365 Ngày Với Cha Thánh Eymard – Tháng 10

365 NGÀY VỚI CHA THÁNH EYMARD – THÁNG 10

 

Ngày 1/10

“Mẹ Tê-rê-sa phải ủng hộ công việc này cùng với công việc của Thánh Nhan. Quả thực là chính tại đây, Thánh Nhan của Đấng Cứu Độ bị phủ lấp bởi nước bọt, máu cùng chất dính trên khuôn mặt vị linh mục của Ngài.” (Gửi cho cha Arthur Dhe, tháng 11/1866)

Chúng ta thừa nhận rằng Mẹ Tê-rê-sa được đề cập đến ở đây chính là người đã sáng lập Hội dòng các chị em chầu Phạt Tạ và đang suy nghĩ đến một hội dòng khác dành cho các linh mục tận hiến cho Bí tích Thánh Thể. Là một người nhiệt thành, mẹ đã có nhiều dự án khác trong đầu giống như công việc của Thánh Nhan. Vì biết mẹ khá rõ, cha Eymard đã đề nghị mẹ cùng tham gia vào công việc giúp đỡ những linh mục sa ngã. Vì chính nơi các ngài mà Chúa chúng ta bị bôi nhọ, cũng như công cuộc của Nước Trời bị nguy hại nhất! Bên cạnh đó, thường xảy ra là vị linh mục, với vai trò dẫn dắt trong Hội Thánh, đang ở một vị trí có thể gây ra thiệt hại to lớn nhất đối với niềm tin của những ai còn chọn lựa để ở lại trong đàn chiên.

Tình trạng của các ngài nhắc nhở chúng ta điều mà Chúa Giê-su đã cảnh báo các môn đệ về những gì đã xảy ra khi Ngài hoạt động trên dương thế ‘Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói: "Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi". Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước. Thế hệ gian ác này rồi cũng sẽ bị như vậy’ (Mt 12,43-45). Vì thế, vị linh mục sa vào những cạm bẫy của Sự Dữ có thể là một người nguy hiểm khó chống đỡ hơn một Ki-tô hữu bình thường sa ngã.

Điều này không có ý nói rằng linh mục sa ngã sẽ bị xa tránh vì việc này cũng như phải bị giữ một khoảng cách. Thay vào đó, cần phải khẩn cấp và cần thiết hơn trong việc giúp các ngài phục hồi để khi các ngài được trở lại và nhà cửa lại ngăn nắp, thì ngôi nhà có thể được giữ gìn sạch sẽ bởi sự cảnh tỉnh và đề phòng. Cần phải nhớ rằng, mặc dù công việc giúp đỡ các linh mục sa ngã là công việc của các chuyên gia. Về mặt tâm linh, những chuyên gia này là những người ở gần Chúa và chia sẻ những cảm nghiệm về Đức Ki-tô một cách sâu sắc cho những con người kém may mắn. Họ cũng cần có những kỹ năng đặc biệt để đối xử với những con người đã bị tổn thương về mặt tâm lý cũng như những thứ khác và do đó sẽ rất nhạy cảm và khó khăn để đối xử.

Điều khích lệ cho những con người được linh hứng để đảm nhiệm công việc này, chính là ý tưởng biết bao lợi ích sẽ đổ dồn về cho toàn thể Hội Thánh nếu một vài linh mục trong số này được đưa trở về với hàng ngũ. Cho dù khi trở về, những linh mục này không thi hành bất kỳ sứ vụ nào, thế nhưng sự hoán cải của họ cũng như sự bám víu vào Chúa mới nảy sinh sẽ là một nguồn cảm hứng lớn lao cho những người khác đang phải chiến đấu với những ác thần ẩn sâu trong con người mình. Đi theo Đức Giê-su không phải là điều dễ dàng trong bất kỳ tình huống nào cho tới khi người ta cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa, đặc biệt là qua những người xung quanh mình.

 

Ngày 2/10

“Ở đây chúng tôi quá khiêm tốn đến nỗi tôi không hiểu được làm thế nào người ta lại có thể sợ chúng tôi: Tự thân chúng tôi không thể lôi kéo được những ơn gọi quá nhiệt thành: để đến với chúng tôi, người ta phải có nhiệt huyết đối với Chúa, hay là chết đi cho thế gian. Một tình yêu vị kỷ nghèo nàn sẽ tàn lụi nơi đây” (Gửi cho bà Antoinette de Grandville, tháng 11/1866)

Ở đây, cha Eymard đang đề cập đến một vấn đề đã làm phật ý nhiều người đặc biệt trong suốt những ngày đầu của Hội dòng. Thâu nhận những ơn gọi tốt là một nhiệm vụ khó khăn trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử Hội Thánh, nhưng điều này quả là khó khăn ở nước Pháp sau cuộc cách mạng Pháp. Chúng ta đã đề cập trong những bài suy niệm trước rằng phần đông các linh mục đã từ bỏ lời cam kết của họ với Chúa Giê-su, bên cạnh đó một số đông các tín hữu cũng sa ngã. Chống lại nền tảng này, một số ít người đã dám mạo hiểm gia nhập vào đời linh mục, một đời sống hy sinh và tận hiến, chỉ với ít lợi nhuận theo quan điểm của loài người.

Một trong những lý do nảy ra trong đầu của cha Eymard về việc thiếu hụt ơn gọi của Dòng Thánh Thể chính là nỗi sợ hãi về nhóm người đã gia nhập và đã trở thành tu sỹ Dòng Thánh Thể. Cha Eymard ngạc nhiên vì điều này được xem như lý do cho sự sợ hãi, bởi lẽ hầu hết tất cả mọi người trong số họ đều là những người đơn sơ, khiêm tốn, đã có được một cái nhìn cũng như đảm nhiệm một sứ vụ trong Hội Thánh và trong thế giới. Ơn gọi của họ quả thực là một ơn gọi cao quý, và có lẽ chính ngọn lửa tình yêu nơi họ làm cho họ quá đặc biệt đến nỗi nhiều người cảm thấy rằng họ sẽ không thể đạt đến tầm mức đó qua việc cam kết của mình với Đức Giê-su. Không phải vì đặc sủng phục vụ CGS Thánh Thể của họ, cũng như những việc thực hành của họ với tư cách là những linh mục Thánh Thể, cụ thể là việc tôn thờ mà họ thực hiện, sẽ làm cho họ đứng vững như những siêu nhân. Chính sự nhiệt tình nơi bản thân họ mới làm cho họ trở nên khác biệt.

Tất cả những gì mà hội dòng đòi hỏi những người đang ước muốn gia nhập vào, đó là ngọn lửa nội tâm, một ước muốn rực cháy để làm cho Chúa Giê-su Thánh Thể được nhận biết và được yêu mến hơn. Họ sẽ cần để cho Đức Giê-su thiêu đốt mình bằng tình yêu của Ngài cũng như được đốt cháy bằng tình yêu qua lời đáp trả của họ đối với tình yêu của Thiên Chúa. Không nghi ngờ gì, điều này sẽ làm cho họ đứng vững trước bầu khí ảm đạm của việc đền tội và phạt tạ lan rộng trong Hội Thánh vào thời kỳ đó. Tất cả những ai gia nhập vào Hội dòng Thánh Thể mới thành lập ngay từ đầu đã đứng vững nhờ tình yêu mà họ đã chú trọng cũng như nhấn mạnh trong tất cả các công việc của mình. Trong lúc những linh mục đương thời khác chú trọng đến tội lỗi và khuyết điểm của con người và ít đề cập đến tình yêu bao la mà Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ chúng ta dành cho các tội nhân, thì các linh mục Dòng Thánh Thể dễ nhận ra điểm nhấn mạnh khác biệt của mình theo chiều hướng ngược lại.

Mỗi khi có thể, họ thích đề cập đến tình yêu Thiên Chúa như là phương thuốc hữu hiệu và trường cửu duy nhất mà chúng ta có được trong tình cảnh đau khổ của chúng ta ngay tại thế gian này. Điều này được thánh Phao-lô đúc kết khá tuyệt vời khi ngài nói “Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Rm 7,20-25).

 

Ngày 3/10

“Đừng hướng tâm hồn con vào những thành quả đạt được trong việc phục vụ Thiên Chúa, thậm chí là vào những cảm xúc êm đẹp, vì tất cả những thứ đó luôn biến đổi và không chân thật.” (Gửi cho Bá tước D’Andigne, tháng 11/1866)

Đây là một lời khuyên khác của cha Eymard dành cho người con linh hướng của mình. Dù việc đối chiếu này nhắm đến cùng đích của đời sống con người hay nhắm đến một dự án cụ thể nào trong cuộc sống, thì điều quan trọng là phải đặt mình diện đối diện với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của cuộc đời chúng ta và cũng là mục tiêu mà chúng ta nhắm tới. Tuy nhiên, cha Eymard rất khôn ngoan khi chỉ ra rằng nếu việc đối chiếu mà chúng ta có trong đầu được liên kết với bất kỳ thành tựu nào của chính chúng ta hay với những thành tựu được thực hiện cho Thiên Chúa, thì người ta sẽ nhìn cuộc đời như một việc phục vụ bị ép buộc vì chúng ta mong đợi một sự đền đáp nào đó.

Thánh Phao-lô đề cập đến tổ phụ Áp-ra-ham trong cuộc tranh luận của ngài: ‘Vậy phải nói sao về ông Áp-ra-ham, tổ phụ chúng tôi theo huyết thống? Ông đã được gì? Giả như ông Áp-ra-ham được nên công chính vì những việc ông làm, thì ông có lý do để hãnh diện, nhưng không phải trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, Kinh Thánh nói gì? “Ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa và điều ấy đã được kể cho ông là điều công chính.” Người nào làm việc, thì tiền công trả cho người ấy không được kể là ân sủng, mà là nợ. Còn người nào không làm việc nhưng tin vào Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì đức tin của người ấy được kể là điều công chính. Cũng vậy, vua Đa-vít nói về hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là công chính mà không xét đến việc làm: “Hạnh phúc thay lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung! Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!”

“Như vậy, ông là cha của hết mọi người tin mà không được cắt bì, để họ được kể là công chính. Ông cũng là cha của những người thuộc giới cắt bì, mà không phải chỉ được cắt bì, nhưng còn dõi bước trên đường đức tin của cha chúng ta là ông Áp-ra-ham, đức tin ông đã có khi chưa được cắt bì. Thật vậy, không phải nhờ Lề Luật, mà ông Áp-ra-ham hay dòng dõi ông nhận được lời hứa sẽ được thừa hưởng thế gian làm gia nghiệp, nhưng nhờ sự công chính do đức tin…Bởi vậy, vì tin mà người ta được hưởng gia nghiệp; như thế lời hứa là ân sủng Thiên Chúa ban, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai dựa vào Lề Luật, mà còn cho những ai dựa vào lòng tin của ông…-trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hóa có” (Rm 4:1-17).

Nếu những đóng góp của chúng ta cho Nước Chúa theo nghĩa những hoạt động không nên là cơ sở cho mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, thì những cảm xúc cần phải có nền tảng vì chúng không minh nhiên và hay thay đổi! Thực tế, những cảm xúc đến rồi đi, thế nhưng chính sự tin tưởng sẽ giúp chúng ta bám chặt vào Thiên Chúa, viên đá tảng cho ơn cứu độ của chúng ta. Và trong mối tương quan giao ước cụ thể thì chính Thiên Chúa là người đi bước trước và mời gọi chúng ta bước vào giao ước với Ngài! Chúng ta hoàn toàn không xứng đáng hay có quyền đòi hỏi đối với tình yêu của Ngài và chia sẻ trong sự sống của Ngài, chính Ngài là Đấng ban phát hoặc rút lại. Chính tình yêu khoan hồng của Ngài khiến Ngài chia sẻ sự sống của Ngài với chúng ta. Vì thế, chúng ta sẽ vẫn mãi là những đầy tớ bất xứng trước mặt Chúa dù khi được đồng bàn với Ngài trong vương quốc của Ngài. Điều duy nhất còn lại và không thay đổi trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa đó là chính tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Không nghi ngờ gì khi Ngài thường được nhắc đến như một phiến đá, một thành trì hay một pháo đài!

 

Ngày 4/10

“(Sau khi cha họ qua đời)… trước đó vài ngày, ông đã trao lại toàn bộ số tiền của mình cho cha Chanuet… và nói với ngài rằng: ‘Một tu sỹ không nên giữ lại bất cứ thứ gì. Con muốn từ bỏ mọi sự.” [Gửi cho các xơ: Euphrosie, Louise và Marcelle Ravanat, tháng 8/1867]

Lời khẳng định này của cha Eymard là một phần trong lá thư chia buồn mà cha viết cho ba nữ tu trong ngày qua đời của cha họ. Rõ ràng là cha tìm cách an ủi họ qua việc đưa ra một vài dấu chỉ tích cực cho thấy cha của họ đã được ban tặng một phần thưởng đích thật và thay đổi hoàn toàn cuộc đời ông sau khi nhìn nhận ông như một tu sỹ. Từ chi tiết nhỏ chúng ta đọc được trong lá thư này, dường như ông Ravanat là một con người chân thật tìm kiếm Thiên Chúa sau khi sống trọn cuộc đời mình, chu cấp cho gia đình cũng như quan tâm đến tất cả những bổn phận khác của ông. Ở đây, cha Eymard nhấn mạnh cách ông đã dâng tất cả mọi tài sản của mình cho cha giáo tập mà không giữ lại bất cứ cái gì cho mình.

Trong ý nghĩa này, không ngạc nhiên lắm khi thấy rằng chính cha Eymard đã đẩy mạnh Hiến lễ Bản vị trong tất cả mọi chiều kích. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy Thiên Chúa không thể bị người khác qua mặt về lòng quảng đại. Trái lại, chúng ta không thể không nhớ lại điều mà chính Đức Giê-su đã nói với các môn đệ của Người khi chàng thanh niên giàu có đặt câu hỏi cần phải làm gì để có được sự sống đời đời “Bấy giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: người giàu có sẽ khó vào Nước Trời. Thầy còn bảo anh em, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa. Nghe nói thế, các môn đệ vô cùng sửng sốt và hỏi: “Vậy ai có thể được cứu?” Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.” Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19:23-29).

Lý do đằng sau việc dứt bỏ mình khỏi tất cả mọi thứ là rất quan trọng. Bao lâu vẫn còn một điều gì đó khiến người ta có thể ngoái lại, thì người ấy chưa thực sự cảm thấy cần Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao khi kêu gọi một người nào đó thì chính Đức Giê-su nhất quyết lôi kéo người ấy đến với Người. Khi người ấy cảm nghiệm sự bất lực của mình, đó là lúc người ấy thực sự trở về với Thiên Chúa và sẵn sàng làm bất cứ điều gì mà Chúa chỉ dạy. Chỉ trong trường hợp bất lực này, đức tin mới bắt đầu biểu lộ một cách tốt nhất. Vì thế, nếu Chúa không khởi xướng trước trong vấn đề này, thì người ta sẽ phải tự làm một vài điều này hay điều khác trong cuộc đời mình. Khi việc này được thực hiện bằng tình yêu và lòng quảng đại, người ấy cảm nghiệm được một sự tự do nội tâm bao la và bắt đầu bước những bước lớn để thuộc trọn về Chúa. Chỉ có một điều hơi buồn trong trường hợp này đó là ông Ravanat đã không có nhiều thời giờ trên trần gian này để tận hưởng sự tư do và tình yêu của Thiên Chúa; tuy nhiên, chắc chắn ông sẽ không bị khước từ nữa khi ở trên nước trời!

 

Ngày 5/10

“Chúng ta hãy ngắm nhìn Thiên Chúa cùng sự nhân lành của Ngài trong mọi sự. Chúng ta hãy yêu mến những hành động quan phòng của Ngài vốn khôn ngoan và đầy ân sủng.” [Gửi cho bà Josephine Gourd, tháng 8/1867]

Khi một người nào đó bắt đầu cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa, người ấy sẽ thấy tình yêu hoạt động nơi tất cả mọi sự xung quanh mình. Đây cũng là kết quả của cái nhìn ‘đức tin’ được gia tăng do người ấy phát huy. Người ta bắt đầu ‘hiểu’ được đường lối của Thiên Chúa một cách rõ hơn và thậm chí nhiều lần họ có thể tiên liệu xem tiếp theo Thiên Chúa sẽ hành động như thế nào. Một ví dụ điển hình chính là việc cử hành Mầu nhiệm Vượt qua trong đời sống chúng ta. Khi Thiên Chúa muốn đổ tràn những ơn lành phi thường xuống một ai đó, trước tiên Ngài đảm bảo mọi sự sẽ diễn ra theo hướng ngược lại. Điều này làm cho người đó cảm thấy mình bị mất quyền kiểm soát trong tình huống đó và đây là một sự thử thách hữu ích cho niềm tin của họ.

Trong những trường hợp này, nếu Cái Tôi vẫn còn mạnh, người ấy sẽ phải cố gắng để kiểm soát được tình thế cũng như cố gắng hết sức để đẩy lui Cái Tôi. Tuy nhiên, Thiên Chúa lặp lại chiến thuật của Ngài theo hướng ngược lại- và trò chơi kéo co này sẽ tiếp tục diễn ra cho tới khi người ấy thức tỉnh và nhận ra điều gì đang thực sự xảy ra. Và lúc đó, hoặc là người ấy sẽ từ bỏ cuộc chiến để biết kiềm chế và phó thác hoàn toàn vào bàn tay của Thiên Chúa, hoặc là phá đổ và từ bỏ Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi một ai đó phân định được điều này, chẳng bao lâu người ấy sẽ bắt đầu biết phó thác vào bàn tay Thiên Chúa một cách tự do và đầy lòng yêu mến, cũng như để cho Ngài sắp xếp mọi sự theo cách Ngài chọn.

