánh Thể, mà Giáo hội Công giáo tham dự, làm cho tất cả chúng ta thêm phong phú. Những cuộc đối thoại này giúp người Công giáo hiểu về niềm tin của họ theo một cách thức sâu sắc hơn. Chính vì thế, trong bối cảnh của Đại hội, người ta cũng đề nghị nghiên cứu chung nhiều tài liệu đã phát hành từ những cuộc đối thoại ấy. Chúng gồm có: [1] Đại hội Đại kết các Giáo hội, Bản văn hiệu đính: Bí tích Rửa Tội, Bí tích Thánh Thể và Thừa tác vụ (1982); [2] Ủy Ban Chung về Đối thoại Thần học giữa Giáo hội Công giáo Rô-ma và Giáo hội Chính thống, Mầu nhiệm Giáo hội và Thánh Thể dưới ánh sáng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (1982); [3] ARCIC (Anglican-Rô-man Catholic International Commission) [Hội nghị Quốc tế Anh giáo-Công giáo Rô-ma], Học thuyết Thánh Thể (1971), Học thuyết Thánh Thể: Minh giải (1979), Việc giải thích những Khía cạnh Cụ thể của những Phát biểu được Chấp nhận về Bí tích Thánh Thể và Thừa tác vụ (1994); [4] Đối thoại Công giáo-Tin lành, Bí tích Thánh Thể (1978); [5] Đối thoại Công giáo-Cải cách, Sự Hiện diện của Đức Ki-tô trong Giáo hội và Thế giới (1977); [6] Thánh Thể cũng đã được khám phá trong cuộc đối thoại giữa Công giáo-Giám lý hội [Methodist], Bản Tường Trình tại Dublin (1976), Ân sủng được Trao Ban cho Bạn trong Đức Ki-tô (2006).
26. Nhờ những cuộc tiếp xúc sâu xa hơn với nhau và sự hợp tác hỗ tương của mỗi bên, các Ki-tô hữu đã không ngừng cảm nghiệm được một khát vọng cháy bỏng, đó là khao khát cùng tham dự vào việc cử hành một Bí tích Thánh Thể của Chúa. Tuy nhiên, dù những hoa trái của cuộc đối thoại ấy rất phong phú, nhưng các giáo hội của chúng ta vẫn chưa đạt đến điểm hợp nhất trong tình huynh đệ trọn vẹn quanh cùng một bàn tiệc Thánh Thể. Chính vì thế, trên hết, nơi Bí tích Thánh Thể, các Ki-tô hữu cảm nhận cách sâu sắc nhất ảnh hưởng của sự chia rẽ. Chúng ta cần phải ý thức về sự nguy hại và nỗi đau đớn của vết thương ấy. Tài liệu hiệu đính, Bí tích Rửa Tội, Bí tích Thánh Thể và Thừa tác vụ, đã đề cập đến tấn bi kịch của tình cảnh này xét về mặt ảnh hưởng của nó trên những chứng từ truyền giáo.
27. Công đồng Vaticano II đã đề ra hai nguyên tắc quan trọng hướng dẫn việc chia sẻ mang tính bí tích. Thứ nhất là việc làm chứng cho sự hiệp nhất của Giáo hội, và thứ hai liên quan đến việc chia sẻ vào những phương thế ban ân sủng. Như một nguyên tắc chung, việc làm chứng cho sự hiệp nhất của Giáo hội không cho phép thành viên của những giáo hội chị em chia sẻ vào việc cử hành Thánh Thể nếu họ không bước vào sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo, nhưng chính ân sủng phát sinh từ Thánh Thể đôi khi lại khởi hứng cho các giáo hội thực hiện việc cử hành này. Thường không dễ để bước đi hài hòa giữa hai nguyên tắc ấy. Thực ra chúng luôn bổ túc cho nhau. Giáo huấn Công giáo nhắc nhở chúng ta phải luôn quan tâm đều đến cả hai nguyên tắc căn bản này. Dựa trên nền tảng này, Giáo hội Công giáo dự kiến trước những hoàn cảnh cụ thể trong đó, vì có một nhu cầu thiêng liêng cấp bách và nghiêm trọng khách quan nào đó, một thành viên của một giáo hội khác sau khi đã bày tỏ niềm tin mà Giáo hội Công giáo luôn thể hiện nơi Bí tích Thánh Thể, thì có thể rước Mình Thánh Chúa trong một Giáo hội Công giáo. Ví dụ về những trường hợp này (mỗi trường hợp phải được thẩm định cách tách biệt) gồm có: việc chấp nhận cho cha mẹ của một đứa trẻ lãnh nhận phép Thánh Tẩy trong Thánh Lễ được Rước Lễ, hay trong dịp trẻ đó Rước Lễ Lần Đầu hay chịu Phép thêm sức; cho phép cha mẹ hay vợ của một ai đó được rước lễ trong dịp người đó chịu chức linh mục; cho phép huyết tộc (immediate family) của người qua đời được Rước Lễ trong Thánh Lễ An Táng.
28.Trong khi việc chia sẻ Thánh Thể trọn vẹn giữa tất cả Ki-tô hữu vẫn chưa khả thể, thì những diễn tả khác về sự hiệp thông có thể và cần được phát triển. Trong niềm khát vọng hiệp nhất của mình, chúng ta không bắt đầu từ con số không. Nếu Thánh Thể là nguồn cội và chóp đỉnh của đời sống Ki-tô hữu, thì hẳn có một vùng rộng lớn quanh nó để tất cả chúng ta có thể và cần phải khám phá thêm. Vì, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào một Giáo hội của Đức Ki-tô (Gl 3:28; 1Cr 12:13; Ep 4:4). Có nhiều ‘sự hiện diện’ của Đức Giê-su Ki-tô được trân trọng, chia sẻ, cử hành và sống với nhau. Niềm tin nơi Phép Thánh Tẩy của chúng ta là cửa ngõ để bước vào nhiều hình thức liên-hiệp-thông trong đối thoại lối sống mà nó đặt nền cho nhiều sáng kiến đa dạng khác nhau, đặc biệt là sự hiệp thông của chúng ta nơi Lời Chúa, chẳng hạn như những kinh nguyện đại kết, những kế hoạch hòa giải, những nền phụng vụ, những cuộc hành hương đại kết, những công việc bác ái, việc giúp đỡ người nghèo và người bị loại bỏ ra bên lề xã hội, những hội đồng mục vụ địa phương, những dự án truyền giảng Tin Mừng cũng như việc các cộng đoàn sáp nhập với nhau, hội đoàn, đan viện, dòng tu, phong trào cũ và mới.
29. Hy vọng rằng Đại hội Thánh Thể có thể là một diễn đàn nhằm phát triển những hướng suy tư chung dưới ánh sáng của những kinh nghiệm tích cực đã gắn liền với cuộc sống khởi đi từ Công đồng Vaticano II. Đây cũng là dịp để nhận biết với lòng tri ân vai trò đầy giá trị và luôn tiên phong của những gia đình thuộc liên giáo hội trong việc xây dựng sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau giữa những Ki-tô hữu của những giáo hội khác nhau. Có lẽ chúng ta cùng dâng lên lời nguyện chung cho Đại hội này – đây hẳn là một cơ hội cho chúng ta sống một sự hiệp thông lẽ sống và tình yêu lớn lao hơn để chúng ta có thể bước vào ‘không gian nội tâm nơi mà Đức Ki-tô, cội nguồn của sự hiệp nhất Giáo hội, có thể tác động cách hiệu quả, với tất cả sức mạnh của Thần Khí Người, là Đấng Phù Trợ’.
I.f. Đại Hội Thánh Thể Hướng Đến Nhân Loại
30. Đôi khi có người đề nghị rằng cụm từ ‘mọi người hay đến đây’ (here comes everybody) được James Joyce sử dụng ở một trong những tác phẩm của ông, một cách nào đó, đã ám chỉ đến một số đường hướng liên quan đến ý niệm đạo Công giáo. Vì Thánh Thể chứa đựng tất cả những gì Thiên Chúa đã làm và sẽ thực hiện cho tất cả nhân loại trong lịch sử cứu độ, nên bất kỳ Đại hội Quốc tế nào về Thánh Thể cũng phải hướng tới mọi người, bao gồm cả những thế hệ hiện tại và tương lai, những người đã rửa tội hoặc chưa rửa tội. Công Đồng Vaticano II dạy chúng ta rằng vì Đức Giê-su Ki-tô đã chết cho nhân loại, ‘chúng ta phải tin rằng Chúa Thánh Thần, chỉ được nhận biết cách nào đó nơi Thiên Chúa, trao ban cho mọi người khả năng kết hợp với mầu nhiệm vượt qua.’
31. Chúng ta không thể phủ nhận rằng một số người cảm thấy thật là khó khăn để bước vào nhà thờ sau khi đã nhận ra một vài điều gì đó qua những hành động của linh mục và tu sĩ hoặc qua thái độ thụ động (the inactions) của những bề trên của họ. Những người khác, vì nhiều lý do khác nhau, vẫn giữ một chút mối liên hệ hời hợt với Giáo Hội hoặc chỉ gắn kết với Giáo Hội trong những trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, hy vọng rằng, vì bất cứ lý do nào, những ai cảm thấy mình bị gạt ra khỏi Giáo Hội, có thể nghĩ đến việc thăm viếng lại Giáo Hội và nhìn lại sứ điệp của Giáo Hội trong bối cảnh của Đại Hội. Hy vọng rằng họ sẽ khám phá ra một cộng đoàn trong những năm qua đã nhận ra rõ hơn những lỗi lầm và thất bại của mình, và bây giờ, trong tinh thần sám hối và hòa giải, tìm cách chữa lành những ký ức và bắt đầu dấn thân lại để trở nên sứ điệp và nói về sứ điệp trao ban sự sống của Đức Giê-su.
32. Phù hợp với những gì Công Đồng Vaticano II khích lệ, Giáo Hội hôm nay muốn học hỏi nơi những giáo hội anh chị em mình, những người cùng bước đi trên cuộc lữ hành. Mỗi người đều có thể đóng góp vào việc canh tân trong Giáo Hội. Ngôn sứ Isaia đã nói (43:19) ‘Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?’
II. Cùng Nhau Tiến Bước Hướng Về Đại Hội Thánh Thể
33. Nhìn cách đơn giản hơn, Đại Hội Thánh Thể là những gì sẽ diễn ra vào tháng 6 năm 2012. Việc chuẩn bị sự kiện cũng như cũng việc tiếp tục khai triển đối với Đại hội rất quan trọng. Chương trình chữa lành, canh tân và sửa chữa liên quan tới vụ bê bối lạm dụng tình dục của hàng giáo sỹ tiếp tục được thực hiện như một việc tiên quyết. Những chỉ dẫn nhằm giúp chuẩn bị Đại hội trong suốt 18 tháng đã được cung cấp từ giáo huấn (teachings) của Công Đồng Vaticano II. Những đoạn văn theo sau liên quan đến chủ đề hiệp thông và Tin Mừng hóa, đơn thuần mang tính chỉ dẫn. Trên hết, Đại Hội Thánh Thể lần thứ 50 có thể được xem như nền tảng cho việc Tin Mừng hóa, bắt đầu từ chính những người Công Giáo, những người đang dấn thân trên cuộc hành trình Tin Mừng hóa mới.
34. Đề tài của Đại Hội có thể đề nghị cho chúng ta nhiều hoạt động. Tuy nhiên, trước khi lên những kế hoạch cụ thể, trên hết tất cả, chúng ta cần cổ võ một linh đạo hiệp thông tập trung vào việc gặp gỡ chính Ngôi vị Đức Giê-su Ki-tô. Như Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI đã viết trong Thông điệp đầu tiên (first encyclical) của Người, Thiên Chúa là Tình Yêu (Deus Caritas est), số 1, ‘Là Ki-tô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa luân lý hay một ý tưởng cao ngất, nhưng là kết quả của việc gặp gỡ một sự kiện, một con người, một sự gặp gỡ trao ban cho cuộc sống chúng ta một chân trời mới và một hướng đi quyết định’. Trong ánh sáng của khoa Giáo Hội học hiệp thông theo Công Đồng Vaticano II – một sự hiệp thông đặt trọng tâm vào Con người Đức Giê-su – có thể nói rằng ngày nay Chúa Thánh Thần đang thúc đẩy toàn thể Giáo Hội hướng tới việc cổ võ một linh đạo hiệp thông, một linh đạo cho phép chúng ta quan sát và gặp gỡ được Đức Giê-su Ki-tô. Trong những điều được coi là một trong những diễn tả mạnh mẽ nhất về sự hiệp thông trên phương diện tình yêu huynh đệ được đề cập trong bản văn Huấn Quyền gởi cho toàn thể Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã diễn tả những đặc tính chính yếu của linh đạo cộng đoàn hiệp thông là cội nguồn của mọi ơn gọi. Linh đạo này phải được thực hiện trong những mối liên hệ giữa các giám mục, linh mục, và phó tế, giữa linh mục và giáo dân, giữa linh mục và tu sĩ, giữa những hiệp hội và những phong trào trong Giáo Hội.
35. Trước hết linh đạo hiệp thông liên hệ đến ‘việc chiêm niệm của con tim về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đang cư ngụ trong lòng chúng ta, và ắt hẳn chúng ta cũng có thể nhìn thấy ánh sáng của Ba Ngôi tỏa sáng trên khuôn mặt anh chị em chung quanh chúng ta’. Điều đó cũng có nghĩa là ‘một khả năng nghĩ tới anh chị em chúng ta trong niềm tin giữa một sự hiệp nhất sâu xa của Thân Mình Mầu nhiệm’ (Mystical Body), và do đó coi họ như là “ một thành phần của chính tôi ”. Ở đây, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh đến một lối ‘suy nghĩ’ và ‘cảm nhận’ mới về phương diện chia sẻ với những người khác ‘niềm vui và đau khổ của họ … ước muốn và … những nhu cầu của họ’. Điều này nhắm đến trao tặng một tình bạn chân thực và sâu xa.
36. Một linh đạo hiệp thông cũng bao hàm ‘khả năng thấy được điều tích cực nơi người khác, đón nhận nó và đạt được nó như một quà tặng từ nơi Thiên Chúa: không chỉ như một quà tặng cho những anh chị em trực tiếp đón nhận nó, nhưng cũng là một “quà tặng cho chính tôi”. Sau cùng, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II chỉ cho thấy cần phải biết cách “tạo chỗ đứng” cho anh chị em mình, trong khi mang lấy ‘gánh nặng của nhau’ (Gl 6:2) và chống lại những cám dỗ ích kỷ liên tục bao vây và xúi dục chúng ta ganh đua, tranh dành địa vị, nghi ngờ và ganh tỵ lẫn nhau.
37. Khơi lên một mô hình như thế, Đức Giáo Hoàng tóm kết bài dẫn giải của người về một linh đạo hiệp thông như sau: ‘chúng ta đừng có những ảo tưởng: nếu chúng ta không sống theo con đường thiêng liêng này, những cấu trúc hiệp thông bên ngoài sẽ chỉ phục vu cho cái mục đích nhỏ nhoi. Chúng sẽ trở nên những cơ chế cứng ngắc thiếu hồn sống, “những mặt nạ” hiệp thông hơn là những phương thế diễn tả và phát triển sự hiệp thông’.
38. Trên nền tảng của linh đạo hiệp thông mà chúng ta đang sống, chúng ta có thể và phải tiến hành để đưa ra được những những áp dụng của khoa Giáo hội học về hiệp thông ở mọi mức độ của đời sống Giáo Hội. Điều này cũng đòi hỏi một sự chú tâm mới đến Lời Chúa như Công Đồng Vaticano II đề nghị, đòi hỏi một ý thức đồng trách nhiệm không ngừng gia tăng trong công việc mục vụ tông đồ, một tình yêu ưu tiên chọn người nghèo và bạn trẻ, một sự tái khám phá về chiều kích đặc sủng của Giáo Hội và một cảm nhận lớn hơn về sức năng động của công nghị (synodality) trong đời sống Giáo Hội.
39. Thời kỳ chuẩn bị Đại Hội là một thời điểm nhìn lại ý nghĩa của Thánh Lễ Chúa Nhật hàng tuần về chiều kích hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau. ‘Bổn phận ngày Chúa Nhật’ là một bổn phận đặc biệt dành cho chính chúng ta, để lưu tâm đến sự thật rằng chúng ta là thành phần của một cộng đoàn, và rằng chúng ta và cả cộng đoàn đau khổ khi điều này bị bỏ qua. Tông Thư ‘Ngày Của Chúa’ Dies Domini (2 tháng 7, 1998) là một nguồn mạch đáng giá để khám phá nhiều khía cạnh sâu xa của Thánh Lễ Chúa Nhật. Giáo Lý về đề tài hiệp thông này có thể nhấn mạnh cho chúng ta thấy Thánh Thể là mầu nhiệm Đức Ki-tô đang sống và hoạt động trong Giáo Hội được hiểu như là sự hiệp thông như thế nào. Nền giáo lý như thế cũng có thể giải thích một cách rõ hơn nữa những hàm ý về đặc tính văn hóa, đạo đức và xã hội của Thánh Thể.
