365 Ngày Với Cha Thánh Eymard – Tháng 7

365 NGÀY VỚI CHA THÁNH EYMARD – THÁNG 7

 

Ngày 1/7

“Nước Trời chính là đích đến của chúng ta; còn thế gian này chỉ là chốn lưu đày mà thôi.” [ ]

Ngôn ngữ mà cha Eymard dùng ở đây chắc chắn là phù hợp với thời đại của ngài. Và hầu hết những ai đã dùng những thuật ngữ này sẽ vẽ ra hình ảnh “Nước Trời” như “đang ở đó”; hay ít ra là một điều gì đó chỉ có thể đạt được sau khi rời khỏi thế gian này. Những ai có được vinh dự đón nhận giáo huấn của công đồng Va-ti-ca-nô II sẽ nhận ra rằng vào thời của chúng ta Nước Trời sẽ là mục tiêu của chúng ta, chứ không phải là một nơi chốn, nhưng là một ân huệ được ban cho mỗi người ở đây ngay trên mặt đất này. Thiên Chúa mời gọi con người đi sâu vào mối tương quan giao ước với Người, qua đó Người trở thành Thiên Chúa của họ và họ trở thành dân của Người. Không hề là một “nơi chốn”, mà đúng hơn, Nước Trời chính là một mức độ tương quan với Thiên Chúa cách thân mật và đầy yêu thương.

Khi một ai đó bước vào Giao Ước với Chúa Cha, người ấy không chỉ nên một với mỗi Ngôi Vị của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng như một hệ quả tất nhiên, ít ra là mọi người sẽ trở thành anh chị em của người ấy, và tất cả được mời gọi sống trong sự hòa hợp và yêu thương. Nói cách khác, Nước Trời của chúng ta là chính nơi đây, ngay trên mặt đất này, và Nước Trời ấy chứa đựng một phẩm chất mới và khác biệt của sự sống. Đức Giê-su thách đố chúng ta về một lối sống mới và thay đổi mà trong đó mỗi người sống không phải cho chính mình qua việc tách biệt và quan tâm đến cái tôi, nhưng với một sự rộng mở và quảng đại với tất cả mọi người. Nền tả ng và lý do giải thích cho điều này thì quá rõ: Nếu Thiên Chúa ban cái tôi vô biên của Người cho chúng ta qua Giao Ước, chúng ta còn thiếu thốn gì nữa? Tại sao trong trường hợp này, người ta lại cảm thấy cần dành dụm (tích trữ) cho tương lai hay những lúc khó khăn? Tình yêu Thiên Chúa luôn luôn đảm bảo, ngay cả khi chúng ta sa ngã hay phạm tội, rằng dân giao ước sẽ không sống trong sợ hãi và thói tham lam, nhưng trong sự từ bỏ chính mình và trong tình yêu.

Họ đón nhận lời Chúa khi Người nói ‘ngay cả tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi. Vì thế, đừng sợ; vì anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ’ (Mt 10,30-31), vì thế mối bận tâm của họ không phải là chính họ. Nhưng họ cảm nghiệm được sự tự do bên trong để suy nghĩ về những nhu cầu của người khác, và quảng đại đến với những người này. Nếu như họ xem cuộc sống trên trần gian này chỉ như một “cuộc lưu đày”, thì họ sẽ không thể hưởng trọn ơn phúc là được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Nhưng họ ý thức sâu sa rằng sự thân mật này chính là quyền được sinh ra vì đây là ân huệ của Thiên Chúa dành cho họ, và một ngày nào đó họ sẽ tận hưởng một cách trọn vẹn. Do đó, họ không cần hối tiếc ở thế gian này. Thay vào đó, họ vui mừng mỗi khi họ được chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa với người khác một cách quảng đại như chính họ đã nhận được. Họ dùng tự do nội tâm để có thể sáng tạo và năng động trong việc tìm ra những cách thức mới hơn và tốt hơn để chia sẻ với người khác, cụ thể là tự nguyện trao ban cho người khác mà không cần để ý đến bản thân mình. Và nếu sự trao ban ấy chứa đựng đau khổ, họ cũng vui mừng đón nhận một cách xứng đáng vì danh Chúa (Cv 5,41). Đối với các Ki-tô hữu, mỗi ngày là một ân phúc mà Chúa Cha ban cho, và đối tượng của họ chính là làm cho mọi tình cảnh trở nên một ân phúc cho người khác.