Quyết định cộng tác với Thiên Chúa hơn là chống lại Ngài xem ra cần phải cân nhắc. Vì lý do, người ấy cần giữ gìn sức lực thay vì phản kháng và chống cự, người ấy sẽ có thêm nhiều sức mạnh để thực hiện những việc Thiên Chúa đòi hỏi. Bên cạnh đó, đức tin đảm bảo cho người ấy rằng cuối cùng kết quả sẽ vượt xa mong đợi và rõ ràng là nó không chỉ liên quan đến người đó nhưng còn đến mọi người xung quanh. Điều này cho thấy ‘đó là việc Chúa làm, và thật là kỳ diệu trước mắt chúng ta!’ (Tv 126). Hơn nữa, mỗi kinh nghiệm tích cực đều đào sâu đức tin của người ấy và làm cho người ấy nhận ra Thiên Chúa đang làm việc trong mọi sự xảy ra trong cuộc đời mình.

Bước kế tiếp đó là khi người ấy có thể phân định hay suy đoán được những hành động của Thiên Chúa dành cho sự phản kháng rành rành của mình. Và khi người ấy có thể đưa ra một câu trả lời đúng, niềm vui của người ấy sẽ không có biên giới và sự cộng tác của người ấy sẽ quảng đại hơn. Đây là một sự diễn tả khác về chân lý ‘không phải tôi sống, nhưng chính Đức Ki-tô sống trong tôi’ (Gl 2,20). Hoặc ‘tôi có sức chịu đựng được hết, nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi’ (Pl 4,13). Thánh Phao-lô nhớ lại ngài đã học được bài học này như thế nào trong thời gian ngài kêu gọi ‘các học trò’ của ngài: ‘tôi đã học cho biết bằng lòng với mọi hoàn cảnh của tôi. Tôi học cho biết sống nghèo hèn, và học cho biết sống dư dật. Trong mọi hoàn cảnh và tình huống, no hay đói, dư dật hay thiếu thốn, tôi đã học được bí quyết sống như vậy.’ (Pl 4,11-12).

Cuộc đời sẽ hạnh phúc và bớt căng thẳng hơn biết bao nếu chúng ta cũng học được bài học này và sống những đòi hỏi ấy trong từng ngày sống của mình!

 

Ngày 6/10

“Chị thân mến, hãy chiến đấu chống lại những nỗi sợ hãi đang đe dọa chị, qua việc dâng hiến vào bàn tay nhân từ của Chúa Giê-su, vị Thầy nhân lành của chị.” [Gửi cho Soeur Camille du SS, tháng 8/1867]

Đây là điều thường xảy ra đối với những Ki-tô hữu tốt lành và thánh thiện khi trải qua thời kỳ sợ hãi ghê gớm trong từng giai đoạn của cuộc sống. Đôi lúc, nỗi sợ hãi này không có mục tiêu cụ thể nhưng thu hút sự chú ý của người ta vào một sự sợ hãi mơ hồ, vô danh về tất cả mọi sự. Những lúc khác, chẳng hạn như sự sợ hãi bị tống vào hỏa ngục vì những lỗi lầm trong quá khứ, hay nỗi sợ đánh mất ân sủng và tình thân hữu của Thiên Chúa. Nhiều lần, những nỗi sợ hãi này là kết quả của thiên hướng tự nhiên cũng như sự hạ thấp bản thân nơi con người. Tuy nhiên, bất kể là sức mạnh nào đi nữa, nỗi buồn mà người ta phải trải qua trong giai đoạn thử thách này có thể rất khốc liệt và xao động. Và còn gì hơn nữa, không quan trọng là người ta được nói hay cố gắng bằng một phương thuốc, sự vơi đi cũng như một sự tăng sức cho đức tin dường như là quá xa vời trong tương lai!

Đối với người con linh hướng này, cha Eymard đề nghị rằng bà nên đặt mình vào bàn tay của Đức Giê-su nhân từ và điều đó nghe có vẻ hợp lý. Vì sau hết, Đức Giê-su đã được Chúa Cha sai đến vì những tội nhân là những kẻ cần đến lòng từ bi của Ngài. Trong tất cả các Tin Mừng, chúng ta thấy rằng Đức Giê-su quả thực là gần gũi với các tội nhân, những người thu thuế và những người bên lề xã hội. Qua những hành động, Ngài chứng tỏ rằng Thiên Chúa không nổi giận với họ, cụ thể là khi họ thực sự ước muốn trở về đường lối của Thiên Chúa. Và Ngài đã cùng ăn với họ một cách tự do vào mỗi dịp có thể. Trong bối cảnh của người Do Thái, việc dùng bữa với một ai đó có nghĩa là bày tỏ sự hiệp nhất với họ, bước vào mối tương quan đặc biệt với người ấy. Vì thế, qua việc dùng bữa với những người bị xem là tội nhân, Đức Giê-su tỏ ra rằng Thiên Chúa, thay vì ở rất xa, thì lại rất gần gũi với họ.

Điều này thường khích lệ tội nhân thay đổi và đôi lúc là rất lãng mạn, như trường hợp của Da-kêu. Và những người đã hoán cải qua việc đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su đều trở nên những môn đệ trung thành và những thành viên tích cực cho vương quốc của Ngài. Thực tế, không ai có thể nói một cách chân thực rằng họ không phải là một tội nhân. Tất cả chúng ta đều là tội nhân và với bản chất mỏng giòn, chúng ta sẽ luôn mãi là tội nhân. Thế nhưng câu hỏi quan trọng được suy nghĩ là: Thiên Chúa nhìn tội nhân như thế nào? Trong suốt thời Cựu Ước, thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân là thái độ của một người cha yêu thương dành cho đứa con bất lực, và luôn thay đổi về trí lực cũng như sức lực! Tội lỗi được xem là phát xuất từ Sự Dữ chứ không phải phát xuất từ sự xấu xa của tội nhân. Thiên Chúa được xem là biết rõ mọi sự, tội nhân không thể tự giúp mình được và nếu rời xa những nguồn mạch của chính mình, thì người ấy chỉ đi từ tình trạng tệ hại đến tệ hại hơn và cuối cùng kết thúc ở việc hủy hoại chính mình.

Vì lý do này, Thiên Chúa đã sai Con Mình sinh bởi một người đàn bà, sống dưới lề luật để bất cứ ai tin vào (trao phó tình trạng tội lỗi của mình vào) Người thì có sự sống đời đời (Gl 4,4). Nếu người nào đầy sợ hãi bị ép buộc phải chấp nhận chân lý này, thì có lẽ là nhờ vào những mẫu gương trong Kinh Thánh, nỗi sợ hãi của họ có thể lắng dịu. Thế nhưng, dường như vấn đề sẽ kéo dài và vì thế người ta phải được trợ giúp để bám vào Đức Giê-su như nguồn nghỉ yên duy nhất “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Rm 7,24-25).

 

Ngày 7/10

“Đừng để cho cái chết này (của sơ Camille) ảnh hưởng quá nhiều đến con, vì đó là cái chết của Người Công chính; chị ấy đã về Trời để tiếp tục việc tôn thờ dưới trần thế. Chị đã gánh chịu một sự đau khổ cùng cực. Giờ đây đã được hoàn tất, đây là thời điểm vui sướng của chị. Sự sống chính là hạt giống của vinh quang trên Nước Trời.” [Gửi cho bà Ba-lanh Cha-nu-ê, tháng 8/1867]

Những quan điểm và thái độ của một người nào đó về cái chết như ‘thời khắc của sự thật’ có lẽ là quan trọng nhất trong cuộc đời. Thường thì, chính sự khẳng định về cái chết này tô điểm cho toàn bộ cuộc đời và hoạt động của người ta. Nếu cái chết được xem như một biến cố sợ hãi, không chắc chắn về những kết quả, thì con người sẽ sống trong sợ hãi suốt cả cuộc đời, hay sẽ bám chặt vào những hoạt động vốn đảm bảo cho một kết cục an toàn. Đây chính là lý do cho thấy một cuộc sống như vậy sẽ không phải là ‘hoa trái’ cho việc loan báo vương quốc tình yêu của TC vì người ta bận tâm quá nhiều đến bản thân mình.

Mặt khác, khi một ai đó tin rằng chết là một cuộc trở về nhà, một sự trở về nhà Cha, nơi mà người ta sẽ cảm nghiệm được tình yêu và sự săn sóc đến mức tốt nhất của Ngài, bấy giờ cuộc đời sẽ trở thành một sự chuẩn bị hớn hở và vui mừng cho biến cố trọng đại và hân hoan này! Đặc biệt, mỗi sự cố, dù không mong muốn và đầy đau khổ, sẽ được xem như một cơ hội để người ta ‘nới rộng khả năng yêu thương của mình’. Khi đã nỗ lực hết mình để mở rộng và đào sâu khả năng bẩm sinh của mình đối với tình yêu, bấy giờ người ta có thể chờ đợi giây phút rã từ cõi đời với một niềm hớn hở to lớn, mong chờ lắng nghe những lời của Cha ‘Nào, những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.’ (Mt 25:34-36).

Tuy nhiên, khi tương quan với Thiên Chúa, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng chúng ta không bao giờ có quyền đòi hỏi bất cứ thứ gì từ nơi Ngài như thể đó là quyền thuộc về chúng ta; bất cứ điều gì đến từ Thiên Chúa thì luôn luôn là một ân huệ tuyệt đối, được ban tặng bằng tình yêu. Cuối cùng là chính tình yêu này của Chúa Cha, hoàn toàn không cân xứng và không đòi công phúc, đảm bảo cho chúng ta một sự thân mật sâu xa với Ngài trên Nước Trời! Thế nhưng phần tốt nhất của sự thật đó là Thiên Chúa ước muốn sự thân mật sâu sắc nhất cho tất cả những thụ tạo của Ngài và sẽ làm mọi sự trong quyền năng của Ngài để ban phát cho chúng. Vì vậy, nếu một ai đó không khinh miệt và lẩn tránh ân huệ này, thì sẽ có một niềm hy vọng rằng đó sẽ trở thành những ân huệ của họ, dù to lớn hay nhỏ bé. Trong trường hợp được đề cập đến ở trên, sơ Camille dường như đã được thanh tẩy qua nhiều đau khổ vì thế có lý do để tin rằng sơ sẽ giành được một phần thưởng đang chờ đợi sơ trên trời, đó là ở gần với Đấng tình quân yêu dấu của mình!

Thực sự, cuộc đời là một hạt giống của vinh quang trên Trời; thế nhưng vinh quang ấy đã bắt đầu ngay tại dương thế này rồi. Vinh quang ấy biểu hiện dưới hình thức của một sự tin cậy nội tâm sâu sắc vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta dù chúng ta có tội lỗi, một sự bình tĩnh trên cả mong đợi, một sự sẵn sàng chia sẻ những ơn phúc của mình với người khác đang cần đến, việc ngày càng ít bận tâm hơn về chính mình cũng như ơn cứu độ đời đời của mình, một sự vắng bóng hoàn toàn nỗi sợ hãi và lo lắng đặc biệt khi suy nghĩ về kết cục của cuộc đời. Lời đề nghị của cha Eymard đó là: khi một ai đó quay lưng lại với Chúa, đừng lo lắng về định mệnh của người ấy. Tình yêu, tình yêu vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta sẽ bao trùm và đem đến tất cả những gì cần thiết cho sự an toàn và thoải mái của người ấy. Đừng sợ!

 

Ngày 8/10

Cha Eymard liệt kê ra những nguyên tắc quan trọng: “Sự trung tín trong việc chu toàn luật sống của người ta là nhân đức hàng đầu, chúng ta phải luôn trở lại với sự trung tín này! Một lịch trình là một đòi hỏi của sức khỏe.” [Gửi cho bà Na-ta-ly Gióc đan, tháng 8/1867]

Trong lời đề nghị này, cha Eymard trở lại với một lời khuyên rất thực tế. Bản chất của con người là một sự trợ giúp và sự chuẩn bị cho một kế hoạch hoặc một lịch trình để thời giờ của chúng ta có thể được tổ chức một cách hiệu quả. Kế hoạch này được vạch ra cho chúng ta dựa trên một nền tảng căn bản, qua Luật Sống chúng ta chọn lựa để nuôi dưỡng bản thân mình (trong bối cảnh của một hội dòng hay một tổ chức khác). Thế nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lên một lịch trình cụ thể để kế hoạch căn bản này được thực hiện một cách có phương pháp trên một nền tảng ngày qua ngày, vì thế nó sẽ càng trở nên sinh động hơn.

Ngày nay, những người có học đề nghị rằng lịch trình hằng ngày không nên chỉ bao gồm một “danh sách phải làm” trong đó chúng ta ghi nhận tất cả những công việc cần làm trong một ngày. Lý do là không phải mọi thứ chúng ta cần làm đều ‘cấp bách và quan trọng’, phản ảnh và phù hợp với phương hướng căn bản trong cuộc đời chúng ta. Những công việc này có thể cấp bách, nhưng không thực sự ‘quan trọng’. Một ví dụ cụ thể: Trả lời một cuộc điện thoại đang reo chắc chắn là cấp bách, nhưng không quan trọng, người khác cũng có thể trả lời được! Thế nhưng, nếu tôi là một giáo viên, thì điều quan trọng (mặc dù không cấp bách) đối với tôi đó là đào sâu kiến thức liên quan đến môn học mà tôi dạy thông qua việc đọc sách thường xuyên, chuẩn bị phương pháp lên lớp của mình, những thảo luận tri thức với người khác về cùng một lãnh vực,… Những hoạt động quan trọng này cũng cần phải được liệt kê vào lịch trình hằng ngày của chúng ta.

Vì thế, điều người ta cần làm đó là lên một kế hoạch căn bản hàng tuần để đảm bảo rằng mọi khía cạnh quan trọng trong quan điểm và sứ vụ đối với cuộc sống chúng ta được bao trùm theo cách đó để cuộc sống chúng ta thăng tiến. Vì thế, một lịch trình hiệu quả là một đòi hỏi đối với sức khỏe không chỉ ở mức độ thể lý, nhưng còn ở mọi mức độ của một đời sống hiệu quả cao. Hơi khác lạ là, chúng ta có thể nói rằng kỷ luật trong đời sống của con người là một điều bắt buộc và kỷ luật của bản thân được biểu hiện theo cách chúng ta chú ý đến tất cả mọi khía cạnh quan trọng của mục tiêu đã được chọn lựa trong cuộc sống.

Một trong những khía cạnh quan trọng trong đời sống con người chính là phẩm chất của những mối tương quan mà người ta gìn giữ, cụ thể là với những người quan trọng. Dĩ nhiên, những người này bao gồm: gia đình của mình, cộng đoàn, bạn đồng nghiệp và nhiều người khác. Nhưng bên cạnh đó, những người này cũng cần chọn lựa những người khác có những ý tưởng cao siêu trong cuộc sống và những người mà bản thân họ có kỷ luật cũng như hiệu quả và những người bạn đồng hành của họ sẽ linh hứng cho chúng ta để nhắm đến mục đích cao trong cuộc sống. Những người này có thể là những người cùng trang lứa, những người nổi tiếng sống trong thời đại của chúng ta, hay thậm chí là những người nam và nữ nổi tiếng trong quá khứ không kể những vị thánh và những con người thánh thiện, mà chúng ta đọc ra nơi cuộc đời họ một cách sống phù hợp.

Nói tóm lại, nếu một ai đó ao ước sống một cuộc sống có mục đích, hơn là đợi chờ mọi sự xảy ra rồi sau đó mới chú ý đến chúng, thì người ấy nên làm cho mọi thứ diễn ra theo kế hoạch mà mình đã chọn lựa cho chính mình trong việc giữ gìn những mục tiêu và tham vọng của con người.

 

Ngày 9/10

Hãy để sự trung tín của con chứa đựng trước hết trong việc hoàn thành tốt những thực hành bên ngoài trong luật sống của con, điều đó có nghĩa là hoàn thành chúng đúng lúc và đúng chỗ… đó là những gì đức hy sinh cần có.” [Gửi cho bà Na-ta-ly Gióc đan, tháng 8/1867]

Bây giờ khi đề cập đến việc hoàn thành thời khóa biểu của một người, cha Eymard đề nghị chúng ta hãy bắt đầu với mức độ bên ngoài, với những thực hành được thực hiện vào những thời điểm và nơi chốn cụ thể. Vì thế, chúng ta phải có lịch trình hằng ngày về những công việc: cầu nguyện, làm việc, học hành, đời sống cộng đoàn, hoạt động tông đồ,… Những điều này sẽ hình thành nên khung thời khóa biểu của chúng ta. Thế nhưng trên hết, mỗi người phải quyết định một “kế hoạch” cho riêng mình, qua đó họ quyết định xem loại người nào mà họ muốn trở thành.