40. Gia đình, xét như là một Giáo Hội ‘tại gia’, đóng một vai trò hàng đầu trong đời sống Giáo Hội. Việc trao ban chính mình cho nhau giữa người nam và người nữ tạo nên một thực tại hiệp thông mới, thực tại về một đời sống được chia sẻ chảy lan tràn ra đời sống xã hội và Giáo Hội. Giáo Hội thường nói về ñaëc tính hoân öôùc (the nuptial character) của Thánh Thể, bí tích của Đức Ki-tô là vị Tân Nang đối với Tân Nương của Người. Trong Tông Huấn về Thánh Thể của Đức Giáo Hoàng Benedicto thứ XVI, Bí Tích Tình Yêu, số 27, chúng ta nhận ra ‘trong thần học của Thánh Phao-lô, làm thế nào tình yêu vợ chồng là một dấu chỉ bí tích của tình yêu Đức Ki-tô đối với Giáo Hội, là một đỉnh cao của tình yêu trên Thập Giá, là sự diễn tả về “hôn ước” của Người với nhân loại và đồng thời là nguồn gốc và trọng tâm của Thánh Thể. Vì lý do này Giáo Hội tỏ lộ sự gần gũi thiêng liêng đặc biệt của mình đối với tất cả những ai xây dựng gia đình họ trên nền tảng bí tích hôn nhân’. Đại Hội Thánh Thể năm 2012 là một cơ hội đáng giá để khám phá xem gia đình có thể được giúp đỡ như thế nào trong xã hội đương thời để sống đời sống hiệp thông và cũng để khám phá xem đời sống gia đình – trong nhiều chiều kích phong phú của nó – đã cống hiến điều gì cho đời sống hiệp thông rộng lớn hơn trong Giáo Hội. Tông Huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II,Tình liên đới trong Gia Đình (Familiaris consortio) (1981) và Thư của người gởi đến Các Gia Đình (1995) cũng có thể được tìm hiểu trong bối cảnh này.
41. Những mối hôn nhân đượm nét tình yêu và đời sống gia đình ổn định góp phần lớn lao vào sự thiện hảo chung. Hôn nhân đổ vỡ và gia đình rạn nứt, do đó, càng làm cho tan nát cõi lòng hơn. Giáo Hội muốn vươn tay ra cho những tín hữu đang thấy mình sống trong những trường hợp khó khăn như thế và đang cần sự giúp đỡ để phân định rõ những hoàn cảnh khác nhau. Đại hội Thánh Thể Quốc Tế năm 2012 nên khám phá nội dung được trình bày trong Tông Huấn Bí Tích Tình Yêu, số 29, ‘những gia đình ly dị và tái hôn tiếp tục thuộc về Giáo Hội, một Giáo Hội đồng hành với họ bằng sự quan tâm đặc biệt và khích lệ họ sống đời sống Ki-tô hữu cách sung mãn tròn đầy bao nhiêu có thể qua việc tham dự đặc biệt vào Thánh Lễ, mặc dù không thể Rước Lễ, nhưng luôn lắng nghe Lời Người, tôn thờ Thánh Thể, cầu nguyện, tham dự vào đời sống cộng đoàn, đối thoại chân tình với một linh mục hay vị hướng dẫn thiêng liêng nào đó, sống đời bác ái, thực hành những việc sám hối, và dấn thân giáo dục con cái họ’.
II. b. Rao giảng Tin Mừng
42. Giáo Hội tồn tại để rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội có Phúc Âm để mang đến cho thế giới. Giáo Hội được mời gọi là để chỉ ra con đường hướng tới hạnh phúc và sự hoàn thiện. Trong Tin Mừng chúng ta đọc nói về việc một số người Hy Lạp đã đến với thánh Philipphê Tông Đồ trong cuộc hành hương đến Jerusalem vào dịp lễ Vượt Qua và xin ‘gặp Đức Giê-su’ (x. Ga 12:21). Ngày nay nhiều người cũng muốn gặp được Người. Có lẽ hơn trước đây, người ta muốn người Ki-tô hữu không chỉ 'nói' về Đức Ki-tô, nhưng còn phải ‘trình bày’ cho họ thấy Đức Ki-tô.
43. Thánh Thể lôi kéo chúng ta vào sự hiệp thông , vì tự bản chất, hiệp thông là truyền giáo, là rao giảng Tin Mừng. Nếu ta sống các chiều kích của mầu nhiệm Thánh Thể thì chúng ta phải trình bày về một Đức Giê-su Ki-tô qua đời sống cá nhân cũng như đời sống cộng đoàn. Hiệp thông và truyền giáo tương quan mật thiết với nhau. Như một tác giả đương đại nói, ‘Thật chắc chắn rõ ràng rằng chỉ có Dân Thiên Chúa mới qui tụ nên một và nhất trí đồng tâm để thu phục thế giới này’. Vì món nợ được biến đổi bởi tình yêu nơi Nhiệm Tích Thánh Thể mà chúng ta ra đi để biến đổi thế giới chung quanh bằng tình yêu chúng ta đã gặp được nơi Nhiệm tích Thánh Thể. Chúng ta ra đi với niềm xác tín rằng để tiếp tục mang Đức Ki-tô đến với mọi người, để xây dựng tình hiệp thông: ‘Điều mà chúng tôi đã thấy và đã nghe chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi’ (1Ga 1:3).
44. Theo đó, Đại Hội Thánh Thể Quốc tế 2012 là thời gian để cùng nhau xem lại những tác động của Thánh Thể trong việc truyền giáo. Trên cơ sở Giáo Hội học của Công Đồng về hiệp thông truyền giáo, sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội thường được nói tới bằng những hạn từ ‘những vòng tròn đối thoại '. Chúng ta đối thoại với nhau, đối thoại với những anh chị em Ki-tô hữu và đối thoại với anh chị em thuộc các tôn giáo khác. Đối thoại được mở ra cho tất cả mọi người có thiện chí, bất kể người có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, là những người phấn đấu để xây dựng một thế giới dựa trên phẩm giá của con người và các giá trị của công lý và sự giải thoát, sự sống và hòa bình, liên kết với những người bị gạt ra bên lề xã hội, giáo dục, quan tâm đến những người bệnh hoạn, tật nguyền và những người cần được giúp đỡ. Nhận ra thực tế đó, Đại Hội Thánh Thể trở thành biến cố để long trọng công bố, đối thoại, chia sẻ Tin Mừng và đưa ra những lời chứng cụ thể. Điều này cũng có nghĩa là làm mới lại ơn gọi của chúng ta để ‘luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em’ (1Pr 3:15). Ở đây chúng ta có thể rút ra cùng cảm hứng từ Chân Phước John Henry Newman trong hiểu biết sâu sắc nhạy bén về mối tương quan giữa đức tin và lý trí.
45. Ngày nay Giáo Hội mời gọi chúng ta phải trở nên những con người giàu sức tưởng tượng. Điều đó muốn nói về sự cần thiết cho công cuộc truyền giáo mới, một trong những điểm thiết yếu chính là phải có sự mới mẻ trong nghị lực, phương pháp và cách diễn đạt. Đại Hội Thánh Thể nên chú trọng đến các hình thức sùng kính đạo đức đại chúng liên quan đến Bí Tích Thánh Thể để hội nhập vào công cuộc tân Phúc Âm hóa Của Giáo Hội.
46. Trong khi chuẩn bị cho Đại Hội, có lẽ sẽ thích hợp nếu đưa vào một số hình thức thú nhận trước Thiên Chúa và tất cả mọi người, các lỗi lầm mà chính các thành viên của Giáo Hội đã mắc phải. Thanh tẩy ký ức là điều thiết yếu cho cả việc hiệp thông lẫn khía cạnh Phúc Âm hóa.
47. Mầu nhiệm Thánh Thể mở ra cho chúng ta thấy những khía cạnh của xã hội, văn hóa và chính trị liên quan đến Tin Mừng. Đó là ‘trường dạy về một tình yêu năng động hướng về tha nhân’. Chúng ta hãy suy gẫm về lời nhận định của Chân Phước Thérèse Calcutta : Trong Thánh Lễ chúng ta có Đức Giê-su ẩn thân nơi hình bánh, trong khi ở các khu ổ chuột, chúng ta thấy và động chạm đến Đức Ki-tô nơi những mảnh đời nát tan và nơi những trẻ thơ bị ruồng bỏ. Sự tham dự đích thực vào Thánh Lễ sẽ nhắc nhở chúng ta rà soát lại những mối tương quan về thể chế, cá nhân và xã hội của mình với tất cả anh chị em đồng loại. Đại Hội Thánh Thể năm 2012 có thể là một dịp để phản ánh dưới ánh sáng của Giáo Huấn của Giáo Hội về Xã Hội về những liên đới của Thánh Thể đối với nhiệm vụ của Giáo Hội trong việc cổ võ cho công lý, hòa bình và tự do. Đặc biệt, đời sống chính trị và kinh tế có thể được phân tích trong ý nghĩa sự hiệp thông qua sự soi dẫn của Đức Thánh Cha Benedicto XVI trong thông điệp Encyclical ‘Caritas in Veritate’ năm 2009.
48. Khai thác về đề tài bảo vệ công trình sáng tạo trong lập luận về sự hiệp thông là một điểm đến khác có thể đem lại nhiều lợi ích cho việc chuẩn bị Đại hội. Đó là cơ hội để phản ánh về các mối đe dọa đến môi trường và niềm hy vọng của Ki-tô giáo mà chính điều đó đưa chúng ta vào hành động trách nhiệm phải bảo vệ ‘tạo thành’. Thánh Thể mang đặc tính vũ trụ và phổ quát, và vì thế có thể nói rằng, ‘ngay cả khi Thánh Thể được cử hành trên bàn thờ hết sức khiêm tốn trong ngôi nhà thờ nhỏ bé nào đó ở một làng quê hẻo lánh, thì trong một cách nào đó Thánh Thể lại được cử hành trên bàn thờ thế giới. Việc Cử hành ấy bao trùm và thấm nhập tất cả các tạo thành’.
49. Cuối cùng, Đại Hội Thánh Thể Thế Giới năm 2012 có thể là một cơ hội để suy tư về những khả năng rộng lớn được cung cấp bởi phương tiện truyền thông đại chúng và công nghệ kỹ thuật số để xây dựng gia đình nhân loại trên toàn thế giới. Chúng ta có thể tìm thấy các viễn cảnh về văn hóa, thần học và tâm linh, phản ánh trong thông điệp Thánh Thể, cung cấp cho chúng ta dữ liệu để suy tư về việc phải làm thế nào để hiểu và sử dụng tốt nhất phương tiện truyền thông đại chúng.
II.c. Một câu chuyện hướng dẫn chúng ta: Các môn đệ trên đường về E-mau
50. Câu chuyện Đức Ki-tô gặp gỡ hai môn đệ trên đường E-mau có nhiều điều để nói với chúng ta khi chúng ta đưa ra hành trình hướng đến năm 2012 (Lc 24:13-35). Câu chuyện là một phép ẩn dụ mà nó có thể truyền cảm hứng cho chúng ta. Đó là một sự kiện xảy ra ‘dọc đường’. Hai môn đệ là những người trước đây đã theo Đức Giê-su đang cùng đi với nhau và đang nói về sự kiện đau buồn và bí ẩn vừa mới xảy ra ở Jerusalem – đó là việc Đức Giê-su bị đóng đinh và sự kiện về ngôi mộ trống. Một 'người lạ' đến và bước đi với họ. Họ không nhận ra Người. Đang khi mộng ước vỡ tan và niềm tin bị dao động, họ sống trong tâm trạng buồn bã đến nỗi không thể nhận ra Đức Giê-su chịu đóng đinh và Phục Sinh. Bị tắc nghẽn trong đau thương, họ không thể nhìn thấy điều mới lạ. Nhưng chính người lạ này đến và nhập cuộc vào câu chuyện của họ. Trong việc công bố tin mừng Phục Sinh, họ kể câu chuyện của họ cho đến khi Chúa bị đóng đinh. Chỉ thiếu một chi tiết đó là biến cố Phục Sinh ! Cái chết của Đức Giê-su đã xóa tan giấc mơ giải phóng. Họ đã từng ước vọng rằng Người sẽ khai mở triều đại Nước Thiên Chúa mà trong đó mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với nhau được diễn ra dưới hình thức mới là cộng đoàn của Đấng Thiên Sai. Thay vào đó, các thủ lãnh của họ đã trao nộp Người để Người bị xử tử. Các môn đệ đau buồn và bị mất phương hướng. Mọi sự đã không diễn ra như họ đã từng mong đợi. Thật sự, họ đã nghe tin báo về ngôi mộ trống từ những người phụ nữ đã từng theo Đức Giê-su, những người đầu tiên công bố Sự Phục Sinh, nhưng việc đó đã chẳng gợi lên được điều gì nơi hai ông ngoài một thoáng ngạc nhiên.
51. Ở điểm này, Đức Giê-su bắt đầu nói, sau khi đã chăm chú lắng nghe. Người chính là Tin Mừng mà họ cần cảm nghiệm được! Việc trước tiên Người làm là chỉ ra tất cả mọi điều trong Kinh Thánh để giúp họ hiểu các sự kiện phải được diễn ra nơi Đức Ki-tô. Người nhấn mạnh các điều kiện thiết yếu để tham dự vào cuộc sống mới trên trời với Thiên Chúa: chịu đau khổ và chết như Đức Ki-tô để chỗi dậy vào đời sống mới. Cuộc lữ hành phải đi đển điểm kết thúc của nó. Các môn đệ đã đi đến nơi của họ. Đêm đã đến. Các môn đệ nài ép Đức Giê-su lưu lại với họ. Trong hoàn cảnh này, chúng ta có biết ý thức để cầu xin Đức Giê-su ở lại với chúng ta, với cộng đoàn của mình khi bóng đêm của sự thử thách đang đến gần không?
52. Đức Giê-su thực hiện những hành động có liên quan đến nghi thức trong bữa ăn của người Do Thái. Người Ki-tô hữu khi đọc câu chuyện này sẽ nhận ra ngôn ngữ của việc cử hành Thánh Thể. Bây giờ Đức Giê-su đã trở thành người chủ của gia đình, như trước đây, đang đồng bàn với các môn đệ. Đó là một lời nhắc nhở rằng trong cử hành Thánh Thể, tín hữu được mời chia sẻ trong bữa tiệc thiên quốc với chính Đức Ki-tô Phục Sinh là vị chủ tọa trong bữa tiệc đó. Hai môn đệ cảm nghiệm được sự hiện diện của Người ở đó. Trong Bàn Tiệc Thánh Thể, rốt cuộc họ cũng đã nhận ra Đấng đã đồng hành với họ trên đường là ai. Nhưng, ngay lúc nhận ra Người, Đức Giê-su đã biến mất khỏi tầm nhìn của họ. Sự hiện diện của Người giờ đây trở nên 'thấy được' theo một cách thức mới nhờ đức tin. Nhờ Thánh Kinh và việc cử hành Thánh Thể mà mắt của họ đã được mở ra và nhìn 'thấy được'. Bây giờ họ tiếp tục sứ mạng của Đức Giê-su là đi loan báo Tin Mừng. Người ở trong họ và ở giữa họ.
53. Trong trình thuật hai môn đệ trên đường E-mau, Thánh sử Lu-ca nhấn mạnh cho chúng ta cách thế, trước khi mở mắt cho họ, Đức Giê-su đã khai mở cho các môn đệ hiểu về Kinh Thánh, một sự chuẩn bị thiết thực cho việc gặp gỡ với tính cách cá nhân trong đức tin. Thánh Lu-ca cũng giúp chúng ta lưu ý phải làm thế nào để nhận ra rằng chính Chúa Thánh Thần làm việc trong họ, 'thiêu đốt' lòng họ (x. Lc 3:16) như Đức Giê-su đã nói, khơi dậy niềm tin, tạo cho họ một tương quan mới với Đức Ki-tô Phục Sinh và ban cho họ sức mạnh để ra đi và làm chứng. Hai môn đệ, chúng ta được nghe, trở lại Jerusalem ngay lập tức, mặc dù lúc đó đã muộn. Rõ ràng, thật quan trọng đối với họ trong việc quay lại để hiệp thông với những môn đệ khác, trong Đức Giê-su Ki-tô, để trở thành những hạt nhân của Giáo Hội sơ khai. Ở đó, họ nghe nhóm mười một công bố rằng: 'Đức Giê-su sống lại thật và đã hiện ra với ông Simon’ còn gọi là Phê-rô. Lời chứng của Phê-rô và của các môn đệ được Đức Giê-su tuyển chọn, trở nên đáng tin cậy cho niềm tin vào Sự Phục Sinh của Người. Nhưng hai ông vẫn đi về Jerusalem để loan báo Tin Mừng. Hai môn đệ kể lại câu chuyện đã xảy ra dọc đường, đó là, việc giải thích Kinh Thánh bởi người đồng hành lạ mặt mà sau đó trong lúc 'bẻ bánh' họ mới nhận ra Đức Ki-tô phục Sinh. Thông điệp thật rõ ràng. Đối với các cộng đoàn Ki-tô hữu, Thánh Kinh và Cử Hành Thánh Thể là nguồn mạch chính yếu của cuộc gặp gỡ với Đức Ki-tô Phục Sinh, Đấng làm cho chúng ta hiệp thông với nhau, thành ‘những Ki-tô khác' và sai chúng ta ra đi loan báo Tin Mừng.