 

Ngày 2/7

“Những người sống ơn gọi giữa đời làm việc nhiều hơn chúng ta” [ ]

Một trong những điểm nổi bật của cha Eymard đó là cha nhận thức sâu sắc về việc Thiên Chúa đã chúc phúc cho cha rất nhiều. Cha thường nói “Đức Giê-su đã hoàn toàn hiến ban chính mình Người cho tôi nhờ Thánh Thể, vì thế tôi cũng ao ước dâng trọn đời mình cho Người nhờ Thánh Thể”. Dĩ nhiên, những từ khóa trong lời khẳng định này là “chính Người” và “hoàn toàn”. Điều mà Đức Giê-su trao ban cho chúng ta không phải là một “thứ gì đó” chóng hư nát hay có sẵn ở một nơi nào đó; nhưng Người trao ban cho chúng ta chính Người một cách “trọn vẹn”, không chỉ một chút nhưng là tất cả. Một chút suy tư cũng đủ để thuyết phục người ta rằng ân huệ cao quý ấy chỉ có thể phát xuất từ một sự kính trọng và tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người.

Lời đáp trả dành cho sự trao ban một cách quảng đại và toàn tâm toàn ý này chỉ có thể là một quà tặng tương tự ngay trong chính đời sống của người ấy, quà tặng ấy được trao ban một cách đầy yêu thương và trọn vẹn! Thế nhưng hơi kỳ lạ và trớ trêu thay, dường như những người theo ơn gọi tu trì, nói chung, lại là những người đáp trả lại lòng bao dung của Thiên Chúa một cách hời hợt nhất! Trong khi những người sống “ơn gọi giữa đời” dường như lại là những người tỏ lòng biết ơn đối với những ân huệ của Thiên Chúa nhiều hơn, và do đó họ thường đáp trả một cách quảng đại và mau mắn hơn. Thường thì, hoàn cảnh sống của họ đầy dẫy những đòi hỏi khắt khe và nhiều ngáng trở hơn, thế nhưng món quà mà họ dâng lên Thiên Chúa quả thực là một điều gì đó quý giá và xứng đáng trước mặt Ngài.

Tại sao các tu sĩ nói chung thường thất bại trong vấn đề này? Có thể là họ có khuynh hướng nhận mọi thứ được ban tặng vì nghĩ rằng họ có quyền lãnh nhận những ân huệ từ Thiên Chúa? Hay là vì họ nghĩ rằng họ đã dành cho Thiên Chúa một ân huệ qua việc dâng hiến cuộc đời mình để phục vụ Người? Có lẽ họ nghĩ rằng họ đã hy sinh rất nhiều cho Chúa rồi, thì bây giờ họ phải được đền bù chứ? Cho dù là lý do gì đi nữa, thật là ý nghĩa khi biết rằng cha Eymard cũng cảm thấy anh chị em giáo dân của chúng ta thường quảng đại hơn những tu sĩ đã được thánh hiến. Nhưng, người tu sĩ Thánh Thể đã dâng hiến cuộc đời cho Thánh Thể, Bí tích tạ ơn, phải là một con người có lòng biết ơn. Họ là người nhận ra sự thiếu thốn của mình và do đó họ nhìn mọi thứ như một ân huệ, một ân huệ được ban tặng một cách tự nguyện và không cân xứng mà không một lời tạ ơn nào có thể tương xứng và đầy đủ được. Do đó, mỗi Thánh lễ đều nhắc nhở cho chúng ta biết rằng “thật là chính đáng để dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn mọi lúc và mọi nơi”