Vì thế nếu tôi chọn lựa trở thành loại người biết yêu thương, biết hy sinh bản thân mình, thì tôi sẽ cần phải thực hiện những hoạt động (cư xử, đọc sách, liên kết với những người cùng chí hướng khác,…) vốn đem đến một khuôn mẫu đối chiếu của tình yêu và sự hy sinh! Khi chọn lựa tình yêu như nguyên tắc hướng dẫn cho cuộc đời mình, tôi không thể liên kết với những con người không biết yêu thương, ích kỷ vì bầu khí này sẽ làm lu mờ việc nhận ra sứ mạng của tôi trong cuộc đời. Càng liệt kê sứ vụ này rõ ràng bao nhiêu, thì lại càng dễ dàng lên lịch trình làm việc bấy nhiêu. Kế hoạch nói cho chúng ta biết những gì chúng ta cần làm và những gì cần tránh, không cấp bách cũng như không quan trọng. Vì vậy, người nào biết chọn lựa để tạo nên một sự khác biệt tích cực trong cuộc đời của người khác thì chắc chắn không thể nào dành hết thời gian trước TV để xem hết chương trình này đến chương trình khác. Điều đó có thể là quá nương chiều theo một cách nào đó, thế nhưng nếu nó được thiết lập thành một nền tảng thì điều đó sẽ đưa đến một lối sống phóng đáng và không có mục đích.

Tuy nhiên, trong lời đề nghị của cha Eymard, câu hỏi được đặt ra liên quan đến chương trình làm việc hằng ngày của chúng ta. Nơi đâu chương trình ấy được chọn lựa một cách khôn ngoan, nó sẽ không chỉ bao gồm các hoạt động về tâm linh, chẳng hạn như: cầu nguyện, đọc sách thiêng liêng, suy niệm,… nhưng còn thời giờ dành cho các bài tập thể dục, các tương quan xã hội với những người khác, dành thời giờ quý báu cho các thành viên trong gia đình hay cộng đoàn mình, những giờ phút thinh lặng và rút lui khỏi những hoạt động, thực sự nghỉ ngơi và giải trí, thỉnh thoảng dành thời giờ để học những kỹ năng mới, hoạt động sáng tạo và nghệ thuật theo khả năng và sở thích của mình. Một người mà chỉ lao đầu vào tất cả các hoạt động, ít nhất là trong một tuần, chắc chắn sẽ có một cuộc sống chất lượng vốn không thường xuyên bắt gặp được nơi nhiều người.

Một trong những khó khăn gặp phải trong vấn đề này chính là duy trì sự kiên định và kỷ luật. Rõ ràng là có vô số những ngáng trở ngăn cản chúng ta trung thành với lịch trình này. Bên cạnh nỗi đau tự nhiên và những gian truân phát sinh ra trong lịch trình này, cũng có những yếu tố không lường trước được xảy ra từ thời điểm này đến thời điểm khác. Vì thế, một sự uyển chuyển cũng phải được đưa vào lịch trình này để giải quyết những vấn đề khẩn cấp. Trong mọi sự, nếu người ta nghiêm túc về loại người mà người ta muốn trở thành, thì việc tuân thủ lịch trình đã chọn lựa không phải là một vấn đề lớn! Nó sẽ diễn ra một cách tự nhiên và bền vững trong suốt cuộc đời người ấy, bắt nguồn từ bên trong chứ không phải bị ép buộc hay được trù định trước.

 

Ngày 10/10

“Hãy dâng sự thành công về đường thiêng liêng cho Thiên Chúa cũng như những cảm giác về ân sủng đã nhận được. Con buộc phải gieo, trồng và tưới… Thiên Chúa đang đòi hỏi con dâng sự cẩn trọng của mình; thành công tùy thuộc nơi Ngài.” [Gửi cho bà Nataly Jordan, tháng 8/1867]

Khi người ta sống đời sống thiêng liêng, khát vọng muốn kiểm tra và xem thử mình đã đến gần Thiên Chúa như thế nào thường nảy ra sau nhiều lần. Điều này quả thực đúng khi người ta tiếp cận đời sống thiêng liêng dưới khía cạnh thủ đắc những nhân đức. Những nhân đức này được liệt kê và đòi hỏi phải được tiến hành từng bước qua sự nỗ lực và việc kiên trì thực hành về đường thiêng liêng. Đây đã từng là cách tiếp cận trong nhiều thế kỷ nếu người ta làm theo phương pháp do chính các môn đệ của thánh Inhaxio Loyola phổ biến. Về mặt phương pháp, không nghi ngờ gì, có vô số nỗ lực được ý chí chi phối và do đó có nhiều phạm vi cho Cái Tôi hoạt động một cách tự do và rộng mở. Tuy nhiên, thật đáng lưu ý rằng cha Eymard, Vị Linh hướng thiêng liêng tốt lành và nhiệt thành, có thể phân định rằng trong đời sống thiêng liêng, chính công việc của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta mới thực sự là vấn đề. Vì thế, cha khuyên rằng người được linh hướng hãy dâng tất cả những thành công cũng như những cấp độ của những thành công ấy cho chính Chúa nhân lành.

Ngày nay, với một cách tiếp cận về đường thiêng liêng mang đậm chất Kinh Thánh và phụng vụ hơn, người ta được mời gọi chiêm ngắm những phẩm chất tuyệt vời mà người ta phân định được nơi chính Đức Giê-su và có lẽ là nơi những vị đại thánh đã dâng những phẩm chất ấy cho Thiên Chúa, để trau dồi những nhân đức ấy nơi chúng ta cũng như khi người ấy thấy là thích hợp. Vì thế, vấn đề về những phẩm chất cũng như người ta thủ đắc được những gì tự động được đặt ra cho chính Thiên Chúa. Công việc của ứng viên chỉ là làm những điều căn bản, điều đó có nghĩa là gạt bỏ tất cả những ngáng trở hữu hình cũng như tập trung vào sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa hơn là vào những nỗ lực và kỹ năng của bản thân. Trong công việc khó khăn này, chính Thiên Chúa là Đấng dẫn dắt và Ngài chỉ ra những gì cần phải chú ý qua đường lối không thể bắt chước được của Ngài, những gì cần loại bỏ đi nhất, những gì được trồng vào vị trí đó,… Và điều này thường theo những bài đọc trong Thánh Lễ theo ngày hay một ơn linh hứng nhận được qua việc cầu nguyện, hay có thể là tấm gương của một ai đó cuốn hút chúng ta,…

Cách tiếp cận ở đây thì tự do và dễ dàng hơn, theo sự dẫn dắt của Chúa hơn là cách thế mà người ta đặt ra cho chính mình cũng như làm theo sự tự chủ nghiêm khắc và tự phạt mình vì những lỗi lầm gây ra. Mục tiêu trong cách tiếp cận này là chính Thiên Chúa chứ không phải Cái Tôi, và do đó tiến trình sẽ chín mùi và bền vững hơn, với kẻ thù không đội trời chung này, Cái Tôi dần dần bị loại bỏ bớt nhờ sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa hơn là bằng bất kỳ sự chọn lựa do chính người ấy thực hiện. Trong mọi vấn đề, tiêu chuẩn theo Tin Mừng vẫn giữ được vị trí cao quý, “Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm". bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?" Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-40).

 

Ngày 11/10

Trong việc cầu nguyện, hãy khao khát sao cho được Chúa nuôi dưỡng hơn là làm cho mình được trở nên trong sạch, hay tự khiêm tự hạ… hãy nuôi dưỡng linh hồn con bằng chân lý thể hiện nơi sự thánh thiện của Thiên Chúa hướng về con, cùng với sự mỏng dòn của tình yêu mà Ngài đã dành cho chúng ta! Ta có thể làm gì cho con?.. Đó chính là ngọn lửa phát ra từ lò sưởi”. [Gửi cho bà Natalie Jordan, 8/1867]

Đây là phần tiếp theo của lời khuyên đã được đề cập đến trong bài suy niệm trước và không lấy gì làm ngạc nhiên khi lời văn cũng tương tự như vậy. Chúng ta tán thành với những gì đã được nói đến trong bài suy niệm trước và chỉ tập trung vào thái độ then chốt của người đang tìm kiếm sự kết hiệp với Thiên Chúa. Có lẽ hình ảnh tiêu biểu nhất trong Tin Mừng chính là hình ảnh cô Maria làng Bê-ta-ni-a ngồi bên chân Chúa: ‘Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì bận rộn lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Ngài, em con để con phục vụ một mình, mà Ngài không lưu ý sao? Xin Ngài bảo nó giúp con một tay!” Nhưng Chúa trả lời cô: “Mác-ta, Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,39-42)

Trong bức tranh này, chúng ta thấy Maria đã ngồi (vị trí và tư thế của một người môn đệ) dưới chân Đức Giê-su chỉ để lắng nghe Người. Cô để Người nói hết, nhưng lại đối đáp một cách rất khôn ngoan những điều Người nói. Đức Giê-su dẫn dắt, còn cô thì sẵn sàng bước theo. Nếu chúng ta ở đó, chúng ta sẽ chú ý đến sự say mê lắng nghe của cô. Cô đã kín múc không chỉ lời, mà còn cả con người của Đức Giê-su. Cô đã làm cho Người thấy rằng Người chính là trung tâm đời sống của cô và cô thuộc trọn về Người. Cô không mấy quan tâm đến sự phù hợp về tư thế hay cử chỉ của mình, hoặc thậm chí đến những lời mà cô đã nói. Phải chăng cô đã không hiện diện ở đó như viên đất sét trong tay người thợ gốm, sẵn sàng bị nhào nặn theo kế hoạch và ý muốn của ông chủ? Không cần phải nói, chính Đức Giê-su đã thực sự hài lòng về nỗ lực của cô và hơn nữa là về sự gần gũi của cô.

Trái lại, Mác-ta thì quá bận rộn với những kế hoạch và ước vọng của bản thân. Dù được khởi đi từ tình yêu, nhưng những kế hoạch và ước vọng ấy lại bắt nguồn từ chính bản thân cô hơn là từ Đức Giê-su. Cô đã không hỏi thăm Người, dù chỉ một lần: “Ngài muốn con làm gì cho Ngài, lạy Chúa?!”. Cô biết những gì cô muốn làm và vui thích với công việc mình làm. Vào cuối buổi tối khi cô đã tiếp đãi Đức Giê-su, thì những nhận định của cô có lẽ sẽ giống như thế này ‘tất cả những gì tôi làm đều diễn ra một cách tốt đẹp, mà không gặp một cản trở nào!’ và khi ấy cô sẽ tạo được nhiều uy tín cho chính mình. Thậm chí sẽ không thể tránh được trường hợp là cô sẽ đi dò hỏi và xem xem vị khách Giê-su có thực sự vui thích khi ở với những người bạn của mình hay không!

Và điều làm lộ ra thái độ tự mãn của cô chính là sự kiện cô đã không bằng lòng với người em gái Maria khi cô này cứ ở bên vị thượng khách thay vì phải giúp chị mình chuẩn bị bữa ăn. Thậm chí Mác-ta còn than phiền với Đức Giê-su để nài xin và khiến Người bắt Maria phải giúp đỡ cô! Chỉ khi biết chiêm ngắm hình ảnh này với sự bình thản và lòng quảng đại thì người ta mới có thể nhận ra đâu là những phẩm chất mà mình cần phải có, dù cho Đức Giê-su đã không đề cập đến bất cứ phẩm chất nào. Bấy giờ, nếu người ta biết đặt phẩm chất ấy vào bàn tay của Thần Khí đồng thời biết dâng bản thân mình vào tay Người, thì Người sẽ lo liệu mọi sự một cách hiệu quả hơn so với những gì chúng ta có thể tự mình làm lấy.

 

Ngày 12/10

“…Để cầu nguyện sốt sắng, chúng ta cần phải cố gắng rất nhiều để quên mình đi, không tìm kiếm chính mình dù dưới bất cứ hình thức nào trong khi cầu nguyện. Đặc biệt, chúng ta cần phải đơn giản hóa lý trí của chúng ta bằng một cái nhìn đơn sơ và bình thản trước những chân lý của Thiên Chúa” [Gửi cho bà Natalie Jordan, 8/1867].

Tiếp theo lời khuyên nhủ, cha Eymard tập trung vào vấn đề then chốt: Bản ngã. Bất kể những nỗ lực chúng ta làm khi cầu nguyện là gì đi nữa, thì mục đích của chúng đều mang nghĩa tiêu cực, tức là chúng ta chỉ tìm cách đánh mất Bản Ngã và không nhấn mạnh đến nó để bỏ đi tính tự chủ nhỏ nhoi trong mọi tình huống mà chính chúng ta gặp phải và để ý đến những gì Thiên Chúa muốn chúng ta làm! Ngày nay, việc thay đổi thói quen ấy không dễ dàng chút nào. Vì tiên vàn, mọi người đều ý thức về cái tôi của mình. Trước nỗi lo sợ về việc đánh mất chính mình đặc biệt là trong bàn tay của Thiên Chúa nên họ không biết rằng toàn bộ việc cầu nguyện của mình đã quy hướng về cái Bản Ngã! Cần phải có một ai đó ngoài cuộc chỉ ra cho họ thấy, và thậm chí khi ấy sẽ phải tốn nhiều thời gian để thuyết phục họ nhận ra rằng lối cầu nguyện bằng cách từ bỏ chính mình sẽ hiệu quả hơn lối cầu nguyện chỉ biết qui hướng về chính mình.

Kế đến, những kết quả thường thấy của việc thăng tiến trong khi cầu nguyện là nếu việc cầu nguyện của chúng ta thăng tiến, cụ thể là trong những giai đoạn đầu, thì việc cầu nguyện ấy sẽ ngày càng trở nên đơn giản và thống nhất: Vì một lẽ đơn giản là, biết bao lời nói của chúng ta khi cầu nguyện sẽ trở nên vô ích vì chúng ta sớm nhận ra rằng những lời nói của chúng ta hoàn toàn không cần thiết và dư thừa. Thiên Chúa biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta cầu xin! Bên cạnh đó, chính Ngài là người khởi xướng trong mọi sự và Ngài hiểu rõ toàn bộ kế hoạch, còn chúng ta chỉ đóng vai phụ mà thôi. Vậy chẳng lẽ chúng ta thực sự không làm đảo lộn mọi chương trình vì việc nhúng tay của chúng ta sao? Lại nữa, khi chúng ta thực sự cảm nếm được hương vị tình yêu của Ngài, chúng ta nhận ra rằng không có gì chúng ta có thể hay thậm chí cần phải làm. Tất cả những gì Ngài nói với chúng ta là hãy để Ngài làm việc trên cuộc đời chúng ta một cách tự do và không đứt quãng. Phúc cho những ai hiểu được điều này và đem ra thực hành ngay trong việc cầu nguyện của mình.

Điều chúng ta cần để đào luyện mình khi cầu nguyện chính là bước đi trong niềm tin và tình yêu. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải miễn cưỡng để chu toàn bổn phận của mình. Lẽ dĩ nhiên là Đức Giê-su muốn chúng ta làm như vậy, nhưng mục tiêu của chúng ta là để Ngài nói cho chúng ta biết điều gì và khi nào, cũng như về sự can thiệp của chúng ta như thế nào. Khi biết làm theo như vậy, chúng ta có thể đoan chắc rằng việc cầu nguyện của chúng ta sẽ sinh động và đạt được mục tiêu là từ bỏ được cái Bản Ngã nơi mình, cũng như được đổ tràn sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng ngay trong việc từ bỏ Bản Ngã, thì những nỗ lực của bản thân chỉ chiếm một phần nhỏ bằng không thì chính chúng ta sẽ tự mãn về điều đó, nghĩa là chúng ta phải giải thoát mình khỏi cái Bản Ngã. Thử thách thực sự nằm ở chỗ: khi Bản Ngã bị loại trừ, chúng ta sẽ không thể nhận thức được nếu công việc đó là do chính Thiên Chúa làm. Nếu chúng ta đạt được mọi thứ bằng chính những nỗ lực của mình, thì chúng ta sẽ hả hê trong chiến thắng. Tất nhiên, chúng ta sẽ dâng điều đó cho Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng tôn vinh cả chính mình nữa.

Người khiêm nhường thực sự thì không nhận mình là khiêm nhường, nhưng chỉ nhìn thấy những lỗi lầm và thất bại hiện ra trước mắt mình. Chỉ mình Chúa mới là Đấng làm nên sự tiến bộ và chuẩn bị phần thưởng để trao tặng ở đích đến của cuộc hành trình!

 

Ngày 13/10

“Bí mật của cái nhìn đơn sơ ấy chính là việc liếc nhìn mọi sự dưới khía cạnh lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho chúng ta, lý do của ân sủng này, điều gì đã khiến Đức Giê-su phải trả giá, về thực tại và về sự vĩnh cửu dành cho chúng ta” [Gửi cho bà Natalie Jordan, 8/1867].

Cách đơn giản mà con người vẫn thường làm đó là: liếc nhìn những gì xảy ra trước mắt, và đây chính là điều mà bản thân con người có thể cảm nhận được. Thế nhưng, Thiên Chúa lại cân nhắc chúng ta rằng: “Đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu” (Is 55,5-7). Điều này đơn giản có ý nói rằng: chúng ta cần phải nhìn lại để có thể hiểu được sự sắp đặt của Thiên Chúa trong những việc làm cụ thể. Chúng ta thường quy gán điều này như “sự quan tâm” để nhìn lại, để nhận ra ý nghĩa sâu sa hơn. Nó được xem như “cái nhìn đức tin” của thực tại. Ngày nay, những ai ao ước ở gần Thiên Chúa, thì tự đào luyện mình để biến cái nhìn “đầy kính trọng” thành cái nhìn thoáng qua hay cái nhìn thông thường khi quan sát sự vật. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho và nó sẽ trở thành kết quả của việc ký kết giao ước với Thiên Chúa. Ngoài ra nó cũng cần thiết cho việc thực hành nhất quán và việc bắt chước thường xuyên nếu như nó trở thành một phần của đời sống chúng ta.