PHẦN HAI
Các phần của Thánh Lễ Hướng Dẫn cho chủ đề của Đại Hội
54. Trong phần thứ hai của tài liệu này, chúng ta đi đến việc xem xét chủ đề của Đại hội. Không có tổng hợp nào có thể nói hết được sự phong phú về ý nghĩa lẫn nguồn qui chiếu có được nơi Thánh Thể. Như Sách Giáo Lý của Giáo Hội đã nói: ‘Thánh Thể là dấu chỉ hiệu quả và là nguyên lý cao siêu của sự hiệp thông trong sự sống thần linh và sự hợp nhất của Dân Thiên Chúa mà từ đó Giáo Hội được tồn tại’. Trong Vịnh ca Bí Tích Cực Thánh ‘O Sacrum Convivium’, thánh Thomas Aquino cho chúng ta một tóm tắt tuyệt vời về Thánh Thể: ‘Ôi tiệc Thánh, nơi đó Chúa Ki-tô được nhận lãnh, nơi đây chính là việc tái hiện cuộc Vượt Qua, để tâm trí được đổ đầy ân sủng, và đoan hứa một tương lai vinh hiển cho chúng con’.
55. Thánh Lễ được thánh Augustino gọi là hành động của ‘Đức Ki-tô Toàn Thể’, đó là Đức Giê-su Ki-tô và Thân mình Người là Giáo Hội. Đức Giê-su Ki-tô là vị chủ tế thực sự của việc cử hành Thánh Thể. Người là Đấng yêu thương chúng ta trước, nên qui tụ chúng ta lại, nói với chúng ta, đón nhận lời cầu nguyện của chúng ta, và trong quyền năng của Thánh Thần, Người dâng hiến chính mình lên Chúa Cha thay cho chúng ta. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng bánh bởi trời, bánh hằng sống, bánh đích thực. Thánh Thể dọn lòng chúng ta hướng về ngày trở lại trong vinh quang của Đức Ki-tô. Giáo Hội phụ thuộc hoàn toàn vào hành động này của Đức Ki-tô. Dân Chúa cầu nguyện và trao dâng chính mình cho Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô, với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Mỗi khi cộng đoàn qui tụ để cử hành Thánh Lễ, dù ít hay nhiều người tham dự, thì cộng đoàn đó vẫn đại diện cho Giáo Hội hoàn vũ để cử hành mầu nhiệm cao cả này của Thánh Thể. Như vậy, Thánh Lễ là việc cử hành mang tính cộng đồng chứ không phải là hành động mang tính cá nhân hoặc riêng tư.
56. Để tập trung vào chủ đề của Đại Hội, phần này của tài liệu sẽ được sắp xếp xoay quanh cấu trúc của việc cử hành Thánh Thể. Một nghiên cứu kỹ lưỡng từng phần, và các văn bản của Thánh Lễ đã mở ra cho thấy rất nhiều kho tàng thiêng liêng trong Giáo Hội. Khi chúng ta mượn những phần của Thánh Lễ để giúp ta suy gẫm về chủ đề của Đại Hội Thánh Thể Thế Giới năm 2012, chúng ta có thể lưu ý cách thế mà cả ba sự hiệp thông liên đới với nhau: hiệp thông với Đức Ki-tô qua tha nhân, hiệp thông với Đức Ki-tô trong Lời Chúa và hiệp thông với Đức Ki-tô qua dấu chỉ bí tích nơi bánh và rượu. Chính từ câu chuyện của hai môn đệ trên đường E-mau đưa chúng ta đến việc suy gẫm từng phần của Thánh Lễ.
III. Nghi Thức Nhập Lễ: Hành Trình Tiến Tới Sự Hiệp Thông Với Đức Ki-tô và Tha Nhân
‘Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là E-mau ... Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ ... Khi tới gần làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn muốn đi xa hơn nữa. Nhưng họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn”. Bấy giờ, Người mới vào và ở lại với họ’. (Lc 24:13-17, 29)
III. a. Đức Ki-tô Tử Nạn và Phục Sinh quy tụ chúng ta lại với nhau
57. Các môn đệ trên đường E-mau xin Đức Giê-su ở lại với họ. Khi ở lại với họ, Người trở thành người chủ của gia đình, vì như trước đây, Người qui tụ họ lại quanh bàn tiệc Thánh Thể. Thánh Lễ sắp bắt đầu, chính Đức Giê-su Ki-tô mời gọi và qui tụ mọi người lại với nhau.
58. Nơi nào chúng ta tụ họp lại với nhau là nơi đó Giáo Hội đang qui tụ. Viết về việc tham dự vào Bàn Tiệc của Chúa, Thánh Phao-lô sử dụng cụm từ - ‘khi anh em họp nhau lại ...’ (1 Cr 11:18, 20;. cf 14:26) - cùng kiểu nói đó, tiếng Hy Lạp gọi là giáo hội (ekklēsia) và tiếng Do Thái gọi là (qahal) cuộc tụ họp của Dân Thiên Chúa. Đức Giê-su Ki-tô, Người luôn luôn đi trước Giáo Hội, vô hình nhưng là chủ tế thực của Thánh Lễ, tập hợp dân tư tế của Người lại với nhau (x.1Pr 2:9). Người là Hôn Phu của Tân Nương, dân Người, tức là Giáo Hội, đang mời gọi chúng ta một lần nữa tham dự vào 'bữa tiệc-tưởng niệm' trong đó biến cố cứu độ chỉ diễn ra một lần cho tất cả mà hiệu lực còn đến trong hiện tại. Lời ca tiếng hát của chúng ta trong Thánh Lễ là sự tổng hợp nhiều tiếng nói lại thành một để bày tỏ một thực tại là chúng ta là đoàn dân, cùng chung một trái tim, một tâm hồn, để vinh danh Thiên Chúa.
59. Nói rằng chúng ta qui tụ để cử hành Thánh Lễ là điều hiển nhiên, nhưng cũng có nguy cơ ý nghĩa của việc tụ họp bị giảm nhẹ. Trong kỷ nguyên mà việc gặp gỡ với những người khác được đóng khung bởi công nghệ của internet, truyền hình và điện thoại di động hơn là tương quan mặt đối mặt, đặc biệt là với tình trạng nặc danh thường xảy nơi các đô thị lớn, thì việc tái khám phá đặc tính rõ ràng nhất này nơi Thánh Lễ thật là tốt. Thánh Lễ qui tụ mọi người thuộc các độ tuổi, nguồn gốc và sở thích khác nhau. Thực ra, một trong những tên gọi cổ xưa nhất được dùng cho việc cử hành Thánh Thể là synaxis, nghĩa là cùng đến với nhau, sự qui tụ.
60. Cuộc rước là dấu hiệu khởi đầu của việc cử hành. Cuộc rước, nhiều hay ít người, nhắc nhớ về hành trình của đời sống chúng ta. Tất cả chúng ta đều đang bước đi trên cuộc hành trình thánh thiêng cùng với nhau. Dân Israel hành trình trong sa mạc để tiến về đất hứa 'trên đôi cánh của đại bàng' dưới sự hướng dẫn của Mô-sê, Joshua và các thủ lĩnh khác (Ex 19:04). Trên hành trình đó Thiên Chúa ban manna để dưỡng nuôi họ. Chính Đức Giê-su qui tụ các môn đệ lại và họ cùng nhau tiến về Jerusalem. Ở mức độ sâu xa hơn, Đức Giê-su muốn nói về chuyến hành trình của Người theo nghĩa vượt qua thế giới này đến với Đấng mà Người gọi là 'Abba' Cha. Như chúng ta thấy trong trường hợp của hai môn đệ trên đường E-mau, sau cái chết và sự Phục Sinh của mình, Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh tái qui tụ cộng đoàn của Đấng Thiên Sai đã từng bị phân tán do bởi những lần thất bại hoàn toàn trong khi thi hành sứ mạng. Người đã biến các môn đệ thành những kẻ đi theo Người, đi theo lối sống mà sau này các môn đệ gọi là ‘Con Đường’ bởi chính Đức Giê-su Ki-tô là Đường, là Sự Thật và là Sự sống (Ga 14:6). Tại mỗi Thánh, Lễ Đức Giê-su Ki-tô tập hợp dân này để cử hành lễ tưởng niệm long trọng về cuộc tử nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. Cuộc tưởng niệm này liên kết chúng ta lại để chúng ta được chia sẻ vinh quang của vị thủ lãnh chúng ta, Giô-suê Mới, người dẫn chúng ta trên hành trình tiến về đất hứa mới để được hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau.
61. Trong lời chào mở đầu khi giám mục hay linh mục, thay mặt Đức Ki-tô để nói: ‘Chúa ở cùng anh chị em’, và mọi người đáp, ‘Và ở cùng cha’, ( hay: Và ở cùng thần khí của cha; theo bản dịch mới), chúng ta nhận ra một thực tại là Đức Giê-su Ki-tô đang hiện diện giữa chúng ta để lấp đầy và khơi lên lòng khao khát của chúng ta được qui tụ lại với nhau. Người đã hứa: ‘Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, ở giữa họ’
(Mt 18:20). Nhưng khi chúng ta nói rằng Đức Giê-su ở giữa chúng ta thì chúng ta cũng đang nhớ lại rằng Người muốn chúng ta được ở nơi Người ở, tức là trong chính cung lòng của Thiên Chúa.
62. Thật vậy, vào lúc bắt đầu Thánh Lễ, khi chúng ta làm dấu Thánh Giá trên mình, chúng ta được nhắc nhở rằng chúng ta không chỉ đơn thuần thuộc một nhà thờ địa phương nào đó, đang làm việc thờ phượng một Thiên Chúa, Đấng ngự trên cao. Chúng ta không phải là những người ở ngoài Thiên Chúa nhưng đúng hơn, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta là ‘những người ở trong’, nghĩa là, người tín hữu đã được rửa tội được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, được sống trong mối tương quan của chính Người, đó là mối thông hiệp yêu thương giữa Cha, Con và Thánh Thần. Đức Giê-su linh mục thượng phẩm và chủ tế, đứng trước ngai ân điển, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Thông qua các nghi thức phụng vụ, chúng ta được đưa vào trong hoạt động của tình yêu, nó làm cho ta đến ở trong Đức Giê-su Ki-tô, kéo chúng ta vào với Chúa Thánh Thần để hướng tới Chúa Cha và vì vậy mắt chúng ta được mở ra để nhìn về phía anh chị em của mình trong sự hiệp thông đức tin. Vâng, chúng ta đang ở trong tòa nhà được gọi là nhà thờ, nhưng trong thực tế chúng ta cũng đang ở trong một không gian thánh thiêng mà nó đã được mở ra cho chúng ta bởi Chúa Thánh Thần. Trong thần khí của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng là tình yêu (1 Ga 4), chúng ta được mời gọi để khám phá ra mỗi người lân cận như anh hay chị em của mình mà chúng ta được liên kết với họ vì chính Đức Giê-su Ki-tô đã chết cho họ (x. 1 Cr 08:11).
III. b. Nghi Thức Sám Hối và ‘Lời Nguyện Nhập Lễ’ – Trong Tình Liên Đới với Nhau
63. Ngay sau lời tuyên xưng ‘Chúa ở với chúng ta’ và nhận thức về biến cố cao cả mà chúng ta sắp cử hành và trước khi lắng nghe Lời Chúa, chúng ta có một khoảng thời gian thinh lặng để thú nhận tội lỗi của mình hầu lãnh nhận sự tha thứ chữa lành của Thiên Chúa. Bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Tuy nhiên, trong Tin Mừng thứ tư, chúng ta đọc thấy rằng vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su truyền ban cho nhóm Mười Hai quyền tha tội (Ga 20:21-23). Đức Giê-su đã thực hiện điều đó thông qua việc thổi hơi ban Thánh Thần cho họ. Khi cộng đoàn tụ họp để cử hành Thánh Lễ thì việc nài xin sự tha thứ không chỉ ở tư cách những cá nhân nhưng với tính cách của một cộng đoàn liên đới với nhau trong cùng một nhu cầu được nhận ơn tha thứ. Lời cầu nguyện của chúng ta vang lên trong sự hiệp thông với Đức Maria, các thiên thần, các thánh và cùng với anh chị em chung quanh. Chúng ta cam kết bắt đầu lại hành trình phép rửa trong tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân với hết cả trí lòng. Nghi thức rảy nước phép trong phần đầu của Thánh lễ nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa Phép Rửa và việc chúng ta tham dự vào cử hành Thánh Thể. Kinh Vinh Danh là lúc để chúng ta cùng cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa vì mọi ơn lành Người đã thương ban mà ơn cao trọng nhất là chính Con Một của Người.
64. Lời mời gọi của linh mục: ‘Chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện’ dẫn vào ‘lời nguyện Nhập Lễ’ để rồi kết thúc phần phụng vụ mở đầu Thánh Lễ. Chúng ta được mời gọi tham dự vào sự thinh lặng và cầu nguyện. Đó là lời mời gọi để qui tụ tất cả những lời nguyện tự đáy lòng của mỗi người góp vào với tâm tình chung trong ‘lời nguyện Nhập Lễ’ của Giáo Hội, lời nguyện Nhập Lễ đó được dâng lên Chúa Cha, nhờ Đức Ki-tô, trong Chúa Thánh Thần. Thực ra, thấm nhuần trong niềm tin yêu và hy vọng, đời sống của chúng ta được mời gọi trở nên lời thưa “ Vâng” với Thiên Chúa, được thể hiện qua tình yêu thương tha nhân và lời cầu nguyện hàng ngày. Đây là lời công bố mạnh mẽ nhất trong Thánh Lễ. Nơi đây, chúng ta mang đến tất cả những gì xảy ra nơi cuộc sống của cá nhân cũng như của gia đình mình. Chúng ta mang đến để dâng lên Chúa niềm vui cũng như nỗi buồn, niềm hy vọng lẫn ước mong của toàn Giáo Hội và của cả nhân loại. Chúng ta cần có giây phút này ngay từ đầu Thánh Lễ khi chúng ta nhắc nhở chính mình tạ ơn Chúa vì những điều tốt lành đã lãnh nhận và xin Người tiếp tục ban thêm cho chúng ta. Lời nguyện nhập Lể thường chứa đựng những ý suy gẫm sâu sắc và phong phú của ngày lễ hoặc mùa phụng vụ.
IV. Phụng Vụ Lời Chúa: Sự Hiệp Thông Với Đức Ki-tô Trong Phụng Vụ Lời
‘Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh... Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?’
(Lc 24: 27,32)
IV.a. Hai Bàn Tiệc: Lời và Bánh Hằng Sống
65. Trong câu chuyện E-mau mà chúng ta đã được nghe, Đức Ki-tô Phục sinh đã lên tiếng trách hai môn đệ đã không biết lấy Lời Chúa để dưỡng nuôi đức tin của mình “ Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ.” (Lc 24:25). Trước khi mở mắt cho họ để họ nhận ra Người qua việc bẻ bánh, Đức Giê-su đã mở Thánh Kinh và giải thích cho họ. Hay nói cách khác, việc gặp gỡ Đức Giê-su qua Sách Thánh được liên kết chặt chẽ qua việc gặp gỡ cá nhân với Người trong niềm tin qua việc bẻ bánh. Chương số 6 của Tin Mừng theo Thánh Gioan cũng chỉ ra rằng việc tiếp nhận Bánh Hằng Sống không thể tách rời việc lắng nghe, tin vào và đem ra thực hành Lời của Đức Giê-su Ki-tô.