Thực tế, người tu sĩ Thánh Thể phải bỏ rất nhiều thời gian để trau dồi nhân đức biết ơn, không chỉ diễn tả bằng lời và những biểu tượng trong suốt việc cử hành, nhưng còn qua hành động và cuộc đời của họ trong suốt cả ngày sống nữa. Người ấy phải tạ ơn Thiên Chúa trước tiên, cũng như cám ơn những anh chị em của mình và sẽ làm đủ mọi cách để cám ơn người khác một cách tương xứng. Vì thế, trọn cuộc đời của người ấy sẽ trở thành một bài ca tạ ơn liên lỉ.

Trao ban Máu Thịt cho con người như một của ăn, Chúa Giêsu muốn chúng ta thực sự đón nhận chính Người.

 

Ngày 3/7

“Em đã nhìn thấy nhiều đền thờ rất trang nghiêm, nhưng em không bao giờ thấy một nơi nào đó giống như Laus… nơi cô tịch, sa mạc, rừng rậm… những nhà thờ nhỏ… chuẩn bị tâm hồn xa tránh thế gian. Nó giống như sa mạc dành cho dân Do Thái. Em luôn luôn nhớ… em đã từng cảm thấy trái tim mình rung động vì vui sướng và khát mong khi nhìn thấy ngôi nhà thờ của những phép lạ và ân sủng… Đó là nơi em đã nhận được ơn gọi của mình từ bàn tay của Đức Trinh Nữ diễm phúc” [Gửi cho chị Marianne Eymard và Nanette Bernard, tháng 6/1842]

Đền thờ này có một sức hấp dẫn đối với cha Eymard ngay từ những ngày đầu tiên, điều này thể hiện quá rõ ngay trong câu khẳng định ở trên. Bên cạnh đó, bầu khí tự nhiên dành cho việc cầu nguyện và việc dâng mình là điều mà đền thờ này có thể cảm thấy tự hào, ý nghĩa tâm linh của đền thờ này là rất cao. Trong tâm trí của cha Eymard, đền thờ ấy được xem như sa mạc mà dân Ít-ra-en phải lữ hành qua để đến gần Thiên Chúa. Tách biệt chúng ta khỏi tất cả những xao động mà chính những người xung quanh chúng ta thường gặp phải, một nơi như Laus buộc người ta phải xem xét đến vai trò của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Đền thờ ấy mời gọi mọi người khám phá Thiên Chúa cũng như những điểm nổi bật của Người. Những gian khổ của nơi đây khiến họ nhận ra rằng mọi thứ và mọi người khác sẽ làm họ thất bại, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn ở lại trong cuộc đời họ như “Gia-vê, Đấng trung thành!” Thực tế, những gì họ bị tước đoạt khiến họ nhận ra rằng “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,2).

Hơn nữa, chúng ta nhận ra rằng Gia-vê quả thực là Thiên Chúa, Thiên Chúa luôn luôn hiện diện; và Người hiện diện ở khắp mọi nơi, Người hiện diện một cách chủ động. Đặc biệt, Người không bao giờ thờ ơ hay không quan tâm gì đến những khó khăn và đau khổ của dân Người, một dân đã ký kết giao ước với Người. Hơn nữa, hành động của Thiên Chúa luôn luôn là hành động cứu độ. Người không phải là vị Thiên Chúa phá đổ công trình do tay Người làm nên… “Cây lau bị giập Người không nỡ bẻ gãy, tim đèn leo lét chẳng nỡ tắt đi…” (Is 42,2-4). Vả lại, Người cứu những con người bị áp bức, những nạn nhân của bất công và suy đồi, nhưng Người vẫn là vị Thiên Chúa hoàn toàn tự do, Đấng sẽ đến để cứu thoát dân Người. Khi chọn lựa làm điều đó, Người không thể bị tác động bởi bất cứ ai! Và nói chung, Người can thiệp vào giây phút cuối cùng, khi mọi sức mạnh của con người đều trở nên vô dụng.