Khi chúng ta đã quen với cách thức này, thì chúng ta có thể nhìn mọi sự như thể là từ góc độ cái nhìn của Thiên Chúa: Ý định của Người làm cho các biến cố cụ thể xảy ra trong cuộc đời chúng ta, tình yêu bao la đã khiến Người ban cho chúng ta trong trường hợp đó. Mặc dù điều đó có thể xảy ra trước mắt, nhưng quả thực đó chính là sự diễn tả về tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta… Với nền tảng này, nếu con người biết cộng tác với Thiên Chúa thì những kết quả sẽ rất kỳ diệu. Khi ấy con người có thể tiến xa hơn và thủ đắc cho mình những suy nghĩ chín chắn khác, chẳng hạn như: toàn bộ đời sống tâm linh của chúng ta có giá trị nơi Đức Giê-su, sự đau khổ và cái chết trên thập giá, mỗi một sự biểu lộ của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta đều làm cho bản giao ước ngày thêm bền chặt, cũng như những phản ứng của chúng ta sẽ ngày càng vững mạnh và đầy tình thương.

Những người Do Thái đã biết phát huy con đường kỳ diệu này trong việc đón nhận và đáp trả tình yêu của Thiên Chúa qua những hành vi hằng ngày của họ. Họ quá rõ tình yêu của Chúa đến nỗi họ không cần phải chờ đợi để chứng kiến những lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện rồi mới tán dương và tạ ơn Ngài. Khi lời tiên tri được phán ra, thì họ đón nhận nó như thể nó đã được ứng nghiệm và họ bắt đầu vui mừng, tạ ơn và tôn vinh. Vì thế, bà Anna đã vui mừng khi ông Ê-li cho bà biết: bà sẽ trở lại đền thờ vào năm sau để tạ ơn Chúa vì bà đã sinh được một đứa con trai. Thật không may, đời sống tâm linh của chúng ta ngày nay lại không đưa chúng ta tiến xa hơn; chúng ta vẫn còn muốn nhìn, sờ, và cảm thấy được trước khi tin rằng Thiên Chúa hằng ở với chúng ta, tất cả những gì Người định cho chúng ta thì quả thực đều là tốt đối với chúng ta. Nếu chúng ta chỉ còn biết tin tưởng vào lời của Chúa, thì cuộc đời chúng ta sẽ chẳng khác sao! “Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng” (Gr 29,11). Ngày nay, có lẽ chúng ta chỉ cần giữ một lời hứa duy nhất của Chúa ở trong tâm trí và mau mắn đáp trả những gì mà Người định cho chúng ta.

Như thế chúng ta sẽ ngày càng củng cố đức tin của chúng ta và mới có dịp thể hiện đức tin ấy trong những trường hợp cụ thể, đặc biệt là khi mọi thứ dường như đi chệch hướng. Thậm chí, chúng ta còn có thể vui mừng trong những nghịch cảnh vì chúng ta tin rằng “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ” (Tv 34,18).

 

Ngày 14/10

“Khi tâm hồn có được niềm vui vì khám phá ra khía cạnh tốt đẹp, thì việc cầu nguyện sẽ ngày càng trở nên như một sự chiêm niệm thâm sâu, và thời gian sẽ trôi qua mau.” [Gửi cho bà Natalie Jordan, 8/1867]

Khi chúng ta bắt đầu nhận ra kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa trong mỗi biến cố của cuộc đời chúng ta, chúng ta nhận thấy rằng việc cầu nguyện của chúng ta sẽ tiến thêm một bước cao hơn. Chúng ta không còn cần phải kể ra tất cả những ơn lành mà chúng ta đang cần đến. Theo bản năng, chúng ta nhận ra là Chúa Cha biết rõ tất cả những gì chúng ta cần và Người sẽ ban cho ta trước khi ta cầu xin Người. Và có khi lại còn vượt xa hơn những gì chúng ta hằng mong đợi! Đó là vì Người thật nhân lành và yêu thương chúng ta vô bờ bến, hơn cả những gì chúng ta có thể thấu hiểu. Và đây chính là niềm cậy tin vững chắc của chúng ta.

Vì thế, tất cả những gì chúng ta cần làm khi cầu nguyện chính là nhìn chăm chú một cách trìu mến vào những điều mà Thiên Chúa làm cho chúng ta, kinh ngạc về sự chân thật nơi kế hoạch của Người và sự mãnh liệt trong tình yêu của Người. ‘Cái nhìn thoáng qua đầy yêu thương’ này vốn tô điểm thêm cho lời cầu nguyện của chúng ta mà không cần phải diễn tả bằng lời hay bằng những ước nguyện, có lẽ là cách thức cầu nguyện hay nhất bởi lẽ chính Thiên Chúa tự ý làm tất cả những gì Người muốn trong cuộc đời chúng ta. Bên cạnh đó, nó bảo đảm rằng chúng ta sẽ vâng theo tất cả những gì mà Thiên Chúa khởi sự vì chúng ta tin rằng Người luôn ở bên chúng ta và làm những điều tốt cho chúng ta. Sẽ không có những phiền toái nào có thể làm lay chuyển chúng ta và làm cho niềm tin của chúng ta chao đảo như ngọn sóng; hơn thế, càng nhiều phiền toái thì chúng ta càng biết cách đối phó tốt hơn bởi vì giờ đây chúng ta tự nhiên nhận ra hình ảnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua nơi chính cuộc đời mình: Khi Thiên Chúa ao ước kéo chúng ta lên, Người luôn bắt đầu bằng việc mời gọi chúng ta để cho Người lôi kéo chúng ta ra khỏi chiều hướng đối nghịch. Khi chúng ta biết chấp nhận điều này mà không gặp bất kỳ ngăn trở nào, thì Người sẽ tiến hành một cách nhanh chóng hơn và sẽ thực hiện những điều lớn lao hơn trong cuộc đời chúng ta.

Một ví dụ điển hình trong Cựu Ước chính là việc Thiên Chúa đã làm với Gít-ôn khi Người chọn ông làm người lãnh đạo Israel chống lại kẻ thù của họ trong những ngày đầu đặt chân lên miền đất hứa. Gít-ôn đã phải mất một khoảng thời gian dài để đón nhận ý Chúa khi nhớ lại cuộc thử thách mà ông đã đặt ra cho Chúa liên quan đến bộ lông cừu. Sau tất cả những sự việc đó, cuối cùng thì Thiên Chúa đã đặt ông làm thủ lãnh để sẵn sàng chiến đấu. Ông đã đi cùng với hơn 32 ngàn kỵ binh, một con số lớn nhất mà ông có thể qui tụ được, để có thể giành thắng lợi. Thế nhưng, Thiên Chúa lại đòi buộc ông phải giảm bớt số lượng đó vì nó quá nhiều. Ông đã rút xuống còn 3000 nhưng Thiên Chúa vẫn thấy đó là còn quá nhiều. Cuối cùng, ông đã rút bớt xuống còn 300 và với một con số nhỏ không đáng kể này, thì Gít-ôn đã có thể đánh bại được kẻ thù bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng chiến đấu cùng với họ.

Chúng ta lại chẳng kinh nghiệm về những điều kỳ diệu tương tự diễn ra trong cuộc đời chúng ta khi việc cầu nguyện làm cho chúng ta vững tin vào hành động của Thiên Chúa dành cho chúng ta sao? Khi chúng ta khởi đầu ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện theo cách này, chắc chắn nó sẽ chi phối mọi công việc mà chúng ta làm trong ngày. Mỗi một thắng lợi nho nhỏ, hay mỗi hướng đi mới mà Thiên Chúa chọn lựa, sẽ góp phần đào sâu thêm niềm tin của chúng ta và làm cho chúng ta kinh ngạc về những hướng đi và phương tiện mà Người đã có sẵn trong tay để trao lại cho những đứa con yêu quí của Người. Vì thế, việc cầu nguyện của chúng ta ảnh hưởng lên toàn bộ ngày sống của chúng ta và đến lượt mình, ngày sống cũng vạch ra đường lối cho chúng ta cầu nguyện. Do đó, Thiên Chúa hằng dẫn chúng ta từng bước vượt qua những đau khổ cho tới khi Người nắm trọn hoàn toàn cuộc đời chúng ta và dẫn chúng ta đến một sự đơn sơ và tự do sâu sắc trong tất cả những công việc chúng ta làm.

 

Ngày 15/10

“Hãy tin những gì cha nói, hoàn tất lòng nhiệt thành qua bổn phận, nhưng cảm nhận được đời sống nội tâm qua sự hấp dẫn của tình yêu Thiên Chúa.” [Gửi cho bà Nataly Jordan, tháng 8/1867]

Đây là một đoạn lời khuyên khác rất thực tế được rút ra từ kho tàng phong phú là chính cha Eymard. Những hành động bên ngoài trước hết phải là “hoa trái” nếu như có một mảnh đất nội tâm phong phú. ‘Lòng đầy miệng mới nói ra!’ (Mt 12,34). Vì thế, khi người ta rực cháy với tình yêu dành cho Chúa, thì chính Ngài sẽ chỉ ra những gì Ngài muốn làm ở mức độ bên ngoài. Và Ngài thể hiện điều này qua những bề trên hợp pháp của chúng ta, qua những tình cảnh chúng ta gặp phải, qua những lời đề nghị của bạn bè cũng như những người tốt, thậm chí là qua những khó khăn và ngáng trở trên con đường của chúng ta. Tuy nhiên, trong tất cả những hành động này, chúng ta cần nhìn lên Chúa là Đấng khởi sự tất cả. Nhiệm vụ của chúng ta là vâng theo ước muốn của Ngài và hoàn tất những kế hoạch của Ngài chứ không cần dâng “hy lễ”. Khi chúng ta dâng một điều gì đó cho Chúa, chúng ta quyết định xem dâng cái gì (nói chung vì chúng ta nghĩ đó phải là một điều tốt và một điều gì đó đẹp lòng Chúa) nhưng đó thực sự không phải là điều mà Ngài muốn nơi chúng ta. Do đó, chúng ta cần cẩn thận lắng nghe trước khi thi hành bất kỳ công việc bên ngoài nào.

Thế nhưng khi đó là một vấn đề về việc đáp trả những đòi hỏi của đời sống nội tâm thì đó là lúc chúng ta đáp trả lại tình yêu và bằng tình yêu. Trong trường hợp này, chúng ta lắng nghe bằng con tim và việc tìm kiếm trước tiên là cảm nghiệm được tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Khi điều này trở nên rõ ràng, thì bấy giờ tất cả những gì chúng ta cần làm là dâng quyền kiểm soát tự do cho những ước muốn tận đáy lòng của chúng ta vì nói chung tình yêu biết cách đáp trả lại tình yêu. Tuy nhiên, ở đây chúng ta cũng cần nhớ rằng Thần Khí của Thiên Chúa cư ngụ nơi chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta biết cách đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa một cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Tình yêu của Thiên Chúa là điều sẽ lôi kéo chúng ta ra khỏi chính mình cũng như sẽ là chất thử a-xít cho hành động bằng tình yêu của chúng để chúng ta chấp nhận tất cả những hy sinh liên quan đến tiến trình mà không quan tâm rằng điều đó sẽ phải trả một giá đắt. Tình yêu làm mọi thứ trở nên dễ dàng và thú vị.

Chúng ta nhớ lại hai trường hợp được đề cập đến trong Tin Mừng, cả hai trường hợp đều liên quan đến những người phụ nữ. Trong câu chuyện người đàn bà tội nỗi, khi bảo vệ bà trước ông Si-môn thuộc nhóm Pha-ri-sêu, Đứ Giê-su nói rằng ‘bà được tha nhiều vì đã yêu mến nhiều!’ (Lc 7,36-50). Tuy nhiên, mặc dù không được diễn tả nhưng rõ ràng là bà có thể yêu mến nhiều vì bà cảm nhận được rằng chính bà đã được Thiên Chúa yêu mến nhiều, Đấng đã kêu gọi bà sống một cuộc sống tốt hơn! Điều đó đem lại cho bà lòng dũng cảm để đương đầu với tất cả những tình huống bất lợi cũng như lời phê bình của những người xung quanh để đến với Chúa Giê-su khi Ngài ngồi vào bàn ăn và diễn tả tình yêu của bà theo cách tuyệt vời.

Một trường hợp khác cũng tương tự, có khác là trong trường hợp này người phụ nữ đến với Đức Giê-su khi Ngài ngồi vào bàn ăn và trước hết bà đập bể bình đựng dầu rồi sau đó đổ dầu quý lên đầu Ngài. Bà đập bể bình đựng dầu như một dấu chỉ của việc hoàn toàn cho đi của bà, không chỉ là dầu mà thôi nhưng còn cả bình nữa, bình mà khi đã bị đập vỡ rồi thì sẽ không dùng lại được nữa! Chỉ tình yêu như thế mới diễn tả được lòng quảng đại bao la của người đàn bà. Và bà đã làm điều này mà không chần chừ dù chỉ một giây. Những người khác chứng kiến hành động này cảm thấy sốc vì sự lãng phí và cho rằng dầu ấy có thể bán đi và lấy tiền cho người nghèo! (Mc 14,3-9). Hành động theo con tim của chúng ta trong việc đáp trả lại Đức Giê-su sẽ đem đến điều tốt nhất cho chúng ta, luôn luôn là như vậy.

 

Ngày 16/10

“Khi ở trong nhà thờ, hãy nhớ rằng con chỉ là một người tôn thờ hèn mọn của Bí tích Thánh Thể. Đừng quá lo lắng về những bổn phận của con, hay về chính con. Tình yêu trong sạch thì quên đi chính mình và tôn vinh sự nhân lành cùng sự yếu mềm của Thiên Chúa nơi Người và nơi chúng ta.” [Gửi cho bà Josephine Gourd, 8/1867]

Khi đề cập đến sự hiện diện của bà trong nhà thờ, rõ ràng cha Eymard tưởng tượng ra thời giờ cầu nguyện trước Thánh Thể. Cha xem việc này như một “việc phục vụ” được thực hiện cho Đức Vua Ki-tô, đang hiện diện ở đó vì chúng ta. Do vậy, một người hiện diện ở đó thì giống như một “bổn phận”, và trong suốt thời gian đó, nhiệm vụ chính của người ấy là ở đó và ngắm nhìn Chúa. Mục tiêu hoàn toàn là quy hướng về Chúa như trường hợp của cô Maria, em gái cô Mát-ta khi Chúa ghé thăm nhà của họ. Chắc chắn cô ý thức rằng có nhiều việc cần phải để ý, để làm cho cuộc thăm viếng của Đức Giê-su được thuận lợi và thoải mái đối với Người… nhưng không có công việc nào quan trọng bằng việc “ở lại đó” với Người. Hãy thử tưởng tượng xem một vị khách được đón tiếp vào nhà và sau đó bị bỏ rơi một mình trong khi các thành viên bận rộn với những việc sắp xếp và chuẩn bị bữa ăn! Thật là một sự vô tình đối với vị khách ấy và còn vô tình hơn nữa khi vị khách ấy lại là chính Đức Giê-su!

Khi chúng ta bước vào sự hiện diện của Chúa qua việc cầu nguyện, chính Ngài đón tiếp chúng ta và hoàn toàn đặt chính Ngài vào trong chúng ta. Và vì vậy, để đáp trả lại bằng một tình yêu tương tự như thế, chúng ta phải tự nhủ để không quên lãng chính mình và ở lại đó bằng tất cả con người mình với Ngài để Ngài có thể thông ban cho chúng ta tất cả những gì Ngài dự định cho chúng ta và những gì Ngài sẽ đem đến trong cuộc đời chúng ta vào ngày đó. Đó là điều làm đẹp lòng Ngài nhất. Bên cạnh đó, thật hữu ích khi chúng ta nhớ lại rằng chúng ta cầu nguyện không phải để nhận một điều gì đó cho bản thân mình, nhưng là để phục vụ Ngài. Thật không may, có rất ít người đến cầu nguyện (thậm chí là trước Thánh Thể được đặt trong Nhà thờ) với ý hướng ngay lành! Hầu hết mọi người đến với Chúa để xin một điều gì đó cho bản thân mình và vì thế mục tiêu nói chung là quy hướng về chính mình.

Người tôn thờ đích thực đến cầu nguyện bằng tâm trí và tâm hồn được chuẩn bị để hoàn toàn theo sự sắp đặt của Ông Chủ. Người ấy để ý đến từng lời mà Ông Chủ nói, qua Kinh Thánh, qua ký ức, qua những người khác làm sinh động hay thậm chí là chia sẻ lời cầu nguyện, qua những tình cảnh diễn ra xung quanh,… Thái độ của người ấy giống như thái độ của ngôn sứ Samuel “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe!” Nhưng đây lại là một thái độ được vun đắp trong tình yêu và lòng tôn kính. Đối với Chúa cũng vậy, Ngài ưa thích nói với một người nào đó có thái độ ấy hơn là với những người khác đến chỉ để xin ơn cho chính mình.

Tuy nhiên, thái độ này không chỉ dần dần được phát triển, nhưng còn làm cho người ta trở nên tất cả, đầy tràn và giàu có, sâu sắc hơn và do đó không đến với Chúa với thái độ của người ăn xin vốn phổ biến nơi những Ki-tô hữu ngày nay. Dường như hầu hết mọi người không đọc thư Ep 1,3-10_bài thánh thi nhắc nhớ chúng ta rằng “Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần”. Điều này đơn giản có nghĩa là không có điều gì mà chúng ta không thực sự có, tất cả những gì chúng ta cần làm là dùng những ân huệ Chúa đã đổ xuống trên chúng ta vì lòng nhân từ và tình yêu của Người. Sự nhận thức này sẽ hoàn toàn giải thoát chúng ta khỏi những gì đã được thiết lập sẵn nếu Chúa ở trong lời cầu nguyện.