66. Lịch sử của dân Israel cho thấy đó là câu chuyện của một dân tộc được hướng dẫn một cách sống động bằng Lời của Thiên Chúa. Vũ trụ được sáng tạo bằng Lời. Các ngôn sứ nói Lời của Đức Chúa. Hầu hết, Lời được thấy như đang có sự hiện diện của một con người. Đối với dân Israel, rõ ràng Lời Chúa trở nên ‘như mưa với tuyết sa xuống từ trời, Lời Ta sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả’ (Is 55:10). Trong các thư của Thánh Phao-lô, Lời Chúa cũng được trình bày sống động và mang tính hiện sinh. Thánh nhân đã phó thác các trưởng lão trong cộng đoàn Ê-phê-sô cho Lời mà Lời đó có sức xây dựng (x.Cv 20:32). Trong phần giới thiệu của sách Tin Mừng Thứ Tư, chúng ta đọc thấy rằng Chúa Giê-su là Đấng đã hoàn thành tất cả những gì mà Sách Thánh đã tiên báo trong Cựu Ước. Đức Giê-su là ‘Ngôi Lời trở nên người phàm’; Người cắm lều giữa chúng ta (Ga 1,14). Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa Đức Giê-su, Lời xuống từ trời, những lời hằng sống của Người đã được thông ban cho chúng ta qua Thánh Kinh và Bánh Hằng Sống mà Người trao ban như của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng chúng ta. Thánh Gioan đã bắt đầu thư thứ nhất của mình bằng việc mô tả cách thế mà các tông đồ lắng nghe, hiểu, chiêm niệm và đem ra thực hành ‘Lời Hằng Sống’ ra sao.
67. Để tiếp nối từ truyền thống cổ xưa, việc đọc Sách Thánh được duy trì trong mỗi Thánh Lễ. Trong những tác phẩm được viết vào những năm 150 sau Công Nguyên, Thánh Justino đã mô tả Thánh Lễ thời đó với rất nhiều điểm tương đồng với Thánh Lễ ngày nay. Thánh nhân đã đưa ra cho thấy thứ tự căn bản của việc cử hành Thánh Thể mà chúng vẫn được duy trì cho tới ngày nay. Người nhắc đến việc đọc những trang hồi ký của các Thánh Tông Đồ và những bút tích của các Ngôn Sứ khi thời gian cho phép, và khi người đọc kết thúc, vị chủ sự sẽ trực tiếp hướng dẫn và khích lệ mọi người học hỏi, làm theo những điều tốt đẹp này.
68. Nhận ra sự hiện diện của Đức Ki-tô trong Sách Thánh, nhiều bản văn Kinh Thánh thuộc về thời các Giáo Phụ cũng như các Công Đồng đầu tiên được phác thảo dưới hình thức song đối giữa Lời Chúa và Thánh Thể. Thánh Inhaxio thành Antiokia khẳng định: ‘Thánh Kinh là nơi tôi ẩn náu vì đối với tôi, Thánh Kinh cũng giống như thịt máu của Đức Giê-su vậy’. Còn thánh Cêdariô thành Arles viết: ‘Hỡi anh chị em, hãy cho tôi biết cái nào quan trọng hơn: Lời Chúa hay Thánh Thể? Và để có câu trả lời xác đáng, anh chị em chắc chắn phải nói rằng Lời Chúa không thua kém Mình Thánh Người. Và do đó, nếu chúng ta rất cẩn thận, cố gắng không để Mình Thánh Chúa rơi xuống đất khi cầm dù chỉ là một mảnh vụn, thì chúng ta cũng phải cẩn thận như vậy đối với Lời Chúa vì Lời Chúa được ban tặng cho chúng ta, không bị vuột khỏi tâm hồn chúng ta. Hậu quả việc làm này sẽ ra sao nếu xét theo một khía cạnh khác? Việc lắng nghe Lời Chúa một cách thờ ơ, chểnh mảng thì cũng chẳng thua kém gì so với việc để Mình Thánh Chúa rơi xuống đất’. Thánh Jerome cũng so sánh Mình và Máu Chúa với nền khoa học Thánh Kinh: ‘Chắc chắn rằng vì khi Mình Máu Thánh Chúa trở nên của ăn, của uống đích thực cho chúng ta..chúng ta có điều kiện thuận lợi trong cuộc sống hiện tại của chúng ta trên dương thế để nhận lãnh Mình và Máu Thánh Người, không những trong nhiệm tích mà còn trong Sách Thánh’. Ngành khoa học Thánh Kinh chứng minh cho thấy Lời Chúa cũng là của ăn của uống đích thực cho con người. Như Đức Giê-su đã nói: ‘Ai không ăn thịt và uống máu Thầy...’. Tất nhiên, chúng ta cũng nhớ tới câu nói nổi tiếng của Thánh Jerome: ‘Thờ ơ với Thánh Kinh là thờ ơ với Đức Ki-tô’. Và, trong Công Đồng Vatticano II, có rất nhiều luận điểm tuyệt vời nhằm làm nổi bật tầm quan trọng của Lời Chúa. Và đó cũng là một trong những đóng góp to lớn của Thánh Công Đồng để cho thấy rằng ‘bàn tiệc Lời phải được chuẩn bị kỹ lưỡng cho các tín hữu cũng như mở ra cho con người thấy kho tàng phong phú của Thánh Kinh’.
69. Sử dụng hình ảnh ‘bàn tiệc Lời Chúa’ và ‘bàn tiệc Thánh Thể’ khi chúng ta qui tụ để cử hành Thánh lễ. Hướng dẫn chung của sách lễ Rô-ma cũng làm nổi bật mối liên hệ giữa Lời Chúa và Thánh Thể trong Thánh lễ: ‘Về bản chất, Thánh lễ gồm hai phần: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Tuy nhiên, hai phần này liên kết chặt chẽ với nhau làm thành chỉ một hành vi thờ phượng. Và vì thế, trong Thánh Lễ, cả hai bàn tiệc: Lời Chúa và Thánh Thể đều phải chuẩn bị để từ đó, người tín hữu được hướng dẫn và được phục hồi’.
70. Phần chính của Phụng Vụ Lời Chúa được cấu thành bởi những bài đọc lấy từ Sách Thánh và được xen kẽ bởi một Thánh Vịnh. Bài giảng, phần Tuyên Xưng Đức Tin cùng Lời Nguyện Tín Hữu được tiếp nối để đi đến kết thúc phần Phụng Vụ Lời Chúa. Phải thừa nhận rằng trong Thánh Lễ, ở phần này, chúng ta đọc và nghe quá nhiều và trong trận lụt ‘ngôn từ’ gây ra hiện tượng ‘bội thực’ trong cuộc sống thế giới ngày nay và hậu quả là chúng ta cảm thấy mệt mỏi và tối tăm, không thể thấm được Lời. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều trải qua kinh nghiệm là những lời lẽ đúng, được sử dụng đúng thời điểm sẽ mang lại những hiệu quả to lớn. Lời Chúa có thể an ủi hay khích lệ, thiết lập hay khôi phục tình huynh đệ và cũng có thể diễn đạt tình yêu và sự hoà giải. Lời của Chúa không chỉ thể hiện qua thông tin mà còn qua hành động truyền đạt, thông tri. Chính Lời Chúa trở thành phương tiện chuyên chở mối tương quan giữa người với người. Vượt trên tất cả các điều đó, chính Đức Giê-su nói và hiện diện ngay trong lời của Người khi lời đó được đọc lên trong Giáo Hội, vì Lời Chúa có sức xây dựng tinh thần hiệp thông, chia sẻ.
IV.b. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngôi Lời ‘Ki-tô hóa chúng ta’,
hợp nhất chúng ta nên một
71. Phụng vụ Lời Chúa trở thành một thời khắc quan trọng khi hướng cộng đoàn đang hiện diện đến cuộc tiếp xúc mật thiết và hiệu quả với Đức Ki-tô trong Lời của Người để từ đó chúng ta xây dựng sự hiệp nhất với Người và tha nhân. Sự tiếp xúc này được diễn ra dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Như chúng ta đọc trong Hướng Dẫn Chung về các Bài Đọc: ‘Lời Chúa được công bố trong Phụng Vụ luôn là lời mang tính hiệu quả và sống động dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần. Lời của Người lột tả tình yêu của Thiên Chúa Cha – một tình yêu không bao giờ mất hiệu quả đối với chúng ta’. Phần Phụng Vụ Lời Chúa dẫn dắt chúng ta vào cuộc đối thoại sống động dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thật thế, Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta có thể đáp trả một cách hữu hiệu đối với Lời Chúa; nhờ đó, chúng ta có thể nhận ra điều mà chúng ta đã được nghe trong khi cử hành phụng vụ và ước muốn thực hiện những gì mà Lời Chúa nói với chúng ta (Gc 1:22).
72. Lời Chúa kiến tạo sự hiệp thông không chỉ bởi quyền năng của Thánh Thần mà còn qua cuộc gặp gỡ, đối thoại với Đức Giê-su nơi Lời của Người. Người sẽ ‘Ki-tô hóa’ chúng ta nếu chúng ta biết mở lòng ra với Lời của Người, tức là, Lời của Người sẽ dẫn đến cái chết và sự phục sinh chắc chắn trong đời sống của chúng ta; sự chết mà theo Thánh Phao-lô là chết cho ‘con người cũ’ của mình nhằm mặc lấy ‘con người mới’, Đức Ki-tô hiện diện trong mỗi người chúng ta qua việc chúng ta tiếp nhận lời của Người, Người sẽ hoàn thiện những ai sống trong chương trình của Thiên Chúa (Ep 4: 22 – 23). Qua việc duy trì chúng ta trong tình hiệp thông sống động bằng lời chứng của các tông đồ được lưu truyền trong Thánh Kinh, Lời Chúa giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn về bản chất con người đã được thanh tẩy nhờ Phép Rửa: ‘Tôi sống nhưng không còn phải là tôi mà là chính Đức Ki-tô sống trong tôi’ (Gl 2:20). Nếu Đức Ki-tô cư ngụ trong chúng ta, tất cả chúng ta sẽ trở nên một: ‘Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô’ (Gl 3:28).
73. Khi chúng ta nghiên cứu dụ ngôn về người gieo giống của Đức Giê-su (Mc 4:1 -20), Lời Chúa chứa đựng sức mạnh của Nước Thiên Chúa. Hạt giống có thể sinh nhiều hoa trái. Nơi Thánh Lễ, khi Lời Chúa được loan báo và lắng nghe, có thể gây một tác động mạnh mẽ như vậy trong cuộc sống của chúng ta. Một minh chứng cho sức tác động đó là trong suốt chiều dài lịch sử của Hội Thánh, có rất nhiều trường hợp dân chúng nhờ lắng nghe Lời Chúa nơi Thánh Lễ mà thay đổi hướng đi trong cuộc đời của họ. Quả vậy, Lời Chúa tiên báo và đánh động tâm hồn! Anthony the Abbot quả là một thí dụ cụ thể. Khi nghe lời Kinh Thánh được công bố trong Thánh Lễ, ‘Nếu con muốn trở nên hoàn thiện hãy về bán hết của cải bố thí cho người nghèo và ngươi sẽ có một kho tàng ở trên trời; sau đó hãy đến và theo Thầy’ (Mt 19:21), Thánh nhân đã đem ra thực hành và điều đó đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Người. Người trở thành người sáng lập truyền thống đan viện trong Hội Thánh. Một truyền thống đã mang lại hay truyền cảm hứng cho vô số các cộng đoàn bằng một đời sống hiệp thông triệt để. Thánh Phan-xi-cô Assisi cũng là một ví dụ tương tự khi cuộc gặp gỡ của Người với lời của Chúa đã tạo sức sống cho việc canh tân phong trào Phan-xi-cô. Vì thế, một mẫu lời khuyên mang tính thực tế của Thánh Gioan Kim Khẩu vào những thế kỷ đầu của Giáo Hội vẫn có nhiều giá trị. Khi nói chuyện với những thanh niên, thánh nhân luôn khuyên họ: Khi về nhà, con hãy cùng với vợ con lấy Kinh Thánh, đọc lại và lặp lại Lời Chúa mà con đã nghe (nơi nhà thờ)’.
IV.C. Phụng Vụ Thánh Thể: Sự Hiệp Thông Với Đức Ki-tô Trong Phép Thánh Thể
74. Có thể nói rằng bài giảng là để Phụng Vụ Lời Chúa còn việc bẻ bánh là cho Nghi Thức Rước Lễ. Mục đích của bài giảng là giúp chúng ta đón nhận Lời Chúa như lời chân lý, lời của Thiên Chúa và đem Lời Chúa ra thực hành cách tỉ mỉ và siêng năng trong đời sống thường nhật. Từ ngữ ‘homily’ phát xuất từ tiếng Hy Lạp và mang nghĩa ‘cuộc nói chuyện thân mật’ hay ‘lời nói phát xuất từ trái tim đến trái tim’. Qua bài giảng, Lời Chúa đã được công bố cùng với phần Phụng Vụ Thánh Thể trở nên một lời rao truyền những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử cứu độ và mầu nhiệm về Đức Ki-tô. Việc giúp mọi người mặc lấy Đức Ki-tô bằng việc khơi gợi những khía cạnh của các bài đọc Kinh Thánh hay các bản văn khác trong phụng vụ mùa Thường Niên hoặc trong các Lễ Riêng, người giảng lễ cần lưu ý đến cả hai khía cạnh đó là mầu nhiệm đang được cử hành và nhu cầu thiết yếu của người nghe. Bài giảng nhắm đến việc giải thích Lời Chúa và giúp cho mọi người khám phá ra ‘nghệ thuật sống’ trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau được khơi nguồn từ việc cử hành Thánh Thể.
75. Kinh Tin Kính hay Lời Tuyên Xưng Đức Tin được đọc trong Thánh Lễ hàng tuần tóm kết những mầu nhiệm cao cả của đức tin. Kinh Tin Kính được ví như thẻ căn cước khi thể hiện tiếng nói chung của niềm tin và sự hiệp thông trong niềm tin của chúng ta. Sách giáo lý Hội Thánh Công Giáo dẫn giải như sau: ‘Đọc Kinh Tin Kính với niềm tin là đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng như với toàn thể Hội Thánh, nơi chuyển thông đức tin cho chúng ta và chúng ta sống đức tin giữa lòng Hội Thánh’. Thực vậy, trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai, có những thay đổi trong cách diễn tả cụm từ ‘bình an’ đã được tìm thấy trên những ngôi mộ của người Ki-Tô hữu, cụm từ đó không đơn thuần là lời cầu nguyện dành cho những người đã chết được an nghỉ mà còn là lời xác định rằng người chết đã từng sống trong sự hiệp thông đức tin với Hội Thánh. Mỗi lần chúng ta đọc Kinh Tin Kính là mỗi lần chúng ta xác định niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch chóp đỉnh và khuôn mẫu của sự hiệp thông của Hội Thánh. Ơn gọi của Hội Thánh là phải thể hiện cho thấy ‘mỗi con người chính là thực thể thống nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’.
76. Sau khi đọc Kinh Tin Kính, trong phần lời nguyện tín hữu, chúng ta dâng lên Chúa những lời nguyện xin cho những nhu cầu của Hội Thánh và cho việc cứu rỗi toàn thế giới. Trong phần Lời Nguyện Tín Hữu, chúng ta mở rộng nhận thức của mình về sự hiệp thông mà hướng đến các cộng đoàn cầu nguyện đang được qui tụ ở khắp nơi trên thế giới. Chúng ta tin tưởng nguyện xin dựa vào lời hứa của Đức Giê-su : ‘Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho’ (Mt 18:19). Đó cũng là lúc chúng ta hiện diện cùng với Chúa Giê-su trước ngai tòa vinh hiển để cầu thay nguyện giúp cho toàn nhân loại. Việc làm trung gian hòa giải là một hình thức cầu nguyện được tìm thấy trong những mẫu cầu nguyện trong các hội đường cổ xưa được Hội Thánh từ thời sơ khai kế thừa và thêm vào trong cử hành phụng vụ Thánh Thể. Lời nguyện tín hữu không minh nhiên bao gồm tất cả mọi người. Những người tân tòng không được tham dự vào phần lời nguyện này vì đây là đặc quyền của những ai đã trở thành một phần của cộng đoàn được hiệp nhất trong Đức Ki-tô và với tha nhân.
V.a. Tương tự Bữa Tiệc Cuối Cùng Của Chúa
77. Khi câu chuyện E-mau lên tới đỉnh điểm, Thánh Luca miêu tả Đức Giê-su Phục Sinh thực hiện những hành động căn bản tương tự như Người đã làm trong phép lạ hoá bánh ra nhiều và trong Bữa Tiệc Ly. Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ. Rõ ràng Thánh Luca ám chỉ đến bí tích Thánh Thể. Thực ra, qua tất cả bốn trình thuật Tin Mừng (Mt 26:17-35; Mc 14:12-31; Lc 22:7-38; 1Cr 11:23-26) viết về việc thành lập Bí Tích Thánh Thể trong Kinh Thánh, chúng ta có thể khám phá ra được bản văn phụng vụ sớm nhất được sử dụng vào thời kỳ các cộng đoàn thuộc các Tông Đồ. Bản văn đó tóm lược những lời nói, những việc làm của Chúa trong Bữa Tiệc Ly.