 

Ngày 17/10

“Con có thể hy vọng để sống bình thản và gần gũi với mẹ yêu dấu của con trong sự cô tịch, nhưng hãy xem Chúa chúng ta đang tách lìa con ra như thế nào và con đang bị bủa vây bởi hoạt động ồn ào náo nhiệt… Con càng hoang phí vào những việc bên ngoài, thì con càng phải bao phủ và lấp đầy bên trong bằng Đức Giê-su.” [Gửi cho cô Stephanie Gourd, tháng 8/1867]

Khi một ai đó đặt bản thân mình trên cả Chúa, người ấy có thể mong chờ điều xấu nhất từ phía kẻ thù- chính là Cái Tôi. Vì Chúa muốn điều tốt nhất cho chúng ta, Ngài sẽ không bao giờ để chúng ta rơi vào vết xe đổ và vẫn mãi ở lại nơi ở thuận lợi của chúng ta vốn bị Cái Tôi thống trị. Nhìn chung, Ngài dùng một cách tiếp cận sẽ đem đến những kết quả tốt nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất. Và người ta có thể mong chờ nhận được những gì người ta không có. Như Phê-rô đã được tiên báo: “Thật, Thầy bảo thật anh, lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý anh muốn. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” (Ga 21:18). Tuy nhiên, khi chúng ta hoàn toàn cậy dựa vào Chúa, chúng ta đoan chắc rằng bất kể điều gì Ngài chọn lựa cho chúng ta sẽ luôn là những điều tốt nhất mà Ngài có thể ban cho chúng ta. Điều đó cho phép chúng ta đáp trả một cách tích cực và quảng đại.

Trong tình cảnh hiện tại, theo lẽ tự nhiên dường như người ta nghiêng chiều về sự thinh lặng và suy niệm, vì thế Chúa dìm bà vào một tình huống ồn ào và náo nhiệt. Trong tình huống “không mong muốn” này, người ta có thể chịu đựng đến cùng, đề ra thời gian và cắn răng chịu đựng, hay cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa, hết lòng bước vào tình huống này và từ bên trong, tiếp tục tìm kiếm để tạo nên một sự khác biệt tích cực trong đời sống của con người. Vì trong tình huống này, người ta không thể dễ dàng nhận ra điều tốt mà Chúa muốn, người ta cần bám vào Ngài bằng đức tin và tình yêu nồng nàn.

Một khó khăn trong tình huống này đó là người ta có thể học được nghệ thuật làm việc ở hai mức độ. Trong khi bị dìm vào hoạt động nhàm chán ở mức độ bề ngoài, người ta cần đào luyện chính mình để ở gần Chúa và cộng tác với Ngài. Ban đầu, nghệ thuật hay kỹ năng này được trình bày dưới hai cấp độ khác nhau là rất khó, nhưng với sự trợ giúp của Chúa thì không có gì là không thể. Tất cả các vị đại thánh đã phải học bài học khó khăn này nhưng cuối cùng Chúa cũng chiến thắng trong cuộc đời họ. Hình ảnh của Tin Mừng nảy ra trong tâm trí đó là hình ảnh Phê-rô đề nghị với Chúa khi Người đi trên mặt biển để đến với các ông, Người ra lệnh cho Phê-rô đi trên mặt nước. Với mệnh lệnh của Chúa, ông đã thực sự bước và bắt đầu đi, nhưng khi thấy sóng lớn xung quanh mình, ông sợ hãi và bắt đầu chìm (Mt 14:30-31). Điều này dường như cho thấy nếu Phê-rô tiếp tục hướng nhìn Đức Giê-su thay vì nhìn những ngọn sóng, thì ông sẽ không cảm thấy khó khăn nhiều khi bước đi trên mặt nước như Đức Giê-su đã làm.

Khi Đức Giê-su không còn là trung tâm của đời sống chúng ta nữa, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra mình đang rơi vào những khó khăn. Thậm chí, nếu Người ngủ, vào thời điểm những sự việc khác đang diễn ra (Mc 4:35-40) thì chẳng gì phải sợ, Người sẽ tiếp tục ở lại với chúng ta trên thuyền, và đó là tất cả vấn đề!

 

Ngày 18/10

“…Khi con ở với Chúa chúng ta, đừng để mình suy nghĩ đến những người khác, con chỉ bận tâm với Chúa chúng ta, chỉ một mình Chúa thôi. Nói ít về con đối với Đức Giê-su, nói nhiều về Đức Giê-su đối với chính con. Trong tình yêu thực sự, chúng ta cần quên đi chính mình, đạt đến một cuộc sống hiệp nhất với Chúa chúng ta qua sự nhận thức sâu sắc của tâm hồn. Điều đó không mệt mỏi và có thể hòa hợp với mọi thứ khác.” [Gửi cho cô Stephanie Gourd, tháng 8/1867]

Tiếp tục với dòng tư tưởng trên, một lần nữa cha Eymard nhấn mạnh rằng người ta phải luôn luôn xem Đức Giê-su như là mục tiêu cho sự chú ý của mình. Bấy giờ thái độ của chúng ta sẽ là ‘Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?’ và khi chúng ta đã làm theo lời đề nghị của Đức Maria đã nói với các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na ‘Người bảo gì, các anh cứ làm theo’ (Ga 2:1-11), chắc chắn chúng ta có thể mong chờ những điều kỳ diệu từ nơi Người. Thế nhưng, trong những tình huống này, thật không dễ gì để cố gắng nhớ lại rằng niềm hy vọng của chúng ta chỉ ở nơi Người mà thôi. Chúng ta không cần kể lể toàn bộ câu chuyện về những cơn đau bệnh cũng như những phiền phức của chúng ta vì chắc chắn Người đã biết tất cả những thứ đó rồi. Nhưng, nếu chúng ta có thể chú ý hơn vào những ưu phẩm của Người cũng như những hành động kỳ diệu mà Người làm vì chúng ta, thì chúng ta sẽ bớt sợ hãi.

Dù đứng ở góc độ nào, cha Eymard luôn luôn trở lại với điểm mấu chốt: Bạn không thể làm tôi hai chủ cùng một lúc, Thiên Chúa và Cái Tôi. Vì thế, chúng ta càng biết ra sức làm việc mà không đặt Cái Tôi làm trung tâm, thì sẽ trở nên dễ dàng hơn trong việc chuyển đổi vị trí trung tâm ấy về Đức Giê-su. Hơn thế, cha trở về một ý tưởng then chốt khác, đó là: tính siêu việt của đời sống nội tâm. Khi sự hiệp thông nội tâm với Chúa trở nên một khía cạnh quan trọng trong đời sống tâm linh của chúng ta, bấy giờ chúng ta nhận ra rằng chúng ta thực sự dùng ít sức mạnh tinh thần và do đó không mệt mỏi hay không dễ dàng nhụt chí. Vả lại, khi chính tình yêu ấy chi phối những lời đáp trả của chúng ta đối với Đức Giê-su, thì chúng ta không cần quan tâm đến bất kỳ khó khăn nào xảy đến trên con đường của chúng ta, mối bận tâm chính của chúng ta là đáp trả lại Người một cách tốt nhất.

Tình yêu làm cho mọi sự trở nên có thể và làm cho dự án quá đơn giản và có thể chấp nhận được đến nỗi chúng ta không cần để ý đến việc chúng ta phải hy sinh nhiều. Bởi vậy, nếu ở cấp độ tự nhiên, điều đó là đúng trong mối tương quan của chúng ta với những người xung quanh, thì chẳng lẽ lại không đúng trong mối tương quan của chúng ta với Đức Giê-su sao?

Đây có thể là điều mà Đức Giê-su đang tìm kiếm nơi các môn đệ được Người tuyển chọn vào đêm của Bữa Tiệc Ly. Người mời gọi tất cả các ông cùng đi với Người vào vườn Giệt-si-ma-ni và tìm kiếm sự hiện diện an bình xung quanh Người. Người nài nỉ ‘Hãy tỉnh thức và cầu nguyện với Thầy đôi chút’. Thế nhưng, tâm hồn các ông nặng trĩu và cơn buồn ngủ ập xuống các ông, đến nỗi điều này đưa đến sự than phiền từ tâm hồn nặng trĩu của chính Đức Giê-su: ‘Anh em không thức với Thầy được một giờ sao?’ Tình yêu của các ông dành cho Thầy ít sống động, các ông sẽ hăng hái chia sẻ giờ phút khó khăn với Người, mặc dù các ông không làm gì nhiều để loại bỏ chúng đi. Nhưng đó không phải là điều Người tìm kiếm. Tất cả những gì Người muốn đó là biết các ông đang ở với Người, sẵn sàng chia sẻ giây phút khó khăn mà Người đang phải cố gắng chịu đựng và trung thành với ý muốn của Chúa Cha bằng bất cứ giá nào.

 

Ngày 19/10

“Hãy ngồi dưới chân Người, lắng nghe Người như cô Maria: Đó chính là lương thực đem lại sự sống và sự hiểu biết. Đó chính là bàn tiệc của tâm hồn làm con vui thỏa bằng mọi cách. Đó chính là lời cầu nguyện trong thinh lặng, của một cái liếc nhìn, của niềm hạnh phúc được ở bên dưới tầm ảnh hưởng của Mặt Trời công chính hướng về Thánh Tâm Người qua việc Hiệp lễ hay khi tâm hồn con gặp đau khổ hay khi buồn phiền.” [Gửi cho nữ bá tước D’Andigne, 8/1867]

Khi gửi cho một người con linh hướng khác nhưng hầu như cũng cùng một dòng tư tưởng như bài suy niệm trước, cha Eymard trở lại với hình ảnh quen thuộc của mình đó là hình ảnh cô Maria ngồi bên chân Đức Giê-su. Dù lúc đầu Maria chọn lựa ở bên Đức Giê-su vì cô thấy chị gái Mát-ta của mình phải bận rộn với nhiều công việc, nhưng ngay lập tức công việc này đã trở thành công việc của tình yêu khi cô lắng nghe Người và làm cho Người hài lòng. Có lẽ cô đã không có nhiều điều để nói ra, nhưng cô rất vui khi lắng nghe mọi lời Người phán ra. Và đối với Đức Giê-su, đây là một trường hợp khác biệt hoàn toàn với những trường hợp mà Người đã gặp.

Người quen với việc làm cho dân chúng chăm chú lắng nghe Người, nhưng ngay sau đó Người khám phá ra rằng những thính giả của Người không thực sự muốn biết chân lý hay chia sẻ những ý tưởng thâm sâu nhất của Người. Họ thường chỉ quan tâm đến việc bắt lỗi sai trong những lời nói của Người. Những người khác có thể cũng hăng hái lắng nghe, nhưng chỉ vì muốn khám phá những gì mà bản thân họ đang tìm kiếm từ lời giảng dạy của Người. Hiếm ai nhìn nhận Người như một con người đúng nghĩa, tìm cách dâng lên Người sự thân mật của việc lắng nghe bằng con tim! Sau hết, mỗi người đều ao ước có được ai đó hiểu mình, đặc biệt qua việc lắng nghe tất cả những gì mình muốn chia sẻ. Vì thế, chúng ta thường nhận ra rằng nhìn chung người ta không có thời gian, và cũng không thực sự ước muốn để hoàn toàn chịu sự chi phối của người khác, đặc biệt là lắng nghe họ.

Tình yêu chân thật và sâu lắng không cần nói nhiều, chỉ là một cái liếc nhìn dành cho người mình yêu để biết được tất cả những gì người yêu cần bày tỏ. Và như Đức Giê-su muốn được người khác lắng nghe như thế nào, thì Người cũng làm như thế với chúng ta khi chúng ta cần được lắng nghe. Quả là một niềm vui lớn lao để biết rằng Người lắng nghe chúng ta nhiều như chúng ta cố gắng để lắng nghe Người. Khi chúng ta có được kinh nghiệm này, sự gần gũi của chúng ta với Người không thể không gia tăng và được đào sâu. Sau này, tình hiệp thông của chúng ta có thể được cảm nghiệm ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào mà không cần quá nhiều hình thức. Đó là lúc chúng ta bắt đầu nhận ra Đức Giê-su đang hiện diện với chúng ta nơi Phòng Tiệc Ly Nội Tâm trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng ta, và chúng ta không còn cần đi đến bất cứ nơi đâu cũng như thực hành bất cứ nghi thức nào để nghiệm ra sự ôm ấp đầy yêu thương của Người.

Đây có thể là mối tương quan mà “người môn đệ được Chúa yêu”, thánh Gioan, đã có với Đức Giê-su. Thánh nhân hiểu từng lời của Đức Giê-su, mỗi cử chỉ Người làm và tự nguyện tựa đầu vào ngực Người và hỏi Người, còn gì hơn khi có được niềm vui là nhận được câu trả lời từ Đức Giê-su! Không một môn đệ nào khác dám bày tỏ như vậy với Đức Giê-su. Quả thật, Đức Giê-su đã chuẩn bị để ban tặng chúng ta thế nào, chỉ cần một lời đáp trả từ phía chúng ta mà thôi! Phải chăng chúng ta có thể nỗ lực hơn nữa để trở thành một phần tử trong mối dây liên kết các bạn hữu thân thiết của Người?

 

Ngày 20/10

“Dường như khi Đức Giê-su chịu chết, Trái tim Người không chết, máu Người vẫn ấm nồng thậm chí sau cái chết của Người trong Ngôi vị Thiên Chúa. Đức Giê-su nói ‘ai ăn thịt Ta thì ở lại trong Ta, và Ta ở lại trong người ấy’. Thật là một sự chia sẻ sự sống tuyệt vời và thánh thiêng ‘Ở lại với Đức Giê-su, trong Đức Giê-su, đó là trở nên tôi tớ thờ phượng của Người.” [Gửi cho nữ bá tước D’Andigne, 8/1867]

Mầu nhiệm cao trọng nhất trong niềm tin của chúng ta chính là Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su. Dù đã báo trước cho các môn đệ biết về chân lý này, nhưng tất cả các ông khó lòng chấp nhận và tin vào Mầu nhiệm đó. Và thậm chí ngày nay, khi chúng ta nhìn nhận chân lý về Sự Phục sinh này, thì hầu như ít ai chịu nỗ lực đào sâu mầu nhiệm này để hiểu biết thêm dù chỉ là những điều nhỏ nhặt nhất. Một cách đơn giản, điều đó nhắc nhở chúng ta rằng qua cái chết, Đức Giê-su hoàn toàn được biến đổi để nên một với Chúa Cha và đó là hoa trái của sự dâng hiến vô điều kiện trong tình yêu và niềm tin. Trước hết, điều này diễn ra khi chết_vì vậy chỗi dậy từ cõi chết làm nên một mầu nhiệm, một khoảnh khắc không có khoảng trống xen giữa.

Đức Giê-su là Chúa Phục sinh khi Người chịu chết trên Thánh giá và sẽ mãi là như vậy. Nhưng điều quan trọng là giờ đây chúng ta luôn đụng chạm đến Người như là Chúa Phục Sinh trong vinh quang. Nhớ lại những biến cố trong cuộc đời Người có thể là một sự chỉ dẫn và sự dạy dỗ cho chúng ta, nhưng chúng ta không gặp Chúa trong những trường hợp ấy. Vì thế, chúng ta có thể dành nhiều giờ để chiêm niệm thời thơ ấu của Đức Giê-su, nhưng chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể gặp Đức Giê-su Hài Đồng. Vì vậy, lòng tôn sùng của chúng ta đối với “Hài Nhi Giê-su” vốn quá phổ biến trong Giáo Hội ngày nay, vẫn mãi không sinh hoa trái nếu việc đó không dẫn chúng ta đến với Chúa Phục Sinh thực sự. Ngày nay, Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta chủ yếu trong Phụng vụ như đã được trình bày trong Tin Mừng Luca.

Chúa Phục Sinh bắt gặp hai môn đệ khi họ bước đi mệt nhọc đang lúc nhớ lại những biến cố xảy ra vài ngày trước đó. Không cần biết họ đã trải qua những biến cố trong tuần vừa qua như thế nào, họ không thể tiến gần hơn nữa để hiểu được mầu nhiệm này. Chúa đã cùng đi với họ và sau khi dành dịp để giải thích tiền đề của họ, Người đưa họ quay trở lại Sách Thánh từ Mô-sê cho đến hiện tại và chỉ ra cho họ thấy ý nghĩa thực sự của những gì được viết về Đấng Mê-si-a. Vì thế, Người đã chỉ ra cho các ông “nơi” đầu tiên mà các ông sẽ gặp gỡ Người là Chúa Phục Sinh qua việc chia sẻ Lời Chúa, và trong khi giải thích Sách Thánh, tâm hồn họ đã bừng cháy, một dấu chỉ về sự hiện diện thực sự của Người đối với họ!

Khi họ về đến làng, Người “làm ra vẻ muốn đi tiếp” để tạo cho họ cơ hội thực hành những gì họ đã học, có nghĩa là bẻ chính mình ra vì lợi ích của anh em mình. Họ nảy ra ý định nài ép Người ở lại với họ vì ngày sắp tàn. Và khi các ông quy tụ quanh Bàn ăn, một lần nữa họ ‘nhận ra’ Chúa Phục Sinh qua việc bẻ bánh. Vội vã trở về Giê-ru-sa lem, họ bắt đầu thuật lại kinh nghiệm của mình cho những ai đang quy tụ ở đó và “trong khi họ còn đang nói” thì Chúa hiện ra với họ. Nơi thứ ba chính là việc chia sẻ đức tin trong cộng đoàn. Vả lại khi Chúa dẫn đưa họ ngang qua Sách Thánh và chia sẻ với họ một bữa ăn có cá nướng, thì bấy giờ họ trở thành một cộng đoàn được Người sai đi để trở thành chứng nhân cho sự Phục Sinh của Người, loan báo ơn hoán cải cho tất cả mọi người. Vì thế, khi họ tham gia vào sứ mạng rao giảng thì họ sẽ gặp được Chúa Phục Sinh. Và sau cùng, Người đã dẫn họ đến Bê-ta-ni-a, nơi mà Cuộc khổ nạn của Người bắt đầu, và sau khi chúc phúc cho họ, Người đã biến mất để họ đi theo con đường của mình đến Can-vê và chịu chết, và cuối cùng là chia sẻ sự Phục Sinh. Do đó, đối với chúng ta, gặp được Chúa Phục Sinh là điều quan trọng nhất trong tất cả những hình thức tôn sùng của mình!

 

Ngày 21/10

“Nguyện xin Thiên Chúa gìn giữ và gia tăng niềm say mê cũng như việc suy niệm đang triển nở của con: hai ân huệ lớn lao của tình yêu Thiên Chúa. Ân huệ thứ nhất làm cho chúng ta phụng sự Thiên Chúa một cách tốt đẹp: đó là hoạt động của Tình yêu. Ân huệ thứ hai đổ tràn trên chúng ta sức mạnh cần thiết để làm việc: đó là lương thực ban sự sống và sự hiểu biết.” [Gửi cho bà Mathilde Giraud-Jordan, 10/1867]

Niềm say mê và việc suy niệm ám chỉ đến hai ân huệ lớn lao chi phối chúng ta trong suốt cuộc hành trình nơi dương thế này. Cả hai đến với chúng ta như những ân huệ từ Thiên Chúa-Đấng đã quảng đại ban phát, nhưng cả hai ân huệ này chỉ được đón nhận một cách tương xứng khi chúng ta sẵn sàng chiếm đoạt chúng làm của riêng mình. Chúa sẽ không tuôn đổ những ân huệ quý giá của Ngài trên chúng ta, đặc biệt nếu chúng ta không thực sự ước muốn dùng những ân huệ ấy vì lợi ích của chúng ta và vì lợi ích của người khác. Qua Kinh Thánh, chúng ta luôn được nhắc nhớ rằng Chúa yêu thương những ai có lòng ao ước mãnh liệt. Ngay cả khi ước muốn của chúng ta dành cho Ngài không phải lúc nào cũng được thỏa mãn, nếu chúng ta tiếp tục đặt những ước muốn ấy trước mặt Ngài, Ngài sẽ hoàn tất chúng vào một ngày nào đó vượt xa sự mong đợi của chúng ta. Vả lại, không phải tự bản thân mà chúng ta lấy được sức mạnh để làm việc đó, nhưng chính Ngài ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần.

Khi đã cảm nếm được những sự thiết định đầu tiên của tình yêu Ngài, chúng ta sẽ được lôi kéo từng bước từng bước đến khi chúng ta nhận ra rằng không còn nơi nào khác để tìm thấy niềm hạnh phúc sâu lắng và sự hài lòng. Tình yêu làm cho chúng ta quảng đại để dâng hiến cho Thiên Chúa như chính Ngài đã trao ban cho chúng ta. Không nghi ngờ gì khi cha Eymard được làm cho trở nên đặc biệt vì Hiến lễ Bản vị và Lời Khấn Bản Vị, qua việc cha được linh hứng để hoàn toàn dâng mình cho Thiên Chúa nhờ Thánh Thể như Thiên Chúa đã hoàn toàn trao ban chính mình Người cho cha Eymard qua Thánh Thể!

Cha Eymard khẳng định việc suy niệm sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh và sức chịu đựng để tiếp tục dâng hiến chính mình trong mỗi tình cảnh mà Chúa sắp đặt cho chúng ta. Đó là vì nó cho phép chúng ta tập trung vào những điều cần thiết. Cũng giống như một tay đua trên đường đua, anh ta tập trung vào đích đến và điều đó đem lại cho anh sự can đảm, sức mạnh và cảm hứng để nỗ lực hết mình nhằm đến đích trước những người khác. Dù cho anh ta có vấp và ngã lăn ra, anh ta sẽ đứng dậy và tiếp tục cuộc đua cho đến khi về đích. Vì vậy, thật là một việc làm tốt đẹp khi phó thác sự nhiệt tình và tình yêu của chúng ta cho sự quan phòng của chính Thiên Chúa vì sau đó chúng ta biết rằng chúng ta sẽ được an toàn trong bàn tay yêu thương của Ngài.

Tình yêu là một sức mạnh vô biên vì nó mang lại điều tốt nhất cho con người. Nó linh hứng cho chúng ta từ bên trong và sản sinh ra năng lượng cần thiết để kiên tâm cho đến cùng. Và trong đời sống thiêng liêng (cũng như trên bình diện tự nhiên), sự lóe rạng đầu tiên của tình yêu là một ân huệ phát xuất từ bên ngoài. Nếu chúng ta có thể để ý đến sự hiện diện của tình yêu và sau đó làm tất cả mọi sự chúng ta có thể để duy trì sự phát triển của nó, chúng ta sẽ không thể quá sai lầm. Và nơi đầu tiên để bổ sung tình yêu của chúng ta chính là việc cử hành Thánh Thể mà qua Lời và Hy tế, Chúa hiện diện với chúng ta để đổ tràn trên những người lãnh nhận những ân huệ vượt trên mong muốn. Phúc thay ai hiểu được bí nhiệm của tình yêu và ra sức làm mọi sự để làm cho tình yêu ngày càng lớn mạnh qua việc cầu nguyện và trao ban tình yêu cho những người đang có nhu cầu!

 

Ngày 22/10

“Vì suy niệm không thể là bổn phận vĩnh viễn của con, con phải biến việc chiêm niệm của con thành việc thực hành chính của suy niệm, nơi đó con sẽ tìm thấy sức mạnh của con và của ăn thiêng liêng cho suốt ngày sống của con.” [Gửi cho bà Mathilde Giraud-Jordan, 10/1867]

         Trong trường hợp của người con linh hướng này, việc suy niệm không thể là bổn phận vĩnh viễn của bà, nghĩa là ơn gọi của bà trong cuộc sống với tư cách là một người vợ và một người mẹ sẽ không cho phép bà có quyền suy niệm sâu sắc trong một thời gian dài. Trong trường hợp này, điều cần thiết đó là ‘làm bất cứ điều gì thấy cần thiết’ với sự tập trung cao độ và với tình yêu. Sau hết, một người mẹ phải bày tỏ tình yêu với gia đình mình qua tất cả những công việc bà làm vì gia đình ấy, để làm cho gia đình trở thành một gia đình hạnh phúc và yên bình. Trong mọi nỗ lực này, khi mục tiêu không phải là chính bà nhưng là những người mà bà phục vụ, bà sẽ hành động một cách vô vị lợi và do đó bà sẽ thăng tiến trong sự kết hiệp với Chúa. Vì điều duy nhất ngăn cản sự trưởng thành tâm linh của chúng ta chính là chủ nghĩa cá nhân. Điều đó giống như việc tắt máy bơm hay một thiết bị nào đó để đưa chúng ta vào dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa và vì thế chúng ta sẽ chết vì đói khát đời sống thiêng liêng.

Trên hết và vượt trên cả điều này, nếu ai đó có thể tìm được chút thời giờ để tôn thờ Chúa qua việc chiêm niệm hay cầu nguyện thì đó sẽ là một ơn phúc mai sau vì điều này sẽ đào sâu mối tương giao với Chúa. Việc ấy được sánh ví với việc sạc pin trong người để giữa những hối hả xao động của cuộc đời, người ta vẫn có thể tiếp tục yêu mến và phụng sự Chúa, dù không phải bằng khả năng cao nhất của mình. Vì thế, trong khi cầu nguyện, chính sức sống này khiến người ta làm theo sự năng động, bằng không người ta sẽ lãng phí những cơ hội quý giá để tiếp thêm sức mạnh cần thiết trong suốt ngày sống. Do đó, cầu nguyện không phải thời gian để quy hướng về chính mình và xin những ơn thiêng cho chính mình. Như Đức Giê-su đã dạy các môn đệ, chúng ta cầu nguyện để xin ‘Chúa ban cho chúng ta lương thực hằng ngày’ là chính Thánh Thể, tấm bánh được bẻ ra và chia sẻ. Vì thế, bất cứ điều gì chúng ta nói theo chính kiến đều được chia sẻ với những người đang cần đến.

Vả lại, cách làm vô vị lợi này như một ân huệ phát xuất từ Thiên Chúa vì Ngài ban cho chúng ta sự đảm bảo bên trong rằng chúng ta được yêu mến vì những gì chúng ta là chứ không phải vì những gì chúng ta làm hay thực hiện. Thứ tình yêu sau cùng này là tình yêu có điều kiện và không bao giờ có thể làm thỏa mãn trái tim của con người. Nó chỉ để lại trong trái tim sự lạnh giá, làm teo lại và đói khát hơn mà thôi. Nơi đâu thời giờ cầu nguyện hằng ngày trở nên khó khăn, chẳng hạn vì căn bệnh của một thành viên trong gia đình cần được chăm sóc và để ý hơn, thì việc phục vụ có thể trở thành việc chiêm niệm của chúng ta, giúp chúng ta thực hiện bằng tình yêu và bằng sự quên mình. Sáng kiến này sẽ không bao giờ muốn làm bất cứ điều gì, không quan trọng khó khăn tới mức nào, đơn giản vì “tôi” muốn như thế. Chúng ta luôn luôn tìm cách và làm những gì đẹp lòng Chúa Cha như chính Ngài chỉ ra điều đó cho chúng ta qua hàng ngàn cách khác nhau. Lúc đó, việc đọc dấu chỉ thời đại sẽ trở nên hành động thiết thực nhất trong cuộc đời chúng ta. Khi chúng ta khám phá ra sự hài lòng của Ngài, bấy giờ mọi sự sẽ diễn ra nếu tâm hồn chúng ta đầy tràn tình yêu.

Vả lại, cần nhớ rằng tình yêu không phải là một cảm xúc, đến rồi đi. Nhưng hơn thế, đó là một quyết định để luôn luôn làm đẹp lòng Người. “Như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ. Mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa, là Thiên Chúa chúng ta tới khi Người xót thương chút phận!” (Tv 123,1)

 

Ngày 23/10

“Tốt hơn là hãy lôi kéo mình dậy hơn là để mình té nhào xuống đất. Hãy tiếp tục lên Rước lễ: đó là sự sống của con và nhân đức duy nhất của con… Đức Giê-su đang ở lại trong con. Hãy xem việc Hiệp lễ như một ân huệ tinh tuyền đến từ lòng nhân hậu từ bi của Thiên Chúa, một lời mời gọi đến với bàn tiệc ân sủng của Người, bởi vì con là kẻ nghèo túng, yếu đuối và bệnh tật. Vì vậy, con hãy đến với niềm vui sướng.” [Gửi cho bà Antoinette de Granville, 10/1867]

Thành ngữ “té nhào xuống đất” nói lên sự thất bại, một sự bất lực hoàn toàn, chủ yếu do kẻ thù hay do chính quyết định của chúng ta muốn từ bỏ chiến đấu. Khi điều này xảy ra, không ai có thể giúp đỡ chúng ta, ngay cả Thiên Chúa Toàn Năng vì chúng ta từ chối hợp tác. Thế nhưng nếu chúng ta tiếp tục nâng mình dậy, thì ít ra điều đó nói lên ước muốn tiếp tục tiến bước, dù gặp khó khăn ghê gớm. Bao lâu người ta còn lê bước thì vẫn còn những dấu hiệu của sự sống nơi người ấy và do đó vẫn còn tràn trề hy vọng. Nói tóm lại, dù khi đối diện với những khó khăn ghê gớm nhất, chúng ta không nên mất hy vọng, vì Chúa chúng ta là Đấng chinh phục và chiến thắng khải hoàn dù chiến thắng của Người không tỏ hiện một cách rõ ràng.

Chân lý về sự Phục Sinh tiếp tục nhắc nhở chúng ta rằng cuối cùng Chúa sẽ chiến thắng và Người bảo đảm với chúng ta: “Đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Vì thế, chúng ta trở về với Người như nguồn sức mạnh duy nhất và sự nâng đỡ của chúng ta vì Người đã chia sẻ vinh quang của Người cho những ai đi theo Người. Chúng ta lên Rước lễ cùng với Người không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng hãy xem việc Hiệp lễ như một phần thưởng dành cho sự trung thành. Hơn nữa, chúng ta đến với Người vì chúng ta vẫn cần được trở nên giống như Người, cụ thể là trong tình yêu kiên vững của Người với Chúa Cha và sự vâng phục không thắc mắc của Người đối với thánh ý của Cha. Khi Người chia sẻ sự sống và tình yêu của Người với chúng ta, điều đó giống như một chiếc xe nhào lộn mà pin yếu không thể khởi động được. Lấy năng lượng từ Người, chúng ta sẽ tìm thấy sự sống mới được tiêm vào chính mình và ít ra chúng ta có thể bắt đầu một nỗ lực mới.

Không nghi ngờ gì, sự bắt đầu lại này từ Đức Giê-su quả là một ân huệ của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đặc biệt khi những tài nguyên của chính chúng ta cạn kiệt. Chính trong lúc ấy, chúng ta cần bám víu vào Đức Giê-su như tảng đá của ơn cứu độ-Đấng mời gọi chúng ta khi nói rằng “Đến cả đi, hỡi tất cả những ai đang khát, hãy mua sữa…” (Is 55,1). Việc chạy đến với Người chính là thừa nhận sự bất lực của chúng ta và niềm cậy trông của chúng ta vào Người. Người sẽ không bỏ rơi chúng ta trong giờ phút chúng ta cần giúp đỡ. Người được sai đến với những tội nhân và nâng họ dậy từ đống tro tàn và đặt họ lên giữa những hoàng tử và vua chúa (Lc 1,46-55). Không gì hiệu quả cho bằng việc lôi kéo lòng từ bi và sức mạnh của Chúa xuống trên chính chúng ta hơn là một sự khiêm tốn thừa nhận khả năng bất lực của mình, một sự thừa nhận được thực hiện bằng đức tin và tình yêu sâu đậm, chứ không phải bằng việc cầu xin thấp hèn.

“Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành con” sẽ trở thành niềm vui của chúng ta và chúng ta có thể đoan chắc rằng chúng ta sẽ nghe được những lời đảm bảo của Người “Chắc chắn, Ta muốn con được chữa lành!” (Mc 2,40-45). Vì thế, chúng ta hãy đến cùng Chúa Tảng đá của chúng ta, với niềm vui và sự tín thác và chúng ta sẽ được tiếp thêm sinh lực vì Người không bao giờ từ chối tâm hồn khiêm cung bất cứ điều gì nó cần!

 

Ngày 24/10

“Con hãy đề phòng sự lười biếng: Điều đó có thể lắm; về việc không quảng đại trong những gì Thiên Chúa mời gọi con làm… Vậy con nên làm gì?... hy sinh những thứ không cần thiết hay vô ích cho nhu cầu sử dụng của cá nhân con, hay phù hợp với hoàn cảnh của con. Bấy giờ con sẽ tìm được bình an nơi chính mình.” [Gửi cho bà Antoinette de Grandville, 11/1867]

Trong một tình huống mà người con linh hướng cảm thấy mình chưa nỗ lực hết mình, và không quảng đại trong việc dâng lên Thiên Chúa tất cả những gì Ngài đòi hỏi, cha Eymard khuyên người ấy hãy ra sức chống đỡ và hãy bắt đầu bằng việc loại bỏ khỏi mình tất cả những của cải không cần thiết và vô ích, những của cải vốn được tích trữ để đảm bảo sự an toàn của người ấy. Khi làm cho mình trở nên bất lực, giống như một trẻ thơ, bấy giờ chúng ta mới có thể chờ mong sự hiện diện uy quyền của Chúa trước mắt chúng ta một cách nhãn tiền hơn vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14,11). Chúa chờ đợi để đổ tràn tình yêu của Ngài vào trong chúng ta, thế nhưng nếu chúng ta đã chứa đựng đầy ắp Cái Tôi rồi, thì sẽ không còn chỗ để chúng ta đón nhận tất cả những gì Ngài muốn ban tặng chúng ta nữa. Do đó, cần phải làm cho mình trở nên trống rỗng, thậm chí đôi lúc phải dùng vũ lực nếu chúng ta muốn cảm nghiệm quyền năng của tình yêu Ngài!

Tuy nhiên, khi chúng ta khởi sự và tước bỏ những thứ xung quanh mình, thì thật là hữu ích để trông chờ Chúa nói những gì Ngài muốn chúng ta làm. Không có điều gì nơi chúng ta tước bỏ khỏi chúng ta những gì chúng ta nghĩ là không cần thiết khi chúng ta không dâng lên Thiên Chúa mọi sự Ngài đòi hỏi nơi chúng ta. Điều này sẽ xảy ra trước và kế đó chúng ta có thể thêm những gì chúng ta nghĩ là chúng ta có thể dâng chính sự lựa chọn tự do của mình. Làm theo thánh ý Chúa luôn luôn đặt lên trước việc làm theo ý của chúng ta, không cần biết ý hướng của chúng ta tốt dường nào! Có lẽ điều mà cha Eymard đề nghị sẽ là bước đầu tiên để chúng ta có được bình an nội tâm; dĩ nhiên sau đó chúng ta có thể lắng nghe cẩn thận hơn những gì Chúa đòi hỏi chúng ta.