78. Hướng Dẫn Chung về Thánh Lễ số 72 nhắc chúng ta nhớ tới sự tương đồng giữa phần Phụng Vụ Thánh Thể và những lời nói, việc làm của Chúa trong bữa tiệc ly. Những điều đó đã được truyền lại cho chúng ta qua Kinh Thánh và qua Truyền Thống:
Khi chuẩn bị lễ vật, bánh miến và rượu nho cùng nước được mang đến bàn thánh. Đây cũng là những lễ vật mà xưa kia Chúa đã dùng.
Trong Kinh Nguyện Tạ Ơn, những lời cảm tạ được dâng lên Chúa vì toàn thể công trình cứu độ của Người và những lễ vật trở nên Mình và Máu Người cùng trở nên cội nguồn của sự hiệp thông với nhau.
Qua nghi thức bẻ bánh, qua sự Hiệp Thông, các Tín Hữu tuy nhiều nhưng đều nhận lãnh một tấm bánh là Mình Thánh Chúa và một chén rượu là Máu Thánh Người và theo cùng một cách thế mà các Tông Đồ xưa đã nhận lãnh từ tay Chúa Ki-tô.
V.b. Chuẩn bị những Lễ Vật: Những Dấu chỉ yêu thương, Lời Tạ Ơn và Hiệp thông
79. Khởi đầu phần Phụng Vụ Thánh Thể, những lễ vật là bánh và rượu sẽ trở thành Mình và Máu Đức Ki-tô, được mang tới bàn thánh. Bánh và rượu là những yếu tố rất đơn giản, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, đại diện cho mô hình thế giới thu nhỏ, những quà tặng trong tạo thành mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, và cũng là công lao và sáng tạo của con người đã làm nên những lễ vật này. Sự hiện diện của những lễ dâng trên bàn thờ tiếp tục cử chỉ tế lễ của thượng tế Melchizedek và ‘dâng nộp quà tặng của Đấng Tạo Hoá trong tay Đức Ki-tô, Đấng qua hiến tế của mình đã kiện toàn mọi công lao cố gắng của con người làm hiến lễ dâng lên Thiên Chúa Cha’.
80. Việc hiến dâng bánh miến cùng rượu nho lặp lại hình thức phụng vụ của người Do Thái xưa với công thức chúc tụng được gọi là berakah. Lời chúc tụng berakah không đơn thuần là một lời chúc tụng mang tính lễ nghi trên lễ vật mà bản chất của lời chúc tụng chính là lời tạ ơn Thiên Chúa vì những ơn lành mà Người đã ban cho Dân Người. Lời chúc tụng này cũng bày tỏ lòng cảm mến, niềm tin yêu cũng như ý thức về sự cần thiết việc đáp trả tận căn cho Thiên Chúa, Đấng đã kí kết giao ước với dân người để quy tụ họ lại với nhau. Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước, nên đến để gặp dân Người và chúc lành cho chúng ta, bởi đó chúng ta phải cử hành việc tán dương công trình cứu độ, tạ ơn Thiên Chúa và chúc tụng Thánh Danh Người.
81. Bánh và rượu được tiến dâng trong Thánh Lễ cũng là những dấu chỉ chuẩn bị cho chúng ta những gì sẽ phải xảy ra. Bánh và rượu sẽ được Thiên Chúa biến đổi để trở nên Mình và Máu hiển vinh của Đức Ki-tô Giê-su, người Con duy nhất của Người. Để rồi sự sống hiển vinh của Người sẽ được chuyển thông cho chúng ta dưới hình thức của ăn của uống để tăng sức mạnh và qui tụ chúng ta thành một cộng đoàn. Lúc này, trong nghi thức Rước Lễ, chúng ta sẽ nhai, nuốt và tiêu hoá bánh đã được biến đổi thành bánh bởi trời, cho nên trong một ý nghĩa nào đó,‘khi chúng ta tiêu hoá nó’ thì chính ‘cái bị tiêu hoá’ sẽ thực sự là cái ‘ làm nên chúng ta’, vì chính nó sẽ hình thành nên chúng ta trong Đức Ki-tô trong sự hiệp thông với nhau. Vì thế, trong khi chuẩn bị lễ vật, chúng ta không chỉ mở rộng lòng mình trước hành động của Thiên Chúa, Đấng sẽ biến đổi bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô mà chúng ta còn phải chuẩn bị sẵn sàng để được biến đổi thành khí cụ của sự hiệp thông. Sự hòa tan của giọt nước trong chén rượu cũng được hiểu là sự hòa tan bản tính của con người nhân loại chúng vào hy tế tự hiến của Đức Ki-tô, hy tế mà chúng ta tưởng niệm khi cử hành Thánh Lễ và trong Đức Ki-tô chúng ta trở nên một.
82. Việc chuẩn bị những lễ vật cũng giúp chúng ta nhận thức được chúng ta đang được tham gia vào những gì đôi khi được gọi là ‘phụng vụ vũ trụ’, đó là sự vận hành của toàn thể tạo vật tiến về thời cánh chung tối hậu, cùng đích của sự tôn vinh Thiên Chúa và sự chuyển đổi của thế giới. Đích điểm của Bí tích Thánh Thể là nhằm khởi đầu ở đây và ngay lúc này việc ‘Ki-tô hóa’ toàn thể vũ trụ để toàn thể đi vào việc thờ phượng Thiên Chúa – Đấng là ‘tất cả trong mọi sự’ như thánh Phao-lô đã viết trong (1 Cr 15:28). Bánh và rượu, những yếu tố đơn giản của sáng tạo, nhắc nhở chúng ta đến sự thánh thiêng nơi sáng tạo. Vũ trụ không phải là một dạng vật thô sơ và xoàng xĩnh để chỉ đáp ứng phù hợp cho nhu cầu sử dụng giản đơn như chúng ta thấy, mà vũ trụ đúng hơn là được Thiên Chúa sáng tạo và đóng góp một phần thiết yếu trong chương trình của Người. Khi được liên kết với nhân loại, vũ trụ được liên đới với ơn gọi của chúng ta là trở nên những người con cái Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su, Con Một của Người (Ep 1:4 - 12). Bí tích Thánh Thể mang chiều kích vũ trụ. Teilhard de Chardin đã viết rất hay về Thánh Thể với tựa đề “ Bài ca vũ trụ”.
83. Thường thường, trong Thánh Lễ cũng như trong khi chuẩn bị lễ vật, một chút ít tiền quyên góp hay quà từ thiện được mang tới bàn thánh lúc này nhằm thể hiện sự gắn kết giữa Thánh Thể và giới luật yêu thương tha nhân. Chúng ta biết rằng từ lúc khởi đầu, các Ki-tô hữu quan tâm đến hiệu quả xã hội của đức tin; và vì thế, họ bắt đầu chia sẻ của cải của họ với những người khác và giúp đỡ người nghèo (Rm 15: 26) như là biểu hiện của đời sống hiệp thông. Từ giữa thế kỉ thứ hai, những mô tả về Cử Hành Thánh Thể đề cập đến khoản quyên góp cho những trẻ mồ côi, những bà góa cùng những ai cần đến vì yếu bệnh hay vì các lý do khác. Chúng ta cũng cần suy nghĩ lời của Thánh Justino: ‘Những ai giàu có và những ai sẵn lòng hãy cho đi theo cách của mình. Tất cả những gì thu thập được hãy trao cho những người hữu trách để họ giúp đỡ những trẻ mồ côi và những bà góa, những người ốm đau, những ai vì do bất kì lý do nào mà mất hết tài sản, những người tù tội, và tóm lại, những ai đang cần đến sự giúp đỡ’. Trong bối cảnh này, cũng cần viện dẫn lời của Thánh Gioan Kim Khẩu: ‘Nếu bạn muốn tôn vinh Đức Ki-tô, hãy tôn vinh Người khi thấy Người trần truồng trong thân hình của một người nghèo khổ. Thật là vô ích, nếu bạn mang gấm lụa vàng bạc quý giá đến đền thờ mà lại để Đức Ki-tô phải chịu lạnh lẽo, trần truồng bên ngoài. Thật là vô ích, nếu đền thờ đầy những đồ vật quý giá nhưng chính Đức Ki-tô lại đang chịu cảnh đói khát. Bạn làm những chén lễ bằng vàng, nhưng lại quên cho những ai đang cần đến bạn dù chỉ là một chén nước lã. Chúa Giê-su như là người khách lạ không nhà đang lang thang và ăn xin, và thay vì tiếp đón Người, bạn lại chỉ chú tâm đến sự trang trí bề ngoài mà thôi’.
V.c. Kinh Nguyện Thánh Thể
Một Hành Vi Tạ Ơn của cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa Cha
84. Với Kinh Nguyện thánh thể, chúng ta bước vào trọng tâm và đỉnh cao của cử hành Thánh Lễ. Kinh Nguyện này là hành vi tạ ơn chung nhờ Đức Ki-tô và trong quyền năng Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Cha. Trong suốt kinh nguyện, chúng ta nhớ lại những việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện, bánh và rượu được biến đổi thành mình và máu Đức Ki-tô và chúng ta cũng được biến đổi thành một thân mình, một tinh thần trong Đức Ki-tô. Chúng ta tháp nhập chính mình vào một và chỉ một hiến tế tình yêu hoàn hảo của Đức Giê-su Ki-tô Đấng hy sinh mạng sống mình vì chúng ta.
85. Kinh Nguyện Thánh thể bắt đầu với linh mục, hành động nhân danh Đức Ki-tô, mở đầu cuộc đối thoại dẫn chúng ta vào Kinh Nguyện Thánh Thể: ‘Chúa ở cùng anh chị em…hãy nâng tâm hồn lên’. Với chức tư tế cộng đồng, cộng đoàn tham dự trong đức tin đáp lại: ‘Để dâng Người lời ngợi khen và tạ ơn thật là chính đáng’. Sau đó tiếp tục với Kinh Tiền Tụng để diễn tả tâm tình tạ ơn Chúa Cha về tất cả công trình tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá của Người.
86. Toàn bộ Kinh Nguyện Thánh Thể mang âm hưởng xuyên suốt của chủ đề về sự hiệp thông. Ví dụ, việc nhắc tới giám mục giáo phận và toàn thể các giám mục trong sự hợp nhất với Đức Giáo Hoàng. Chúng ta không chỉ cầu nguyện cho các Ngài. Chúng ta hiệp thông với các Ngài. Và vì vậy, chúng ta nghe một trong những Kinh Nguyện Thánh Thể: ‘ Xin làm cho chúng con được vững mạnh, trong niềm hiệp hiệp thông với Đức Thánh Cha…Đức Giám Mục Giáo Phận chúng con, cùng toàn thể các Đức Giám Mục, các linh mục, phó tế và toàn thể dân thánh Chúa.’Trong thời Giáo Hội sơ khai, thường mỗi khi có những tín hữu đi xa, sẽ mang theo một lá thư của vị Giám Mục địa phận mình, trong thư vị Giám Mục xác nhận những tín hữu đó đang trong tình trạng hiệp thông đầy đủ với Người. Vị Giám Mục Sở tại của ‘nơi đến’ sẽ kiểm tra trong danh sách các Giám Mục để biết vị Giám Mục viết thư có đang trong tình trạng hiệp thông theo nghĩa đã tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính. Đức Giáo Hoàng được nhắc tới trong suốt Kinh Nguyện Thánh Thể. Vì Người có quyền kế vị Thánh Phê-rô trong Hội Thánh nên được liên kết với mọi cuộc Cử Hành Thánh Thể. Người được nhìn nhận như dấu chỉ và nhân tố của sự hiệp nhất của Hội Thánh toàn cầu.
87. Kết thúc Kinh Nguyện Thánh Thể, trong phần Vinh Tụng Ca, tất cả chúng ta cùng thưa ‘Amen’ là một lời thưa ‘Vâng’ đầy uy lực dâng lên Thiên Chúa. Qua lời thưa ‘Amen Long Trọng’ chúng ta công bố rằng chúng ta tin điều mình đã nói và chúng ta hiệp nhất với nhau trong lời cầu nguyện, đồng thời dấn thân tất cả cho lời Amen chúng ta đã công bố. Lời xác tín của mỗi cá nhân ‘Tôi Tin’ được đổi thành ‘ Chúng Tôi Tin’ vào cộng đoàn Hội Thánh được quy tụ quanh Đức Ki-tô Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh để thờ phượng Người.
88. Có nhiều điểm để chúng ta suy tư về những bản văn của Kinh Nguyện Tạ Ơn. Trong phạm vi tài liệu này, chúng ta chỉ có thể tìm hiểu một số điểm nổi bật theo chủ đề của Đại Hội Thánh Thể về sự hiệp thông.
V.c.i. Khẩn cầu Thánh Linh – Được quy tụ hợp nhất nên một nhờ Chúa Thánh Thần
89. Thánh Lễ là một hành động mãnh liệt nhất của Chúa Thánh Thần. Chính Ngôi Ba Thiên Chúa là Đấng mang đến sự hiệp nhất trong Hội Thánh, và nối kết chúng ta trong Đức Ki-tô một cách mật thiết đến nỗi Người trở thành nguyên lý của sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Lời cầu khẩn Chúa Thánh Linh trong suốt Kinh Nguyện Tạ Ơn được gọi là epiclesis. Chúng ta đã nghe trong trình thuật về tạo dựng, Chúa Thánh Thần đã bay là là trong vũ trụ để thực hiện cuộc sáng tạo đầu tiên. Chúng ta biết rằng, khi thời gian tới hồi viên mãn, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Maria để thực hiện việc sáng tạo bản tính nhân loại của Đức Giê-su, Đấng là khởi đầu của thọ tạo mới. Trong Kinh Nguyện Tạ Ơn, Chúa Thánh Thần được kêu cầu để thực hiện một công trình sáng tạo kỳ diệu và ân sủng mới. Điều quan trọng chúng ta cần nhớ rằng việc chúng ta đang cử hành vượt ngoài khả năng của chúng. Việc đó đến từ Thiên Chúa. Trong phần cầu khẩn Chúa Thánh Linh epiclesis , Hội Thánh khẩn cầu Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến (hay quyền năng của Chúa Thánh Thần) thánh hoá những lễ vật bánh và rượu để trở thành mình và máu Đức Giê-su Ki-tô và làm cho những ai tham dự vào buổi Cử Hành Thánh Thể được trở nên một thân mình và một tinh thần.
90. Ví dụ, trong Kinh Nguyện Tạ Ơn số 3, chúng ta nghe đọc rằng: ‘Lạy Chúa, Chúa thật là Đấng Thánh và muôn vật Chúa đã tạo thành đều phải ca ngợi Chúa. Vì nhờ Đức Giê-su Ki-tô con Chúa, Chúa chúng con, do quyền năng tác động của Chúa Thánh Thần Chúa ban sự sống và thánh hoá mọi loài, và không ngừng qui tụ một dân riêng….’. Sau khi công bố quyền năng hay sức mạnh của Chúa Thánh Thần là nguồn mạch của sự sống và sự thánh hoá vũ trụ, Chúa Thánh Thần được cầu khẩn để Người dùng quyền năng thánh hoá và ban sự sống của mình để thực hiện hành động ‘thánh hoá’ cao cả nhất, là thánh hoá những của lễ bánh và rượu để trở thành Mình và Máu Chúa Ki-tô: ‘Chúng con tha thiết nài xin Chúa, nhờ cũng một Chúa Thánh Thần thánh hoá của lễ chúng con đang dâng tiến Chúa đây’. Trong phần chuẩn bị lễ vật, để đáp lại lời tạ ơn của chúng ta, Chúa Thánh Thần sẽ thực hiện động tác thánh hoá của Người. Tiếp theo sau phần truyền phép, chúng ta nghe công bố lời cầu khẩn cho sự hiệp thông, khẩn cầu Chúa Thánh Linh xuống trên những người đang qui tụ Cử Hành Thánh Thể: ‘Chúng con nài xin Chúa đoái nhìn hiến lễ Hội Thánh dâng lên Chúa, và khi Chúa nhận đây chính là của lễ mà Chúa muốn hiến tế để nguôi lòng Chúa. Xin cho chúng con được bổ dưỡng bởi mình và máu Con Chúa và được tràn đầy Thánh Thần của Người, thì trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Ki-tô’.
91. Trong phạm vi chủ đề của Đại Hội, lời khẩn cầu trên cộng đoàn đang qui tụ để Cử Hành Thánh Thể là đề tài đang được chú ý. Nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, các yếu tố bánh và rượu được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần cũng được cầu khấn xuống trên cộng đoàn, vì cộng đoàn được coi là thân mình của Đức Ki-tô nên phải được đáp ứng đầy đủ hơn bằng quà tặng hiệp thông Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên cộng đoàn ‘cho tới khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa với tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô’ (Ep 4: 13).