Hơn nữa, có thể xảy ra là sự lười biếng mà người ta cảm nghiệm được đơn giản chỉ là kết quả của sự khô khan mà người ta trải qua trong đời sống cầu nguyện không lâu sau khi mới bắt đầu cuộc hành trình. Bấy giờ, trong suốt giai đoạn này, người ta được khuyên rằng không nên giảm bớt thời gian cho việc cầu nguyện, dù cho việc cầu nguyện có trở nên vô vị và khô khan. Mà hơn thế, nếu có thể, người ta nên dành nhiều thời gian hơn cho việc cầu nguyện không phải như một bổn phận hay như một việc xưng tội, nhưng như một sự bày tỏ tình yêu. Điểm then chốt ở giai đoạn này chính là bám víu vào con người của Đức Giê-su mặc dù sự hiện diện của Người dường như xa xôi và không khả thi. Trong suốt cuộc thử thách về đức tin này, chúng ta cũng có thể dâng lên Chúa những tâm tình của Mẹ Maria, đặc biệt là việc dâng hiến tuyệt vời của Mẹ vào bàn tay Thiên Chúa mọi sự trong cuộc đời Mẹ, niềm tin vững mạnh của Mẹ vào Con của Mẹ là Đức Giê-su cũng như sự phụ thuộc hoàn toàn của Mẹ vào Chúa Cha. Chúng ta cũng nhớ lại tất cả những Ki-tô hữu can trường, những người đã xây dựng chi thể của Hội thánh và tiếp tục chiến đấu bằng tình yêu và niềm cậy trông, không màng đến những gian nan xảy đến cho mình là gì. Chúng ta liên kết chính mình với các vị ấy cũng như chia sẻ những nỗ lực của họ.

Sau hết, điều hữu ích trong suốt giai đoạn thử thách này là tiếp tục ngắm nhìn Đức Giê-su, Đấng không bỏ rơi chúng ta nhưng thực sự đang ở rất gần, dù cho sự hiện diện ấy không được cảm nhận một cách hữu hình đi nữa.

 

Ngày 25/10

“Hãy nỗ lực hết mình để đạt được một tinh thần kiên vững của tình yêu Thiên Chúa trong những việc bổn phận của con, những hoạt động và những tình trạng nội tâm của con.” [Gửi cho nữ bá tước D’Andigne, 11/1867]

Hành trình thiêng liêng trong suốt giai đoạn thử thách và khô khan này có thể sánh ví với một chiếc xe lửa đang băng qua một đường hầm tối tăm. Trong tình cảnh ấy, trước hết chúng ta tự nhủ rằng đường hầm sẽ làm cho hành trình của chúng ta trở nên ngắn hơn và dễ dàng hơn, dù có đôi chút bất tiện và vô vị. Trong lúc băng qua đường hầm, mục tiêu của chúng ta chính là điểm kết thúc vì khi đó chúng ta sẽ lại tràn ngập trong ánh sáng. Chúng ta chịu đựng giai đoạn đen tối này vì biết chắc rằng đó chỉ là tình trạng tạm thời và là một sự chuyển tiếp và nó sẽ dẫn chúng ta đến đích của mình đúng giờ.

Vì đức mến là nhân đức cao trọng nhất mà chúng ta có thể thực hiện và trong giai đoạn cụ thể này có lẽ đó là điều khó nhất để tập trung vào, chúng ta cần đạt đến nhân đức ấy bằng tất cả niềm say mê và sức mạnh lớn lao hơn. Lúc đầu, điều này sẽ đòi hỏi chúng ta rất nhiều cố gắng, nhưng khi đã thành thói quen rồi, nó sẽ ngày càng trở nên một tính khí kiên vững có sức chịu đựng. Hành động bằng tình yêu bao gồm việc để mắt đến người mà chúng ta yêu mến, để ý đến điểm tốt của người ấy cũng như những đức tính đáng quý của người ấy. Bao lâu chúng ta không để ý đến chính mình nhưng đến những người khác, chúng ta sẽ nhận ra rằng những khó khăn chúng ta đối diện sẽ không phải là không chịu đựng nổi.

Lợi dụng chân lý “các thánh cùng thông công” qua đó chúng ta tin rằng tất cả chúng ta chỉ là một, không quan tâm đến việc chúng ta đến từ đâu hay những phẩm chất của chúng ta là gì, chúng ta hướng đến sự tốt lành và những nhân đức của các thành viên khác mà có lẽ mạnh mẽ hơn chúng ta có ngay thời điểm hiện tại. Những người này không cần phải là những người chúng ta thực sự quen biết, nhưng chúng ta nhớ lại rằng Đức Giê-su đã đảm bảo: Hội thánh của Người thì thánh thiện và qua đó Người có ý nói bất cứ lúc nào cũng luôn luôn có ít nhất một vài thành viên được thực sự kết hợp với Người và với Nước Trời. Chúng ta nhớ đến những người ấy và chia sẻ sự quảng đại và tình yêu của họ.

Giai đoạn này trong đời sống tâm linh của chúng ta có thể sánh ví với hành trình trên con tàu của các môn đệ trong khi Đức Giê-su ngủ thiếp đi ở đàng lái (Mc 4,35-41). Khi giông tố nổi lên, các môn đệ hốt hoảng và vội vàng đánh thức Người dậy và xin Người cứu giúp. Thánh Tê rê-sa, Bông Hồng Nhỏ, thường nói rằng nếu ngài ở trên chiếc tàu đó với Đức Giê-su khi giông tố nổi lên, ngài sẽ không làm phiền Người ngủ. Đối với thánh nhân, điều quan trọng cần biết, đó là: Đức Giê-su đang hiện diện trên cùng chiếc tàu sắp bị lật bởi những đợt sóng dữ dội. Thậm chí nếu con tàu bị chìm đi nữa, thì bao lâu Đức Giê-su còn ở với thánh nhân, thánh nhân nhận ra rằng mình sẽ được an toàn và Người sẽ để mắt nhìn đến họ trong cơn giông tố ấy. Điều này nói thì dễ, nhưng thực hành thì không dễ chút nào nếu đức tin của người ta vào con người của Đức Giê-su không thực sự mạnh mẽ.

Tuy nhiên, cần nhớ rằng đức tin của chúng ta sẽ không trở nên mạnh mẽ cho đến khi đức tin ấy bị thử thách và được thử luyện qua nhiều cách khác nhau, thậm chí là những điều khó khăn. Mỗi vinh quang đem lại cho chúng ta một sự đảm bảo lớn lao hơn rằng Đức Giê-su sẽ không bao giờ để cho chúng ta rơi vào khủng hoảng bao lâu chúng ta còn ở lại gần Người. Người ấp ủ chúng ta trong cánh tay Người và không sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được (Is 49,16)!

Chúa là mục tử chăn dắt tôi nên tôi chẳng thiếu thốn gì… dù qua lũng âm u, tôi sợ gì nguy khốn vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm! (Tv 23,1-4).

 

Ngày 26/10

“Con phải tìm kiếm Chúa trong mọi hoạt động của con: Phải làm việc này như thế nào? Qua những khát vọng thường xuyên, qua việc thường xuyên đổi mới lễ vật là chính những ý hướng trong những hành động của con…” [Gửi cho bà Mathilde Giraud-Jordan, 11/1867]

Trong lời đề nghị gửi tới người con linh hướng của mình, cha Eymard khuyên bà tìm kiếm Thiên Chúa trong hàng loạt công việc vốn hình thành nên nếp sống hằng ngày của chúng ta, qua việc lập lại những khát vọng và đổi mới ý hướng để luôn luôn hành động bằng tình yêu. Đó sẽ là cách làm chuẩn mực trong trường hợp này. Nhưng sẽ còn nhiều cách làm khác, chẳng hạn như tìm cách khám phá một vài ưu phẩm đặc thù của Thiên Chúa trong mỗi tình cảnh mà chúng ta đối diện. Lúc chúng ta đối diện với một trở ngại, chúng ta tự đào luyện mình để biết dâng trở ngại ấy cho Thiên Chúa, nhưng vẫn có đủ bình tĩnh để thủ đắc trong tầm tay tất cả những nguồn mạch mà chính Ngài đã ban cho chúng ta. Rất nhiều nguồn mạch có sẵn nơi chính con người của chúng ta, và có lẽ còn nhiều nguồn mạch khác nữa ở bên ngoài chúng ta, nơi những người xung quanh chúng ta. Vì thế, chúng ta có thể khiêm tốn đề nghị một ai đó giúp đỡ chúng ta trong lúc khó khăn và khám phá ra rằng rất nhiều người quảng đại và sẵn lòng giúp đỡ theo cách của họ.

Trong những lần khác, có lẽ sẽ là điều hữu ích khi chúng ta tự hỏi bản thân mình rằng chúng ta đã đánh mất điều gì khi chúng ta không đạt được mọi sự theo cách của mình và đành chấp nhận từ bỏ những kế hoạch của chúng ta. Do đó, nếu chúng ta chuẩn bị thực hiện một chương trình nghe-nhìn, bỗng có một thất bại xảy đến ngay khi chúng ta vừa mới bắt đầu, nguyên nhân là do máy móc trục trặc, chúng ta không cần phải buồn phiền thất vọng nhưng hãy tự hỏi xem còn cách nào khác để chương trình có thể tiếp tục hay không, thậm chí không cần dùng đến máy chiếu. Với cách làm này, chúng ta có thể nhận ra rằng chúng ta có một cách trình bày hiệu quả tương tự, rất độc đáo và sáng tạo, không cảm thấy chán nản vì những kế hoạch của chúng ta đã thất bại. Và công việc của Chúa có thể được hoàn thành theo cách tốt hơn, đó mới là vấn đề!

Sự hiểu biết ẩn dưới cách làm này đó là: Thiên Chúa chính là Đấng chi phối toàn bộ đời sống của chúng ta và chính Ngài quyết định xem đâu là hành động thích hợp nhất mà chúng ta có thể làm trong tình huống được đặt ra này. Chúng ta chỉ đơn thuần là những dụng cụ trong bàn tay uy quyền của Ngài, và bao lâu chúng ta cùng làm việc với Ngài, Ngài sẽ để ý đến khó khăn và biến nó thành có ích lợi cho những người lãnh nhận theo cách mà chỉ Ngài mới biết rõ mà thôi. Vì thế mọi hoạt động vốn tô điểm cho ngày sống của chúng ta không cần đưa ra những trở ngại không thể vượt qua trong việc liên kết với Thiên Chúa. Chúng ta có thể tìm kiếm Ngài ngay giữa những ngạc nhiên xảy ra hàng ngày trên bước đường của chúng ta. Vì tình yêu vô biên mà Thiên Chúa hiện diện với chúng ta qua nhiều cách thức kỳ diệu để chúc phúc cho chúng ta bằng những ân sủng. Khi chúng ta có thể nhận biết Chúa đang ở gần chúng ta, chúng ta nhận ra rằng chúng ta có thể chinh phục được những khó khăn này bằng nỗ lực của mình để tìm lợi ích từ chúng một khi Chúa chỉ cho chúng ta biết cách phải làm thế nào. Thánh Phao-lô nhắn nhủ chúng ta “Thiên Chúa làm mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Kết quả là “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ…” (Rm 8,35-39)

Vậy thì bí mật dường như nằm ở chỗ: chúng ta tìm cách để luôn được kết hiệp với thánh ý của Thiên Chúa, làm những gì có thể, và đối diện với những tình huống được đặt ra; chúng ta đáp trả bằng tình yêu theo cách tốt nhất mà chúng ta có thể! Khi có thói quen làm như vậy, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng chúng ta thực sự không cần bất kỳ một sự thay đổi đột ngột nào trong cuộc đời của mình nữa!

 

Ngày 27/10

“Hãy tin cha, quên mình đi hơn là quên Chúa, hãy để ý kỹ đến từng chi tiết về lòng nhân từ của Ngài, về sự Quan phòng của Ngài trong hành động. Hãy để cho tình yêu của Ngài trở thành điểm khởi phát; sự vĩ đại của tình yêu ấy được thể hiện nơi sự bất xứng của chúng ta.” [Gửi cho bà Antoinette de Grandville, tháng 12/1867]

Người ta có thể nói rằng toàn bộ mục đích của đời sống tâm linh chính là học cách đánh mất hay quên đi chính mình để Đức Giê-su sống trong tôi và qua tôi. Tuy nhiên, thật không dễ để quên đi chính mình vì điều đó ảnh hưởng đến mọi thứ chúng ta quen thuộc. Thế nhưng, khi một người nào đó có thể đạt đến mức độ gạt bỏ chính mình, nghĩ đến người khác và cụ thể là Đức Giê-su thay vì chính mình, thì cuộc sống trên trái đất này sẽ trở nên một thiên đường vậy. Để làm cho việc thay đổi cá tính được dễ dàng, cùng với Đức Giê-su, chúng ta cần thường xuyên để ý kỹ đến những ưu phẩm tuyệt vời của Người.

Ban đầu, việc này đòi hỏi một nỗ lực có ý thức về phía chúng ta, nhưng nó có thể mau chóng trở thành một thói quen nếu chúng ta kiên trì thực hành. Trong mọi tình cảnh, chúng ta hãy trở về với Đức Giê su_Đấng đang hiện diện với chúng ta và bình tĩnh cầu xin Người đón nhận cùng hướng dẫn hành động của chúng ta trong tình cảnh ấy. Chẳng bao lâu khi chúng ta thực lòng dâng lên Người một cơ hội thì Người sẽ ra tay đón nhận và chúng ta sẽ kinh ngạc về sự khác biệt xảy ra trong đời sống thực hành của mình. Chúng ta cần thực hiện điều này, cụ thể là trong lúc cầu nguyện vốn là thời giờ quan trọng mà qua đó chúng ta không đánh mất bất kỳ một ân huệ quý giá nào mà Chúa Cha đã chuẩn bị cho chúng ta. Không phải lúc nào người ta cũng có thể đảm bảo rằng mình sẽ hoàn toàn cảnh giác và chú ý đến lời của Chúa Cha đang nói với chúng ta khi cầu nguyện, nhưng khi chúng ta cầu nguyện trong và qua Đức Giê-su, thì chúng ta có thể mong chờ những điều vĩ đại xảy ra.

Một chỗ quan trọng khác mà chúng ta cần trở về với Đức Giê-su đó là khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa, trong phần Phụng vụ Thánh Thể, trong suốt Kinh nguyện của Hội Thánh, hay thậm chí trong lúc cầu nguyện riêng. Điều quan trọng trong những lúc này đó là đón nhận sứ điệp chính xác mà Chúa mong ước trao cho chúng ta, cũng như đáp trả một cách tương xứng với sứ điệp đó. Tất cả việc này chỉ có thể xảy ra với sự trợ giúp và linh hứng của Chúa-Đấng đang hiện diện với chúng ta. Tình yêu của Ngài dành cho chúng ta đảm bảo cho chúng ta rằng Ngài sẽ chẳng bao giờ để chúng ta sa ngã. Thế nhưng, điều quan trọng là chúng ta hãy trở về với Ngài bằng niềm cậy trông, tình yêu, và chờ đợi sự hài lòng của Ngài.

Cách làm này không có ý nói rằng chúng ta không được dùng thời giờ và rắc rối để chuẩn bị cho việc cầu nguyện hay những hoạt động khác của chính mình. Đơn giản, điều đó chỉ có ý nói rằng sau khi làm tất cả mọi sự bằng sức lực của mình, chúng ta sẽ cầu nguyện với một sự sẵn sàng để thay đổi toàn bộ kế hoạch mà Chúa sẽ đòi hỏi chúng ta. Và đôi lúc, chúng ta thấy Ngài linh hứng cho chúng ta vào phút cuối, thử thách chúng ta để từ bỏ kế hoạch của mình và để cho Ngài dẫn dắt chúng ta trong việc cầu nguyện. Nếu chúng ta có thể lấy hết can đảm để cho Đức Giê-su trở thành người hướng dẫn của chúng ta trong những tình cảnh đó, chúng ta sẽ mau chóng hiểu rằng cần phải luôn luôn lắng nghe Ngài và bước đi theo sự chỉ dẫn của Ngài. Vào cuối buổi cầu nguyện, chúng ta nhận ra rằng bất cứ điều tốt nào có được trong lúc cầu nguyện đều là công việc của Ngài, chúng ta sẽ dễ dàng dâng lên Ngài lời ngợi khen và những lời tạ ơn mà không cần hướng đến bất kỳ điều gì ở nơi chúng ta. Thậm chí khi người khác tạ ơn và ngợi khen chúng ta vì việc cầu nguyện linh hứng chúng ta làm, chúng ta sẽ hướng tất cả những lời ngợi khen ấy về Đức Giê-su, là Chúa và là Thầy của chúng ta.

 

Ngày 28/10

“Thiên Chúa yêu thương chúng ta dù chúng ta nghèo nàn và bất trung, vì thế lòng biết ơn của chúng ta xứng đáng hơn tất cả; đó là phương tiện giúp con đứng dậy và can đảm... Con sẽ nhận ra những lỗi lầm của mình rõ hơn nơi lòng nhân từ của Thiên Chúa hơn là nơi chính bản thân con.” [Gửi cho bà Antoinette de Granville, 12/1867]

Nếu như lời diễn giải của cha Eymard trong lời khuyên này là Thiên Chúa yêu thương chúng ta dù chúng ta nghèo nàn, thì cũng có thể nói một cách chính xác là Thiên Chúa yêu thương chúng ta chúng ta là những người nghèo. Chẳng phải chính Đức Giê-su đã cảnh tỉnh chúng ta một cách nghiêm túc: “Nếu anh em không trở nên giống trẻ thơ, anh em sẽ không vào được Nước Trời.” (Lc 18,16). Nói cách khác, chúng ta phải hết sức nỗ lực để biến mình trở nên trẻ thơ, người bất lực, người cần giúp đỡ và cầu xin sự trợ giúp vốn không phải là xu hướng tự nhiên của chúng ta. Đặc biệt trong thời đại chúng ta, người ta thích được tự do và dùng những khả năng cũng như tài năng Chúa ban để hoàn thành công việc. Ở đây, cơ hội 22 dường như nằm ở chỗ: chúng ta, những con người, muốn ôm trọn cả sự tự do lẫn sự phụ thuộc cùng một lúc.

Được trao tặng những khuynh hướng tự cho mình là trung tâm, nhưng nếu chúng ta để cho những khuynh hướng ấy ảnh hưởng đến mình, thì rõ ràng chúng ta sẽ chỉ nhắm đến việc sử dụng những ân huệ nhằm đem lại lợi ích cho riêng mình mà thôi. Chính Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong chúng ta là Đấng luôn lôi kéo chúng ta hướng về việc từ bỏ Cái Tôi và đặt mọi ơn phúc của chúng ta vào việc phục vụ anh em mình. Vì thế, hình thức dường như là như vậy, như đã được thánh I-nha-xi-ô Lô-yo-la liệt kê quá rõ: “Khi bạn cầu nguyện, hãy cầu nguyện như thể mọi thứ phụ thuộc vào Thiên Chúa; nhưng khi bạn làm việc, thì hãy làm như thể mọi thứ chỉ lệ thuộc vào một mình bạn!” Ở đây, điểm nhấn mạnh đó là chữ “như thể”, có nghĩa là chúng ta biết rằng có một khía cạnh khác đối với từng phần của câu khẳng định này!

Do đó, để Chúa định đoạt đời mình thì không phải là quỵ lụy, nhưng là cách để nhận biết những kế hoạch Ngài dành cho chúng ta là gì, và lấy ra tất cả những nguồn lực mà chính Ngài đã đặt vào trong chúng ta.

Cộng tác với Thiên Chúa và người khác là nhiệm vụ không dễ chút nào đối với nhiều người. Thế nhưng, ngay cả những nhà khoa học nổi tiếng cũng như những con người ưu tú đã làm giàu cho xã hội vượt trên cả những ước mơ hoang sơ nhất của chúng ta, đã biết cộng tác với Thiên Chúa một cách có ý thức và quảng đại. Vì thế, chúng ta không cần hối hận vì đã có thái độ này trong cuộc sống, thay vào đó chúng ta nên tự hào rằng bằng cách này chúng ta hoàn thành kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa. Như Sách Sáng Thế đã chỉ ra cho chúng ta, lúc khởi đầu Thiên Chúa có ý định cho con người trở thành những cộng sự viên của Ngài khi Ngài nói với A-đam và E-và ‘Hãy làm chủ trái đất và... đặt tên cho loài vật...’ (St 1,28-30). Đây là những cử chỉ biểu tượng cho thấy Thiên Chúa đã để cho công trình sáng tạo vũ trụ dang dở và trao nhiệm vụ hoàn tất và làm đẹp ấy cho con người. Khi chúng ta thất bại trong nhiệm vụ này, Thiên Chúa không chối bỏ hay cằn nhằn chúng ta, mà Ngài đổi mới chúng ta và lại sai chúng ta hoàn tất nhiệm vụ này, vì không có sự cộng tác của chúng ta thì vũ trụ vẫn sẽ còn dở dang cho tới muôn đời. Nếu chúng ta có thể chấp nhận những thất bại của mình với một tinh thần biết ơn và không xấu hổ về chúng, nhưng biết đứng dậy, nhận thức chúng và chấp nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa trong tương lai, thì chúng ta lại không thể làm điều tốt cho xã hội sao!

Quả thực, tất cả những vĩ nhân thực sự thì cũng là những con người khiêm nhường. Họ là những cộng sự viên nổi tiếng, biết làm việc theo nhóm và không nhắm đến bất kỳ một lợi nhuận nào cho bản thân mình.

 

Ngày 29/10

“Một tâm hồn thuộc về Chúa sẽ tìm thấy toàn bộ đời sống mình theo hai quy luật sau: Thiên Chúa muốn như vậy hay Thiên Chúa không muốn như vậy. Sự hoàn hảo của tình yêu hệ tại ở việc làm mỗi công việc theo như Chúa muốn và theo Thần Khí của Chúa.” [Gửi cho bà Josephine Gourd, 12/1867]

Khi chúng ta chấp nhận và sống theo nguyên tắc đã được giải thích trong bài suy niệm trước, chúng ta sẽ không gặp khó khăn gì trong việc chấp nhận lời khuyên này của cha Eymard. Sau hết, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vũ trụ và Ngài có kế hoạch ngay từ ban đầu dành cho mỗi công trình sáng tạo của Ngài. Như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói: “Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương…” (Gr 29,11-14). “Ý định” của Thiên Chúa được ghi khắc thành những chữ cái in đậm trên tất cả công trình sáng tạo và ý định ấy khiến một người khôn ngoan thực sự có thể giải mã bài viết này cũng như tác phẩm này đến tác phẩm khác, hơn là không lệ thuộc vào kế hoạch và dự định của Thiên Chúa. Vì vậy, dường như sự căng thẳng xảy ra giữa chân thật và tình yêu, khôn ngoan và tự chủ. Cần phải dùng sự khôn ngoan ấy để phục vụ người khác vì lợi ích của họ! Vì vậy, không ai có thể trao ban bất kỳ một ơn phúc nào cho anh em mình nếu người ấy không thực hiện theo kế hoạch của Thiên Chúa và bằng tình yêu!

Trong mỗi nỗ lực, dù là về mặt tinh thần hay điều gì khác, thì kẻ thù nguy hiểm chính là Cái Tôi. Thế nhưng, Cái Tôi chỉ trở nên một mối đe dọa khi nó quy hướng đến sự yếu đuối, những giới hạn và những điều tiêu cực. Khi những điều này nổi lên, thì dĩ nhiên khuynh hướng tự nhiên là chúng ta sẽ thu vén bất cứ thứ gì chúng ta có thể nắm bắt để đề cao giá trị của cái Bản Ngã. Thế nhưng, ở đâu người ta không để cho mình nhận ra những giới hạn của bản thân thì quả thực phải xem lại! Vì thế, Thomas Edison đã trả lời cho một người hỏi ông rằng: “Ông đã thất bại 5000 lần trong những nỗ lực của mình để sản xuất ra bóng đèn điện phải không?” Ông đã điềm tĩnh trả lời rằng: “Không phải thế, nhưng tôi đã biết được 5000 cách mà bóng đèn điện không thể chế tạo!”. Thật là một điều vĩ đại nơi người đàn ông này mà ta có thể học hỏi, dù đã 5000 lần, ông ta không thể đạt được mục đích của mình! Và còn gì hơn nữa, ông tự nguyện thừa nhận thất bại và tiếp tục công việc của mình cho đến khi phát hiện ra cách làm đúng!

Nguyên tắc này áp dụng trong mọi trường hợp, thậm chí là cho chi tiết nhỏ nhất trong cuộc sống của chúng ta. Thật không may, chính chúng ta không chuyển trao sự khôn ngoan ấy cho nhiều người để ngày càng có nhiều người gặt hái được những thành tựu. Khi nguyên tắc này được chấp nhận và được sống, thì thử hỏi bạo động, hận thù, đổ vỡ… lại không tránh được sao? Quả thật, như Đức Giê-su đã nói với chúng ta “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14,11). Và sự khiêm tốn này cần có để đi đến cái hoàn hảo nếu người ta ao ước được nâng lên đến bậc cao nhất: “Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và ban tặng một danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu.” (Pl 2,5-11)

Vậy điểm mấu chốt đó là chúng ta đừng tự hạ thấp phẩm giá của mình khi cùng làm việc với Chúa, hơn nữa điều này cho phép chúng ta vươn đến tầm vóc cao nhất theo tính bẩm sinh của mình, điều vĩ đại mà Thiên Chúa ban cho! Con đường dẫn đến thành công vĩ đại nhất dường như không phải là “có-hay” (Thiên Chúa làm hay chúng ta làm, nhưng chỉ mình Ngài mà thôi) nhưng là “cả hai” (làm việc trong sự cộng tác hài hòa, mỗi bên đều mong chờ và đóng góp của cải cho nhau!). Thật khó, nhưng quả thực sự kết hợp đó không phải là không thể có.

 

Ngày 30/10

“Ân huệ lớn lao nhất chính là ân huệ về tình trạng nội tâm của chúng ta, tình trạng mà sau này sẽ trở thành hình thức và quy luật hoạt động của chúng ta.” [Gửi cho bà Josephine Gourd, 12/1867]

Sự vĩ đại thực sự của một người được ghi lại trong chuỗi cuộc đời của người ấy. Điều này dường như đã được hầu hết các tôn giáo đề cập đến, nhưng theo những cách thức khác nhau. Vì thế, nhiệm vụ của người ấy trong cuộc đời dường như bao gồm trước hết là việc phân định chính xác đâu là sứ vụ của mình trong cuộc sống này? Việc này có thể mất nhiều thời gian, không phải vì mật mã này khó bẻ, nhưng vì những trở ngại tự nhiên đối với chúng thật ghê gớm. Điều đó có nghĩa là Cái Tôi, vốn chỉ quy hướng về bản thân mình và sự thành công tức thời, sẽ cảm thấy khó khăn để thu được cảnh tượng bao la vào trong tầm nhìn của mình. Thứ đến, cảnh tượng dường như mở ra và cũng trải qua từng bước đau khổ. Vì thế, người ta cần kiên tâm, một đức tính rất khó trau dồi vì người ta đặt ưu tiên vào những kết quả “tức thời” và cũng vì cạnh tranh, một khát vọng thầm kín, muốn giành được trước khi người khác giành được, để sau đó lời ngợi khen và vinh quang sẽ thuộc về mình!

Vì thế, việc khám phá này, tự bản chất, gợi lại sự cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa hay kiểu mẫu đã được ghi khắc trong cuộc đời chúng ta. Khi có được một hình ảnh rõ nét về sứ vụ của mình trong cuộc đời này là gì, bấy giờ chúng ta sẽ cần phải làm việc để biến nó thành sự thật nhưng theo một cách thức tốt đẹp. Kinh nghiệm cho thấy có rất nhiều ngáng trở bày ra trên con đường đi tới thành công và những ngáng trở này cần phải được vượt qua từng bước một. Bên cạnh đó, nhiều dự án sống cần có sự làm việc và cộng tác theo nhóm giữa nhiều con người với nhau. Bấy giờ, mỗi người trong số họ sẽ trở thành một “vĩ nhân” trong lĩnh vực của chính mình. Cái khó là làm sao cho họ biết chấp nhận người khác, tôn trọng quan điểm và công việc của người khác tùy theo giới hạn của mỗi người, sự yếu đuối của người này sẽ được bù đắp bằng sức mạnh của người kia. Hơn thế nữa, nhóm ấy cần phải xác định rõ ràng vấn đề lợi ích hay thu vén cho cái tôi bắt nguồn từ đâu và như thế nào, cũng như làm thế nào để thực hiện một cách tích cực và đem lại ích lợi. Nơi nào có sự kết hợp này thì những điều lớn lao có thể xảy ra và toàn thể nhân loại sẽ tìm được ích lợi.

Chúng ta chỉ cần nhớ lại sự tiến bộ trong lĩnh vực y học ngày nay. Vô số những phương thuốc mới được khám phá và sản xuất vì con người là một tổng thể được chúc phúc. Thế nhưng ở đây, sự giả mạo, tính tham lam của con người, niềm tự hào dân tộc, và những thứ khác bày ra trên đường đi đang đe dọa giảm thiểu lời chúc phúc ấy thành một tai họa, ít ra là đối với người nghèo và người bất lực.

Bên cạnh đó, rất nhiều rào cản khác cần được làm sáng tỏ: những quy định của chính phủ, truyền thông đại chúng dường như gây cản trở và những kết quả sai lệch đi cả 1000, đặc biệt là cạnh tranh vì những lợi lộc lớn hơn, những mối bận tâm bên trong về tất cả những mối lợi, vì thế đặt ra vấn đề độc quyền và trốn thuế cũng như những bổn phận khác chẳng hạn như những bận tâm về sinh thái, “kẻ ăn bám”-những người muốn gia nhập vào một nhóm để có thể có nhiều hơn mà không cần đóng góp bất kỳ thứ gì, và một loạt những vấn đề khác, nói cho cùng, đều do con người làm ra!

Tất cả những điều này có khuynh hướng làm cho mỗi thành tựu của con người trở thành một nhiệm vụ của Herculean và giảm thiểu số lượng từ từ. Đó không phải là vô vàn những ơn phúc mà con người sẽ nhận được nếu tất cả mọi người thực sự làm theo kế hoạch của Thiên Chúa: “Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi...!” (Gr 29,11)

 

Ngày 31/10

“Cha khuyên con hãy thường xuyên đọc Sách Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước… Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa từ trong nguồn mạch thần linh của Sách Thánh.” (gửi cho cô Virgine Danion, 2/1867)

Chúng ta đã thấy trong một bài suy niệm trước đây, cha Eymard đã đặt ra cho chính mình quy luật là phải đọc hai chương Kinh Thánh mỗi ngày. Và dường như là cha đã trung thành với việc thực hành ấy, từ dữ kiện này suy ra rằng cha đã khuyên những người con linh hướng của mình cũng thực hành như vậy. Vào thời đại của chúng ta, chúng ta có được diễm phúc là được lắng nghe phần lớn các bài đọc Kinh Thánh trong phần Phụng vụ Lời Chúa mỗi khi tham dự Thánh Lễ. Vì vậy, đối với những ai tham dự Thánh Lễ hằng ngày thì sẽ không cần đọc thêm một đoạn văn nào từ Kinh Thánh! Tất cả những gì chúng ta cần làm là hấp thụ sứ điệp của những gì chúng ta đã đọc/lắng nghe trong Thánh Lễ.

Tuy nhiên, hầu hết các Ki-tô hữu tham dự Thánh Lễ hằng ngày ít khi để ý đến sứ điệp phong phú của từng ngày dành cho chúng ta! Vì một lý do duy nhất là hiếm khi có một chút giây phút thinh lặng nào sau mỗi bài đọc, và thậm chí ở những chỗ cần phải giữ thinh lặng, câu hỏi được đặt ra là: người ta làm gì trong suốt thời gian thinh lặng đó? Bên cạnh đó, có bao nhiêu người biết rằng ý tưởng chính của bài đọc một trong Thánh Lễ thì luôn luôn phản ảnh và được mở rộng trong phần Thánh vịnh Đáp ca? Trong khi đó, hầu hết mọi người chỉ thấy Bài đọc ấy cũng giống như bao bài đọc khác, bài đọc ấy được sắp đặt và mang ý nghĩa trở thành một bài suy niệm về sứ điệp của Bài đọc một. Nơi đâu giây phút thinh lặng được tuân giữ sau bài đọc Sách Thánh và phần Thánh vịnh đáp ca được thực hiện một cách hợp lý, thì chúng ta có thể đoan chắc rằng Lời Chúa sẽ trở thành lương thực hằng ngày của chúng ta, giúp đào sâu và phát triển đức tin cũng như những lời đáp trả đầy tình thương của chúng ta trong suốt ngày sống.

Hơn thế, nếu chúng ta biết rằng sau tất cả các bài đọc trong Thánh Lễ, có một câu hỏi mà Thiên Chúa đang đặt ra cho mỗi người tham dự: ‘con có biết Ta yêu con dường nào không?’ và nếu mỗi người tự tìm cách để trả lời câu hỏi này, thì quả thực điều đó sẽ làm cho việc hiểu biết Kinh Thánh của chúng ta trở nên khác lạ! Kinh Thánh đơn giản chỉ là một câu chuyện kể về tình yêu không thể tin nổi của Thiên Chúa dành cho con cái Ngài được thể hiện qua 1000 cách khác nhau, quả thực là đáng giá vì tình yêu ấy quá phong phú và mãnh liệt. Thế nhưng, điều sau cùng mà dường như chúng ta nhận thấy trong các bản văn Kinh Thánh đó là: tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta; chúng ta dễ dàng hiểu được những thực hành luân lý và những điểm khác đến nỗi thật ngạc nhiên vì làm thế nào chúng ta lại có thể đui mù như vậy! Thế nhưng, những ai được Thiên Chúa soi dẫn thì khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa trong Kinh Thánh và đáp lại Tình yêu ấy trong suốt ngày sống của mình. “Khi còn một mình Đức Giê-su, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ ngôn. Người nói với các ông: “Phần anh em, mầu nhiệm Nước Trời đã được ban cho anh em, còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ.” Người còn nói với các ông: “Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất cả các dụ ngôn?” (Mc 4,10-13)

Quả thật, khả năng hiểu biết Lời Chúa là một ân huệ cao quý được ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ ít người đón nhận và thưởng thức được Lời ấy!

 Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, SSS

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.