92. Phần khẩn cầu Chúa Thánh Linh epiclesis cho chúng ta biết điều quan trọng về căn tính của chúng ta. Hội Thánh có nhiều phương diện tổ chức bên ngoài tương tự như cơ chế của một xã hội. Nhưng hành động của Chúa Thánh Thần thì sống động trong việc đem đến sự hiệp thông trong chúng ta. Sức sống cộng đoàn kể như chết nếu không có Chúa Thánh Thần. Nếu bỏ qua tác động của Chúa Thánh Thần, thì mọi dự tính, mọi hoạch định, mọi luật lệ được ban hành, mọi hướng dẫn, mọi điều tiên liệu và mọi sự điều khiển đều trở nên vô ích. Chúng ta có thể xây dựng những xí nghiệp hiện đại, những xã hội kiểu mẫu, nhưng một cộng đoàn gồm những thiện nam tín nữ chỉ được nhìn nhận như là thân mình của Đức Ki-tô khi cộng đoàn ấy được nâng đỡ và làm cho sinh động bởi Thần Khí của Đức Ki-tô. Đây chính là ý nghĩa của phần cầu khẩn Chúa Thánh Linh trong Kinh Nguyện Tạ Ơn.
V.c.ii. Kinh hồi niệm – Một ‘Sự Tưởng Nhớ’ của Cộng đoàn
93. Trong những năm gần đây đã có những khám phá sâu hơn về ý nghĩa phong phú của Kinh Thánh về khái niệm ‘Tưởng Nhớ’ (ANMNESIS), ý nghĩa ấy được diễn tả trong thật ngữ ‘Sự Tưởng Nhớ’ memorial được dùng trong phụng vụ. Chúng ta nhớ đến những gì Đức Giê-su đã làm, không chỉ là một bài học lịch sử, mà là một biến cố còn liên đới đến chúng ta hôm nay.
94. Thực ra, từ thời luật Mô-sê Dân Thiên Chúa đã tưởng nhớ những hành động phi thường của Thiên Chúa Cứu Độ, Đấng đã làm cho họ trở thành một dân riêng. Đặc biệt, việc cử hành bữa ăn Vượt Qua đã trở thành Lễ Tưởng Niệm về biến cố hình thành nên lịch sử Dân Thiên Chúa. Phụng Vụ Lễ Vượt Qua, được cử hành hàng năm, tưởng nhớ lại sự kiện vượt qua kiếp nô lệ để đến miền tự do. Trong sách Xuất Hành 12: 1-28 có ghi lại một nghi lễ được miêu tả như một bữa tiệc ăn thịt chiên con. Máu được bôi trên khung cửa để thoát khỏi sự huỷ diệt của các Thiên Sứ thi hành nhiệm vụ sát hại các con đầu lòng của người Ai Cập. Mỗi khi cử hành lễ tưởng niệm này, dân Do Thái không chỉ kể lại một biến cố quá khứ mà còn làm sống lại trong hiện tại biến cố đã xảy ra trong quá khứ. Nhờ việc cử hành này, họ được tham dự vào thời điểm hình thành nên căn tính của họ và như vậy giúp họ chuẩn bị cho tương lai của mình.
95. Bữa Tiệc Cuối Cùng Đức Giê-su cùng ăn với các môn đệ của người trong đêm trước khi chịu khổ nạn và chịu chết, là cuộc Cử Hành Lễ Vượt Qua ( Mt 26: 2, 17-19; Mc: 14, 12-17 ; Lc 22: 7-14) . Khi đến giờ ăn thịt chiên vượt qua, Đức Giê-su cầm lấy bánh và rượu, dâng lời chúc tụng và công bố: ‘Đây là mình Thầy hiến ban vì anh em’ và ‘đây là chén Giao Ước Mới bằng máu của Thầy sẽ đổ ra cho anh em (Lc 22: 19-20). Qua việc làm này, Đức Giê-su nói đến cái chết của Người trên thập tự giá là cuộc hiến tế chiên con. Trong cuộc hiến tế này Người sẽ cứu nhân loại thoát khỏi tình trạng nô lệ tội lỗi cùng với tất cả sự chia rẽ và thiếu hiệp nhất, đồng thời dẫn đưa chúng ta vào đời sống tự do của con cái Thiên Chúa cũng như trong sự hiệp thông với nhau.
96. Bữa ăn Vượt Qua Đức Ki-tô cử hành với các môn đệ của người thực hiện trước cách bí tích cuộc khổ nạn và sự chết của người để dẫn tới cuộc phục sinh và tuôn đổ Thánh Thần. Với bánh Người đã làm nên dấu chỉ của thân mình Người và với rượu thành dấu chỉ máu của Người đổ ra vì chúng ta. Bánh và rượu trở thành những dấu chỉ Bí Tích của giao ước cánh chung sẽ được hoàn tất trong Người. Người đã truyền lệnh cho các môn đệ phải tưởng nhớ đến hành động của Người: ‘Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy’ (Lc 22:19; 1 Cr 11: 25).
97. Lễ Tưởng Niệm Thánh Thể được cử hành một cách trung thành theo lệnh truyền của Đức Giê-su. Việc cử hành này không chỉ để gợi nhớ lại một biến cố quá khứ. Việc cử hành chính là lời công bố xác tín của Hội Thánh về hành động giao hoà của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô. Qua việc cử hành này, chúng ta không chỉ đại diện cho toàn thể Hội Thánh để nhớ lại cuộc khổ nạn của Đức Giê-su Ki-tô mà còn ‘ngay hôm nay’ dự phần vào những ơn ích và được tham dự vào hành vi tự hiến của Người. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, một lần cho vĩnh viễn, được hiện tại hoá trong mỗi Thánh Lễ qua mọi thời đại của chúng ta. Hoặc chúng ta có thể diễn ta việc cử hành này bằng một cách khác. Chúng ta trở thành người hiện diện trong biến cố vĩ đại đó và được liên kết với nhau trong sự hiệp thông nhờ việc cử hành này, không những với những người chúng ta gặp gỡ trong bất kỳ Thánh Lễ nào chúng ta tham dự mà còn với những ai đang qui tụ nơi bàn tiệc Thánh Thể ở khắp các miền đất trên thế giới và qua mọi thời đại.
98. Như vậy, qua việc Cử Hành Thánh Thể, chúng ta trở thành những người đương thời của những biến cố nền tảng làm cho chúng ta được hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau. Trong Sách Giáo Lý Công Giáo, chúng ta đọc:
‘ Trong Phụng Vụ của Hội Thánh, chính Đức Ki-tô diễn tả và thực hiện mầu nhiệm vượt qua của Người. Trong suốt cuộc đời trần thế, Đức Giê-su dùng lời giảng dạy để loan báo, và dùng các hành vi để báo trước cuộc Vượt Qua. Khi giờ của Người đến, Đức Giê-su trải qua biến cố lịch sử vô tiền khoáng hậu và trường tồn: Đức Giê-su chết, được mai táng, sống lại từ cõi chết và lên ngự bên hữu Chúa Cha đến muôn đời. Mầu nhiệm vượt qua của Đức Ki-tô là biến cố có thực, đã xảy ra trong lịch sử và là biến cố có một không hai. Thật vậy, tất cả những biến cố khác của lịch sử đều xày ra, qua đi rồi chìm vào qúa khứ. Ngược lại, Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô không chỉ là biến cố trong quá khứ, vì khi chịu chết người đã huỷ diệt sự chết. Hơn nữa, bản thân Đức Ki-tô cũng như tất cả những gì Người đã làm và đã chịu vì chúng ta đều mang tính chất vĩnh cửu của Thiên Chúa, vượt mọi thời gian và được hiện tại hoá trong thời gian. Biến cố Thập Giá và phục sinh vẫn đang tồn tại và lôi cuốn muôn loài đến sự sống.’
99. Ngày nay, mọi cuộc Cử Hành Thánh Thể cách Bí Tích cũng hoàn thành nơi chúng ta cuộc qui tụ cánh chung của Dân Thiên Chúa. Nói cách khác, trong mỗi Thánh Lễ là một sự hưởng nếm trước thực sự, ở đây và bây giờ, bữa tiệc cánh chung được các ngôn sứ tiên báo (Is 25:6-9) và được Tân Ước diễn tả như ‘tiệc cưới Chiên Con’ (Kh 19: 7-9). Trong Kinh Nguyện Tạ Ơn III, sau khi tưởng nhớ việc Đức Giê-su lên trời, và khi linh mục chủ tế đọc lời: ‘và chờ đợi Người lại đến trong vinh quang’, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng việc chúng ta tưởng nhớ những biến cố nền tảng của đức tin, dẫn đưa chúng ta tiến vào tương lai trong lúc chờ đợi ngày Đức Ki-tô lại đến. Với lý do này, khi tuyên xưng mầu nhiệm đức tin, chúng ta công bố rằng: ‘Đức Ki-tô lại đến’ trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta tưởng nhớ đến tương lai của mình và được lôi kéo đến tương lai đó.
100. Chính vì ý nghĩa năng động của Thánh Thể về sự ‘Tưởng Nhớ’, trong đó quá khứ và tương lai, một cách nào đó, đã và đang hiện diện giữa chúng ta, ở đây và trong lúc này, chưa bao giờ chúng ta cảm thấy gần gũi với những anh chị em đã ra đi trước chúng ta cho bằng khi chúng ta hiện diện trong Thánh Lễ. Như vậy, sự hiệp thông với những người được ghi đấu đức tin đã ra đi trước chúng ta được đổi mới. Như hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân số 50 khẳng định: ‘Qua việc Cử Hành Hy Tế Thánh Thể, chúng ta được liên kết mật thiết nhất với Hội Thánh trên trời. Theo mạch văn này, chúng ta hiểu được lời của Thánh nữ Monica nói với các con trai của mình là Thánh Augustino và các em của người: ‘Mẹ xin con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi con hiện diện tại bàn thờ của Chúa’.
V.c.iii. Việc Truyền Phép – Đức Giê-su Ki-tô,
nguồn mạch Hiệp thông biến đổi, hiện diện cách thực sự, chân thực, và bản thể
101. Kinh Nguyện Thánh Thể là kinh nguyện tạ ơn và hiến tế. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh đã tác động trên bánh và rượu để chuyển thông sự sống đích thực của Người qua những yếu tố bánh và rượu đã được biến đổi này. Bánh và rượu đã được biến đổi thành mình và máu Đức Ki-tô do bởi chính quyền năng Người đã khắc phục muôn loài (Pl 3:21). Ngay từ thời sơ khai Giáo Hội đã khẳng định rằng hiệu quả của Lời Đức Ki-tô và và tác động của Chúa Thánh Thần là nguyên nhân đem đến sự biến đổi này. Công đồng Tridentino đã tóm lược như sau:
‘ Vì Đức Ki-tô Đấng cứu chuộc chúng ta đã nói rằng đích thực là thân mình Người đã được hiến dâng dưới hình bánh và Hội Thánh Chúa luôn xác tín rằng do bởi sự thánh hiến bánh và rượu, đã xảy ra một sự thay đổi toàn thể bản thể của bánh thành bản thể của thân mình Đức Ki-tô và toàn thể bản thể của rượu thành bản thể của máu Người. Hội Thánh Công Giáo đã gọi sự thay đổi này một cách chính xác và không thay đổi là ‘sự biến bản thể’.
102. Cách hiện diện của Đức Ki-tô dưới những hình Thánh Thể là cách hiện diện độc nhất. Uỷ Ban Quốc Tế Công Giáo Rô-ma – Anh Quốc đã tuyên bố qua tài liệu minh giải elucidationnhư sau: trước Kinh Nguyện Tạ Ơn, câu hỏi là ‘vật đó là cái gì?’, người tín hữu trả lời đó là bánh. Sau Kinh Nguyện Tạ Ơn, cùng một câu hỏi, người tín hữu trả lời: ‘đó đích thực là Mình Chúa Ki-tô, Bánh sự Sống’. Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta là Thiên Chúa thật và là người thật đã được chứa đựng cách chân thực, đích thực và theo bản thể trong hình bề ngoài của bánh và rượu. Bánh và rượu được nâng lên một bậc hữu thể mới để diễn tả tình yêu của Đức Giê-su Ki-tô: ‘Khi chén chúng ta hoà trộn và khi bánh chúng ta bẻ ra nhận được Lời của Thiên Chúa, những yếu tố Thánh Thể liền trở thành mình và máu Đức Ki-tô, nhờ đó thân xác chúng ta được sống và phát triển’.
103. Chủ đề về sự hiện diện thật cũng phải được hiểu theo nghĩa là những công trình kỳ diệu Thiên Chúa đã hoàn tất trong lịch sử hình Thành dân riêng Người trong sự hiệp thông với Người và với anh em mình. Qua lịch sử cứu độ, ta nhận thấy Thiên Chúa ‘cư ngụ’(shekina) ở giữa Dân Người. Thiên Chúa cư ngụ trong vũ trụ. Người cũng hiện diện trong dân tộc Israel. Trong Đức Giê-su Ki-tô, Thiên chúa đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Ngày nay, Đức Giê-su Ki-tô hiện diện trong Hội Thánh của Người bằng nhiều cách: trong Lời của Người, trong lời cầu nguyện của Hội Thánh, ‘Ở đâu có hai ba người qui tụ lại nhân danh Người’ (Mt 18: 20), trong những người nghèo, những bệnh nhân và những người bị giam cầm (Mt 25: 31-46), trong các Bí Tích. Tuy nhiên, Người hiện diện cách đặc biệt nhất trong những hình Thánh Thể. Toàn bộ thân mình và máu Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh hiện diện ở đó dưới những hình bánh và rượu, ngõ hầu Người có thể chuyển thông chính mình Người cho chúng ta qua những hình bánh và rượu này và làm cho chúng ta trở nên thân mình Người.
104. Nhờ những yếu tố đã được biến đổi này, Đức Giê-su Ki-tô chuyển thông sự sống hiệp thông đích thực của Người với Chúa Cha cho chúng ta. Được biến đổi thành mình và máu Đức Ki-tô, bánh và rượu đưa chúng ta vào một nguyên lý biến hình tiệm tiến để lôi kéo chúng ta tiến về mục đích chúng ta mong đợi, đó là sự biến đổi đích thực của tất cả vạn vật trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau: ‘Tất cả chúng ta…mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cùng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là thần khí’ (2 Cr 3:8). Mọi nỗi quan tâm cá nhân của chúng ta và mọi nỗi lo lắng cho gia đình, mọi công việc và mọi liên hệ với người khác đều được đem vào trong nguyên lý biến đổi này. Mỗi lần chúng ta đi dự lễ, chúng ta lại dâng một điều gì mới để được biến đổi, đặc biệt là những khía cạnh khó khăn nhất trong mối tương quan của chúng ta với nhau, cũng như những hoàn cảnh đau thương liên quan tới nền kinh tế xã hội, văn hoá hay môi trường sinh thái, cho dù ở cấp độ địa phương hay toàn cầu, mà chúng ta nghe biết qua những phương tiện truyền thông. Thánh Thể là bằng chứng, sự bảo đảm và hưởng kiến về sự biến đổi của chúng ta và thế giới, trong sự hiệp thông với nhau.
V.c.iv. Bàn Tiệc Hiến Tế - Việc chúng ta tham dự vào quà tặng hiến tế của chính Đức Ki-tô
105. Thánh Thể là bữa tiệc hiến tế. Như chúng ta đã thấy trên đây, Thánh Thể hiện tại hoá hy tế thập giá. Thật vậy, hiến tế của Đức Ki-tô và hiến tế của Thánh Thể là một hiến tế đơn nhất, từ đó dẫn tới sự hiệp thông của chúng ta.
106. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta nhận thấy một mối liên hệ mật thiết giữa ‘giao ước ‘hy tế’ và ‘bữa ăn hiệp thông’. Trong sách Xuất Hành 24:1-11, chúng ta nhận ra được mối liên hệ mới của Thiên Chúa (giao ước) với dân riêng của Người, đã được đóng ấn bằng máu con vật hiến tế đổ ra (hy tế) và cùng nhau ăn của lễ đã được hiến tế (hiệp thông). Mô-sê đã nói về ‘Máu’: ‘Đây là máu Thiên Chúa đã thiết lập với anh em’ (Xh 24:8). Rồi ông vừa rảy máu trên bàn thờ (tượng trưng Thiên Chúa), vừa rảy trên dân chúng, một cử chỉ mối hiệp thông sự sống Thiên Chúa đã thiết lập giữa Người và dân Israel. Nhờ việc cùng nhau ăn của lễ hiến tế trong một bữa ăn được gọi là bữa tiệc hiến tế, Dân Thiên Chúa đang cam kết vào trong tương quan giao ước, và được trở nên một vì họ đã chia sẻ những ân huệ của Thiên Chúa. Rồi đây, một giao ước mới sẽ được hứa ban, giao ước đó sẽ được khắc ghi vào trong trái tim các tín hữu (Is 55:3; Jr 31:31-34).
107. Trong suốt cuộc đời dương thế của mình, Đức Giê-su nhấn mạnh về việc cần thiết phải tôn thờ Thiên Chúa cách chân thực từ nội tâm chứ không lệ thuộc những nghi thức hay hiến tế bên ngoài. Toàn bộ cuộc đời Người là một cuộc tự hiến tình yêu vì người khác. Trong thư gửi tín hữu Do Thái viết rằng khi Đức Ki-tô tiến vào thế giới, Người nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tôi. Bây giờ con mới thưa: Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Người’ (Dt 10:5-7). Trót cuộc đời sứ vụ, Người hy sinh mạng sống mình để chúng ta được trở nên một. Các bữa ăn Người chia sẻ với chúng ta, Người bày tỏ mong ước được đến với mọi người. Theo Thánh Gioan, tác giả sách Tin Mừng (Ga 13:1), Đức Giê-su vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng, đến nỗi chịu khổ hình và chịu chết.
108. Trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã giải thích cho chúng ta cuộc hiến tế bằng cái chết của Người trên Thập Giá. Người nhận lấy cho mình những lời của Mô-sê: ‘Đây là Máu của Ta, Máu giao ước’ (Mt 26:28) hay chúng ta đọc trong Lu-ca: ‘Đây là chén giao ước mới bằng máu của Ta, sẽ đổ ra vì anh em’ (Lc 20:20). Người giải thích rằng cái chết của Người là một cuộc hiến tế đền thay cho chúng ta. Khi tiến đến gần Jerusalem, Người nói: ‘Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người’ (Mc 10:45) và Người đã sống đến cùng lời Người đã nói khi bị treo trên Thập Giá. Đức Giê-su đã không hiến dâng một ‘vật gì đó’. Người đã dâng hiến chính mạng sống mình vì yêu…Người trở nên một với của lễ. Người vừa đóng vai vị tư tế, vừa là của lễ được hiến tế. Thánh Tông Đồ Phao-lô giải thích thêm về ý nghĩa của cuộc hiến tế này khi chỉ cho chúng ta thấy sự trao đổi vị thế đã xảy ra trên Thập Giá giữa chúng ta và Đức Giê-su Ki-tô: ‘Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người’ (2Cr 5:21). Người là Con Thiên Chúa, đã tự huỷ mình ra không vì chúng ta, ngõ hầu chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa. Người đã phải nhận lấy cảm giác bị xa lìa Thiên Chúa, bị bỏ rơi, để chúng ta được nhận biết Thiên Chúa đang ở gần chúng ta, với chúng ta và trong chúng ta, trong sự hiệp thông với nhau. Thánh Phao-lô viết: ‘Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có’ (2Cr 8:9).
109. Trong khi chúng ta được hưởng những ơn ích của sự hiệp thông chân thực được ban cho chúng ta như một quà tặng đến từ cuộc hiến tế của Đức Ki-tô, thì trong Thánh Lễ, chúng ta cũng được ban cho cơ hội đặc ân được tham dự vào hiến tế của Đức Ki-tô. Qua Bí Tích Thanh Tẩy, Đức Giê-su Ki-tô kéo chúng ta vào cuộc hiến tế của Người, vì chúng ta đã trở thành những chi thể của thân mình Người. Ngày lại ngày chúng ta dâng hiến chính mình làm của lễ sống động và thánh thiện (Rm 12:1). Trong Thánh Lễ, chúng ta nghe trong Kinh Nguyện Tạ ơn IV, Đức Ki-tô và Hội Thánh được hiệp nhất trong hiến tế ngợi khen: ‘Lạy Chúa, xin đoái nhìn đến của lễ hiến tế Chúa đã ban cho Hội Thánh. Chúng con nài xin Chúa dùng quyền năng Chúa Thánh Thần qui tụ tất cả những người sẽ chia sẻ vào cùng một bánh và cùng một chén, được trở nên một thân mình của Đức Ki-tô, thành của lễ hiến tế ngợi khen sống động’. Những lời cầu nguyện, chúc tụng và của lễ của chúng ta được hoà nhập vào trong hiến tế của Người, được Hội Thánh tiến dâng: ‘Chính nhờ Người, với Người và trong Người’. Trong cử hành Thánh Lễ, hiến tế của Đức Ki-tô cũng trở thành hiến tế của các chi thể thuộc thân mình Người. Thánh Augustino đã diễn tả như sau:
Toàn thể thành đô được cứu chuộc, toàn thể đại hội và cộng đoàn chư Thánh, được tiến dâng lên Thiên Chúa như một hiến tế toàn cầu, nhờ bàn tay của vị thượng tế, Đấng đã mặc lấy thân nô lệ để dâng hiến chính mình cho chúng ta trong cuộc khổ nạn của Người, để làm cho chúng ta trở nên Thân Mình của một thủ lãnh thật vĩ đại…Đấy chính là hiến tế của Ki-tô hữu: ‘Chúng ta tuy nhiều, nhưng trở nên một thân mình trong Đức Ki-tô’. Hội Thánh tiếp tục cử hành cuộc hiến tế này trong các bí tích bàn thờ, ngõ hầu các tín hữu được nhận biết rằng: những gì Hội Thánh tiến dâng, chính Hội Thánh cũng được dâng hiến.
110. Hiến tế của Đức Ki-tô hiện diện trên bàn thờ làm cho mọi thế hệ Ki-tô hữu có khả năng được hiệp nhất với hiến tế của Người. Trong các hang toại đạo tại Rô-ma, Hội Thánh thường được giới thiệu bằng hình ảnh của người phụ nữ đang cầu nguyện, hai cánh tay giang rộng trong tư thế cầu nguyện, họa lại hình ảnh Đức Ki-tô giang tay trên thập giá. Như vậy, trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô, Hội Thánh hiến dâng chính mình và cầu khẩn cho mọi người. Chúng ta có thể dâng gì cho Chúa? Chúng ta dâng lên Chúa mọi nỗi thống khổ và lời cầu nguyện, những việc làm và những hành động của tình thương. Liên kết với Đức Ki-tô trong của lễ toàn hiến của Người, những gì chúng ta dâng sẽ được mặc lấy một giá trị mới. Ngay cả những điều nhỏ mọn nhất, sau khi được hiến dâng, cũng mặc lấy một giá trị mới. Chúng ta đang để cho tình yêu tự hiến của Đức Ki-tô đụng chạm đến và biến đổi mọi giới hạn của chúng ta trong nỗ lực xây dựng tình hiệp thông với những người khác. Của lễ chúng ta dâng tiến sẽ được thấm đượm bằng tình yêu nếu được liên kết với hiến tế của Đức Ki-tô. Đây không phải là một việc nhỏ. Qua việc chúng ta liên kết thế giới chung quanh với hiến tế của Đức Ki-tô, chúng ta đang góp phần làm nên điều mà Teihard de Chardin gọi là ‘tình yêu hoá’ vụ trụ.
111. Việc chúng ta tham dự vào hiến tế tự hiến của Chúa Con trở nên lời cầu nguyện không những cho người còn sống mà còn cho cả những tín hữu đã qua đời, những anh chị em của chúng ta đã chết trong Đức Ki-tô, những vẫn chưa hoàn toàn được thanh luyện trong tình yêu. Thánh Cyrine thành Jerusalem viết: ‘Qua việc chúng ta dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin cho những ai đã an giấc, nếu họ còn bị vướng mắc tội lỗi, chúng ta dâng chính Đức Ki-tô chịu hiến tế vì tội của tất cả nhân loại, và nhờ vậy, tất cả chúng ta và nhân loại được chuộc lại cách xứng hợp cho Thiên Chúa Đấng yêu thương chúng ta. Không chỉ có thế. Lời cầu nguyện của chúng ta còn hiệp thông với những ai đang ở trong vinh quang nước trời, đặc biệt là Đức Maria. ‘Trong niềm hiệp thông với và tưởng nhớ tới Đức Trinh Nữ Maria cùng tất cả các Thánh, Hội Thánh tiến dâng Hy Tế Thánh Thể. Trong Cử Hành Thánh Thể, Hội Thánh, như dưới chân Thập Giá cùng với Đức Maria, được hiệp nhất với hiến tế và lời cầu khẩn của Đức Ki-tô’.
VI. Nghi Thức Hiệp Lễ: Lời thưa ‘Amen’
‘Rồi mắt họ được mở ra và họ đã nhận ra Người’ (Lc 24: 31)
VI.a. Rước Lễ
112. Nghi thức rước lễ nối tiếp ngay sau phụng vụ Thánh Thể. Cộng đoàn tụ họp lại một nơi. Các kỳ công của Thiên Chúa được giới thiệu cho chúng ta qua các bài đọc Sách Thánh, tiếp theo là sự đáp trả của cộng đoàn qua nghi thức tiến dâng của lễ. Chúng ta diễn tả hành vi tạ ơn của chúng ta. Bánh và rượu được biến đổi thành mình và máu Đức Ki-tô, và chúng ta cũng được biến đổi nên một thân mình, một tinh thần trong Đức Ki-tô. Và bây giờ đến lúc rước Mình Thánh Chúa.
113. Nghi thức hiệp lễ được mở đầu bằng ‘Kinh Lạy Cha’. Theo Giáo Lý dạy, kinh Lạy Cha được đặt giữa Kinh Nguyện Tạ Ơn và phần hiệp lễ, ‘một mặt, lời cầu nguyện của Thiên Chúa đúc kết tất cả những tâm tình nguyện xin và lời chuyển cầu trong phần cầu khẩn Chúa Thánh Linh epiclesis, mặt khác gõ cửa vào Bữa Tiệc Thiên Quốc được hưởng kiến trước qua việc rước Bí Tích Mình Máu Thánh’. Lời cầu nguyện của Thiên Chúa là lời cầu nguyện tinh tuý của Hội Thánh. Kinh Lạy Cha mặc khải cho chúng ta nhận biết chính mình đồng thời cũng tỏ cho chúng ta nhận biết Chúa Cha. Nhờ hiệp thông với Đức Ki-tô, chúng ta được vững tin, cùng với Đức Giê-su Ki-tô, tiến bước qua ngưỡng cửa sự thánh thiện của Thiên Chúa, và nhận ra rằng chúng ta có cùng một Cha và tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau. Điều này cũng được nhận ra một lần nữa qua việc trao cho nhau lời chúc bình an.
114. Trong phần Hướng Dẫn Tổng Quát của Sách Lễ Rô-ma, số 80 chúng ta đọc: ‘Cử Hành Thánh Thể là Bữa Tiệc Vượt Qua. Thể theo lệnh truyền của Thiên Chúa, các tín hữu đã được chuẩn bị cách xứng hợp, nên lãnh nhận Mình và Máu Người là lương thực thiêng liêng. Đây là ý nghĩa của việc bẻ bánh và những nghi thức chuẩn bị khác nhằm trực tiếp hướng dẫn người tín hữu đến với việc rước lễ. Việc bẻ bánh hay ( fractio panis) là một hành động tượng trưng nhắc nhớ rằng tất cả chúng ta cùng chia sẻ một tấm bánh bởi trời mà chúng ta sắp lãnh nhận. Trong khi bẻ bánh, một phần nhỏ của mình thánh ‘hiểu như là chất men’ (fermentum) được bỏ vào trong Chén Máu Thánh . Cử chỉ này được giải thích như sau: ‘Việc làm này nhắc nhớ lại một thực hành cổ xưa tượng trưng cho sự hiệp nhất trong việc cử hành Thánh Lễ tại mỗi địa phương với Thánh lễ được Giám Mục Rô-ma cử hành. Qua nhiều thế kỷ, Đức Giáo Hoàng thường gửi một phần của Bánh Thánh đã được truyền phép cho các linh mục chủ tế đang cử hành Thánh Lễ tại các địa phương, để duy trì sự hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng. Phần Bánh Thánh này (được hiểu như là chất men fermentum) được bỏ vào trong Chén Máu Thánh trước khi được phân phát cho rước lễ, để diễn tả chân lý: Thánh Thể là Bí Tích Hiệp Nhất của Hội Thánh. Có lẽ thuật ngữ ‘men’ fermentum ám chỉ việc Cử Hành Thánh Thể như là men của đời sống Ki-tô hữu và là khí cụ nhờ đó những người Ki-tô Hữu lan tràn trên khắp thế giới được hiệp nhất trong một thân mình Đức Ki-tô như chất men ở trong thế giới.
115. Thánh Justino nhắc nhở chúng ta rằng: ‘Vì đây là Bánh Bởi Trời và là Chén Cứu Độ, vì thế không ai được phép dự phần vào, trừ khi người ấy tin vào giáo huấn của Hội Thánh, đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để được tha thứ mọi tội lỗi, được tái sinh vào đời sống mới và đang sống theo giáo huấn của Đức Ki-tô. Khi linh mục hay thừa tác viên ngoại thường trao Mình Thánh Chúa cầm Mình Thánh đưa lên trước mặt chúng ta và nói: ‘Mình Thánh Chúa Ki-tô’ hàm ý chúng ta đang được hỏi rằng: ‘bạn có thuộc về thân mình Đức Ki-tô không? Điều ấy cũng có nghĩa là bạn có đang ở trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với anh chị em không? Nếu chúng ta đáp lại: ‘Amen’, chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Chúa Ki-tô.
116. Chúng ta rước Mình Chúa Ki-tô, để cùng với nhau, chúng ta có thể trở nên giống thân mình của Đức Ki-tô đích thực hơn nữa giữa thế gian. Thánh Augustino thành Hippo nhắc nhở chúng ta rằng trong Cử Hành Thánh Thể, chúng ta phải trở thành cái chúng ta xem thấy và nhận lấy cái chúng ta trở thành. Thánh nhân nói tiếp: Bạn thưa “Amen” về điều bạn sẽ trở thành, và bởi lời thưa của bạn, nói lên rằng bạn đồng ý. Vì thế, khi bạn nghe ‘Mình Thánh Chúa Ki-tô ’ và bạn thưa ‘Amen’. Giờ đây, lời thưa ‘Amen’ chúng ta đáp khi rước lễ, là một sự tiếp nối của lời thưa ‘Amen’ long trọng, diễn tả rằng chúng ta đã sẵn sàng để bước vào đời sống hiệp thông mà Đức Ki-tô đã chuộc cho chúng ta bằng cái chết và sự phục sinh của Người.
VI.b. Thánh Thể Làm cho chúng ta nên Một
117. Như Thánh Thomas Aquino và nhiều vị Thánh khác trong truyền thống đã xác định rằng hiệu quả đặc biệt của Cử Hành Thánh Thể là làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô các đích thực và mầu nhiệm. Ví dụ, Thánh Augustino diễn tả niềm tin này bằng giải thích về việc làm của Đức Giê-su trong việc hiến ban chính mình Người cho chúng ta trong sự hiệp thông: ‘Ta là lương thực cho người mạnh khoẻ; hãy tin rồi ngươi hãy ăn Ta. Nhưng các ngươi sẽ không biến Ta thành bản thể các ngươi được, như các người đã làm với thứ lương thửc nuôi sống thân xác mình, thay vì vậy, các người sẽ được biến đổi thành Ta’.Thánh Alberto Cả, một nhà thần học nổi tiếng thời trung cổ cũng xác nhận rằng: ‘Bí tích này biến đổi chúng ta thành thân mình Đức Ki-tô, cũng vậy xương của chúng ta trở thành xương của Người, thịt trở thành thịt của Người, chi thể thành chi thể của Người’. Như một bậc thầy uyên bác, người tiếp tục giải thích: ‘Mỗi lần hai sự vật hợp nhất trong cách thế như vậy, vật này hoàn toàn được biến đổi thành vật kia, vật nào mạnh hơn sẽ biến đổi vật kia thành chính nó. Vì thế, lương thực nào có sức mạnh hơn kẻ ăn nó thì lương thực ấy sẽ biến đổi kẻ ăn nó thành chính nó’. Trong Kinh Nguyện Tạ Ơn, thánh nhân giải thích: ‘Chúng ta phải tạ ơn Đức Ki-tô biết chừng nào, Đấng đã dùng thân mình sống động của Người biến đổi chúng ta thành chính mình Người, ngõ hầu chúng ta trở nên thân mình thánh thiêng và tinh tuyền của Người’. Thánh Thérèse thành Lisieux, một vị tiến sĩ mới của Hội Thánh đã viết: ‘Mỗi sáng, Đức Ki-tô biến đổi một tấm bánh trắng thành chính mình Người để chuyển thông sự sống của Người cho bạn. Hơn thế nữa, bằng một tình yêu lớn lao hơn, người muốn biến đổi bạn thành chính mình Người’. Tại Công Đồng Vaticano II, thánh Leo Cả viết rằng ‘Việc chúng ta dự phần vào Mình và Máu Đức Ki-tô không có tác dụng nào khác hơn là biến chúng ta thành cái chúng ta đã ăn’.
118. Nhìn nhận hiệu quả đặc biệt của Thánh Thể - sự biến đổi chúng ta nên Đức Ki-tô, chúng ta có thể hiểu thấu được Thánh Thể thật sự làm cho chúng ta nên một thân thể và một linh hồn cách độc đáo như thế nào. Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI nhận định về vấn đề này bằng chú giải về tiến trình biến đổi chúng ta đã bắt đầu như thế nào khi bánh và rượu được biến đổi thành Mình và Máu Đức Ki-tô, và giờ đây qui tụ xung lực (sức mạnh thúc đẩy) và tiếp tục gây ra những biến đổi khác:
‘Mình và Máu Đức Ki-tô được ban cho chúng ta, để đến lượt chính chúng ta cũng sẽ được biến đổi. Chúng ta phải trở nên thân mình Đức Ki-tô, thành chính máu thịt của Người. Tất cả chúng ta cùng ăn một bánh và điều này có nghĩa chính chúng ta sẽ trở nên một. Bằng cách này, việc tôn thờ… trở nên hợp nhất. Đơn giản là Thiên Chúa không còn đứng trước chúng ta như một Đấng Khác hoàn toàn nữa. Người ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Người. Sức năng động của Người vào sâu trong chúng ta và sau đó tìm cách lan toả ra đến những người khác cho đến khi tràn ngập thế giới, ngõ hầu tình yêu của Người có thể thực sự trở thành chuẩn mực chi phối cả thế giới’.
119. Một sự hiệp thông đời sống mới vượt tất cả mọi kinh nghiệm chia sẻ của chúng ta đang xuất hiện và tạo ra một cộng đồng nhân loại đích thực. Nhờ sức mạnh hợp nhất của thân mình Đức Ki-tô, chúng ta có thể chống lại tất cả những mầm mống gây chia rẽ trong đời sống chúng ta và chung quanh chúng ta. Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI so sánh toàn bộ tiến trình ‘phân hạch (phá vỡ hạt nhân nguyên tử) ngay trong lòng của hữu thể’. ‘Chỉ có sự bùng nổ mãnh liệt của những việc thiện chiến thắng điều ác mới có thể kéo theo một chuỗi biến đổi dần dần sẽ làm thay đổi thế giới’.
120. Bằng việc rước Thánh Thể, chúng ta được mời gọi hưởng nếm trước một tương lai mới qua những lời và hành động, ngõ hầu tương lai có thể đã được thấy trong hiện tại và vì vậy chúng ta có thể nếm hưởng trước cái chúng ta sẽ phải trở thành. Một kinh nghiệm về sự thinh lặng trong những buổi Cử Hành Thánh Thể sẽ tạo cho người tham dự không những để hồi tưởng về quá và cử hành hiện tại mà còn hướng về sự hiệp thông hoàn hảo với Đức Ki-tô và với nhau trong tương lai như Thiên Chúa hứa. Bằng con mắt của linh hồn, chúng ta có thể thoáng thấy trời mới đất mới được mở ra cho chúng ta qua việc Cử Hành Thánh Thể.
VI.c. Rước Lễ Thiêng Liêng
121. Không phải tất cả những ai tham dự Thánh Lễ đều có thể đang trong tư thế sẵn sàng Rước Lễ trong Thánh Lễ đó, nhưng mọi người đều có thể thực hành điều được gọi là ‘Rước Lễ Thiêng Liêng’, trong ý nghĩa một hành vi tôn thờ, liên kết chính họ với hành vi tự hiến đang được cử hành trong Thánh Lễ đó. Thánh Thérèse thành Avila viết : ‘Khi bạn không rước lễ và không tham dự Thánh Lễ, bạn có thể thực hành rước lễ thiêng liêng, một thực hành nhiều ơn phúc nhất. Nhờ rước lễ thiêng liêng, tình yêu của Thiên Chúa sẽ được in dấu sâu trong bạn’. Một cách nào đó, tất cả chúng ta được Chúa Thánh Thần liên kết. Những ai không thể rước lễ, trong lòng có thể nói lên sự khao khát chân thành được rước lễ và kết hợp bản thân cũng như những đau khổ của mình trong giây phút ấy với hiến tế của Đức Giê-su Ki-tô. Trong những năm gần đây, trong các Thánh Lễ, thường có lời mời gọi tất cả những ai không thể rước lễ (dưới hình bí tích Mình Máu Thánh), ví dụ như các trẻ em chưa được Rước Lễ Lần Đầu hay những người trưởng thành không thuộc Công Giáo, được lên lãnh nhận ‘phép lành’ trong lúc cộng đoàn đang rước lễ.
VII. Nghi Thức Kết Lễ- Được làm nên Một để Tất Cả được nên Một
‘ Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng người lại biến mất….Ngay lúc ấy, họ đứng dậy và trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường và họ đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh (Lc 24: 31-35).
VII.a. Giải tán
122. Thánh Lễ được kết thúc qua việc giải tán với lời chúc ‘ra đi bình an’ của phó tế hoặc linh mục chủ sự Thánh Lễ. Chúng ta được sai đi ‘để làm những việc lành, ngợi khen và chúc tụng Chúa’. Có điều nhiệm mầu nào đó trong việc ‘giải tán các môn đệ trong câu chuyện E-mau. Ngay khi nhận ra Đức Ki-tô phục sinh qua việc bẻ bánh, ‘Người liền biến mất trước mắt họ’. Chúng ta có thể giải thích như thế nào về việc này? Chi tiết này đáng chú ý vì dường như nó đang nói cho chúng ta điều gì đó quan trọng trong cuộc gặp gỡ của chúng ta với Đức Giê-su Ki-tô trong cử hành Thánh Thể. Điều chúng ta có thể nhận thấy trong câu truyện E-mau là một khi các môn đệ đã tiếp nhận Lời Chúa và Thánh Thể vào trong cuộc sống của họ, bây giờ họ có thể mặc lấy sự sống Phục Sinh Đức Ki-tô đã ban cho họ và trở thành hiện thân của Người trong thế giới: ‘Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô’(Phl 1: 21). Họ đã được biến đổi thành Đức Ki-tô. Giờ đây Người tiếp tục sống trong họ và ở giữa họ. Chúng ta có thể suy giẫm những lời của Thánh Thérèse thành Avila, ‘Đức Ki-tô giờ đây không có thân thể nhưng mang thân thể của bạn, không có đôi tay nhưng dùng đôi tay của bạn, không có đôi chân nhưng dùng đôi chân của bạn. Thông qua đôi mắt của của bạn, lòng trắc ẩn của Đức Ki-tô phải nhìn đến thế giới. Với đôi chân của bạn Đức Ki-tô phải đi đó đây để làm những việc tốt lành. Với đôi tay của bạn Đức Ki-tô dùng để ban phúc cho chúng ta hôm nay. Ngay lúc này, chúng ta sẽ cùng đi với những ai tiếp nối những bước chân của Đức Ki-tô trên khắp mọi nẻo đường thế giới.
123. Nếu trong Cử hành Thánh Thể, Đức Ki-tô Giê-su Chịu đóng đinh và phục sinh hiện diện trong chúng ta bằng nhiều cách, đặc biệt tại hai bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể, thì ngày hôm nay trong phụng vụ của cuộc sống, thông qua chúng ta và trong chúng ta ‘hai hoặc nhiều hơn’ được qui tụ nhân danh Đức Ki-tô, sự hiện diện của Người sẽ trở nên ‘hữu hình và xác thực’ cho những người khác (Mt 18: 20). Chỉ có đức tin của chúng ta hành động nhờ đức ái (Gl 5: 6) giúp chia sẻ sự ấm áp và niềm vui của Cử hành Thánh Thể cho người khác. Đi xa hơn và trong một ý nghĩa nào đó chúng ta có thể nói rằng Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh, đến trước Giáo hội, qui tụ chúng ta lại và nuôi dưỡng chúng ta bằng mình và máu của Người, cũng muốn trở nên hoa trái của lời chứng chúng ta cho Người (trong chính ân huệ Người ban cho chúng ta) trong Hội Thánh. Mượn những lời của Dorothy Day, tôi tớ Chúa: ‘chúng ta phải thực hành sự hiện diện của Chúa’. Người đã nói: ‘Khi hai hoặc ba người qui tụ lại với nhau thì có Người hiện diện ở giữa họ. Người hiện diện với chúng ta trong nhà bếp, nơi bàn ăn, trong cảnh nghèo khó của chúng ta, với những vị khách của chúng ta, trên nông trại của chúng ta…Cái chúng ta làm được thì rất nhỏ bé. Như cậu bé chỉ với vài ổ bánh và ít con cá. Chúa Ki-tô đã cầm lấy số ít ỏi đó và làm cho nó được nhân thừa lên. Người sẽ làm phần việc còn lại…’.
VII.b. Theo mẫu gương của Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ
124. Nghi thức kết Lễ sai chúng ta ra đi để sống cuộc sống Thánh Thể. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu phải sống Thánh Thể như thế nào, chúng ta có thể lấy mẫu gương của Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ làm thước đo cho mức độ của tình yêu tự hiến được tưởng nhớ trong Thánh Lễ. Trong Tin Mừng Thứ Tư, ‘Bữa Ăn Tối Cuối Cùng’ được xem như một phần của những hành động mang tính biểu tượng sau cùng của Đức Giê-su, cho chúng ta thấy ý nghĩa sâu sắc và những thực hành mang tính xã hội liên tục và mối tương quan liên vị của việc cử hành Thánh Thể. ‘Tình yêu đến cùng’ của Người ( Ga 13:1) được biểu lộ khi Người rửa chân cho các môn đệ. Khi cởi áo ngoài, Người không những hoàn thành nhiệm vụ khiêm tốn này, mà còn mặc lấy thân phận người nô lệ để phục vụ bạn hữu của mình vì yêu. Trong hành động tượng trưng của việc rửa chân, Đức Giê-su đã ban cho các môn đệ một bài học gương mẫu để các ông làm theo: hy sinh mạng sống mình để phục vụ lẫn nhau. ‘ Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em ( Ga 13: 15), anh em cũng phải rửa chân cho nhau’ (Ga 13: 14).
125. Sau đó, trong diễn từ Cáo Biệt, Đức Giê-su đã lặp đi lặp lại lệnh truyền mới của Người vẫn còn đang được nhắc đến trong Cử Hành Thánh Thể: ‘Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám hy sinh mạng sống của mình cho bạn hữu’ (Ga 12f). Thực hành đời sống Thánh Thể có nghĩa là chúng ta nhận lãnh trách nhiệm xây dựng một thế giới thấm đượm tình hiệp thông huynh đệ mà chúng ta được lãnh nhận và được dạy qua việc Cử Hành Thánh Thể. Trong Thánh Lễ, chúng ta được chúc phúc: ‘Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời Người đã thi ân giáng phúc, cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần’ (Ep 1: 3). Giờ đây, cánh cửa đã được mở ra cho chúng ta để loan báo Tin Mừng bằng đời sống và lời rao giảng của chúng ta. Mỗi người sẽ rời khỏi cộng đồng để ra đi theo hành trình riêng của mình, nhưng chúng ta không đi một mình. Bấy giờ, mỗi người sẽ mang theo trong trái tim của mình những người anh chị em khác để tiếp tục công việc đã xảy đến với chúng ta trong lúc Cử Hành Thánh Thể, trở thành người đi xây dựng tình liên đới hiệp nhất ở bất kỳ nơi nào chúng ta đến. Việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh Lễ kéo dài và tăng cường những gì đã được chúng ta cử hành trong phụng vụ.
126. Khi rời khỏi Thánh Lễ, những gì chúng ta cử hành sẽ bắt đầu sinh hiệu quả. Ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, tình yêu của Thiên Chúa và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần (2 Cr 13:13) chúng ta đã lãnh nhận sẽ ở lại trong chúng ta và sinh hoa trái sau khi Cử Hành Thánh Thể. Chúng ta có thể ra đi trong niềm tin vững chắc, vì trong Thánh Lễ, Hội Thánh đã khẩn nài Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến để biến đổi cuộc sống của chúng ta thành hiến lễ sống động dâng lên Thiên Chúa bằng một cuộc biến đổi thiêng liêng làm cho chúng ta trở thành hình ảnh của Đức Ki-tô, bằng nỗi ưu tư lo lắng đến sự hiệp nhất của Hội Thánh, bằng việc tham dự vào sứ vụ của Hội Thánh qua chứng từ và công việc phục vụ bác ái.
VIII. Kết Luận
127. Thánh Phê-rô Giuliano Eymard, đấng sáng Lập Dòng Thánh Thể đã viết: ‘Đức Giê-su Ki-tô cũng muốn có sự tưởng nhớ đến Người, di sản của Người, kiệt tác của người được liên tục lập lại để lưu truyền tình yêu của Người cho nhân loại’. Người sẽ trở thành nhà phát minh, thợ gốm, là Đấng trao ban quà tặng cao quí nhất của mình. Người sẽ thánh hiến nó bằng giao ước cuối cùng và cái chết của Người sẽ trở thành sự sống và vinh quang của giao ước ấy. Vậy sự tưởng nhớ tối thượng về tình yêu của Đức Giê-su Ki-tô sẽ là gì? Đó chính là Cử Hành Thánh Thể…Bằng những suy niệm mang tính mục vụ và thần học này, chúng ta đã khai thác ‘kiệt tác’ của Đức Giê-su Ki-tô, là việc Cử Hành Thánh Thể, trong bối cảnh chủ đề của Đại Hội Thánh Thể 2012, sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau.
128. Trong khi kết luận về những suy tư này, chúng tôi nhận thấy những bất cập trong ngôn từ của mình. Có lẽ, khi tất cả đã được nói và được làm, đơn gỉản nhất là mời tất cả những ai tham dự Đại Hội đến Cử Hành Thánh Thể và mời chính Đức Giê-su Ki-tô đến chuẩn bị lòng trí của họ bằng ánh sáng và tình yêu của Người. Ngày nay, trải qua nhiều thế kỷ, một cách lặng lẽ nhưng kiên trì, Thánh Thể mời gọi chúng ta trở lại Phòng Tiệc Ly, nơi Hội Thánh nhờ việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể được sinh ra như một ‘gia đình của Thiên Chúa’, một trái tim và một linh hồn, trong sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau. Cũng trong Phòng Tiệc Ly đó, qua việc cử hành Thánh Thể, chúng ta khám phá ra nhịp đập của trái tim Đức Giê-su Ki-tô đang mời gọi chúng ta khám phá ra những gì Người đã làm cho chúng ta. Người yêu thương chúng ta đến cùng, đến nỗi Người chấp nhận ở lại với chúng ta mọi lúc và mọi nơi trong Cử Hành Thánh Thể. Cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh là diễn tả cao nhất tình yêu thương của Người. Ví dụ, thánh nữ Thérèse thành Lisieux bị ấn tượng bởi tình yêu vô điều kiện được diễn tả nơi Nhiệm Tích Thánh Thể, đã thốt lên từ đáy sâu thẳm của tâm hồn mình: ‘Ôi Giê-su, hãy để cho con nói, trong lòng biết ơn vô hạn, rằng tình yêu thương của Chúa đã đến mức điên rồ’.
129. Đại Hội Thánh Thể là cơ hội để chúng ta lại bị quyến rũ bởi quà tặng tình yêu và để trái tim của chúng ta hoà chung nhịp đập với trái tim yêu thương của Người, Đấng mời gọi chúng ta nên hoàn thiện trong tình yêu và nên thánh thiện (1Thes 4: 3). Phấn đấu để nên thánh, không phải vì thành tích cá nhân nhưng để góp phần xây dựng một tình yêu thương huynh đệ phổ quát trên toàn thế giới. Sự hiệp thông của chúng ta nằm trong công việc phục vụ tình liên đới phổ quát. Chúng ta dành những lời cuối của tài liệu này cho một người phụ nữ trẻ vừa mới được phong chân phước, chị Chiana Luce Badano, người say yêu Thánh Thể và được ban sức mạnh để sống vì người khác, ngay cả trong những cơn đau đớn vì sức khoẻ yếu kém. Thánh Thể đã đem đến cho chị sức sống, ánh sáng và tình yêu, đến độ lời cuối cùng chị nói với mẹ: ‘hãy vui mừng vì con’. Đó là hạnh phúc của sự hiệp thông với Đức Ki-tô và với nhau.
Nhóm Phiên Dịch DTT