Tuy nhiên, cũng đáng để lưu ý rằng ngày nay, chúng ta không cần đi đến những đền thờ và đất thánh xa xôi để khám phá ra Thiên Chúa. Thiên Chúa, cũng chính là vị Thiên Chúa đã tương giao với dân Ít-ra-en, sẽ mặc khải chính Người cho chúng ta ngay trong cung lòng mình, trong Phòng Tiệc Ly Nội Tâm, nơi Người cư ngụ và hằng mời gọi chúng ta đến và cảm nếm tình yêu của Người “Hãy đến cùng tôi, hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi; vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách của tôi thì êm ái, và gánh tôi thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Điều cần thiết là chúng ta phải để ý đến sự hiện diện của Thiên Chúa như cô Ma-ri-a đã hoàn toàn để ý đến vị Thượng khách, chứ không phải như cô Mát-ta quá tất bật với những công việc để tìm cách làm vui lòng Người. Khi chúng ta khám phá ra kho tàng quý giá này, Phòng Tiệc Ly Nội Tâm, chúng ta sẽ khám phá ra kho tàng đích thực của mình và sẽ sẵn sàng từ bỏ mọi sự khác!

 

Ngày 4/7

“Khi chúng ta làm việc mệt nhọc, chúng ta phải ăn uống cho đầy đủ. Thật là vui khi chúng ta có thể rước lễ thường xuyên! Đó chính là sự sống và sự nâng đỡ của chúng ta trong cuộc đời này. Hãy năng rước lễ nhé, và Đức Giê-su sẽ biến con trở nên chính Người.” [Gửi cho bà Grisaud, tháng 1/1855]

Phần đầu tiên trong lời chú thích của cha Eymard mang một ý nghĩa phổ quát, vì không ai có thể lao động vất vả mà đồng thời lại không bồi bổ một cách tương xứng cho bản thân mình. Nhưng có lẽ đây là điều mà chúng ta cần dừng lại để suy nghĩ, hãy tưởng tượng xem nhờ ăn nhiều thức ăn bổ dưỡng mà người ta sẽ khỏe lên và có thể làm việc chăm chỉ. Thực ra, không phải chính khối lượng thực phẩm chúng ta dùng mới tạo ra sự khác biệt giữa sự yếu mệt và khỏe mạnh. Điều quan trọng hơn đó là người ta có thể tiêu thụ và hấp thụ những thức ăn mà người ta đã dùng, và vì việc tập thể dục thường xuyên là một điều bắt buộc. Và điều này cũng được áp dụng đối với của ăn Thánh Thể mà Chúa đã để lại cho chúng ta nơi Nhiệm Tích Tình Yêu của Người.

Kinh nghiệm thường tình cho thấy hầu hết các giáo dân ở mỗi giáo xứ là những người thường xuyên đi tham dự Thánh lễ mỗi ngày, họ sẽ không bỏ lỡ việc cử hành Thánh Thể hằng ngày, nhưng dường như họ bị soi xét tỉ mỉ về những lỗi lầm và thất bại cũ kỹ qua nhiều thập kỷ, việc cử hành Thánh Thể của họ không tạo nên sự khác biệt ngay trong đời sống thường nhật của mình. Lý do giải thích cho điều này có thể là họ chỉ thỏa mãn với việc cử hành Thánh Thể bề ngoài như thể việc cử hành ấy đem lại cho họ sức mạnh mà họ đang cần và có thể là đang tìm kiếm! Vì Thánh Thể tạo nên sự khác biệt trong đời sống chúng ta, cụ thể là chúng ta cần phải thực hành việc chết đi cho Cái Tôi. Bánh cần được bẻ ra trước khi ăn, vì thế nếu không hoàn toàn chết đi cho Cái Tôi qua những biểu hiện của nó trong đời sống chúng ta, và cho dù chúng ta có thể cử hành bao nhiêu Thánh lễ đi chăng nữa, thì sẽ chẳng có sự khác biệt đáng giá nào bao lâu chúng ta không biết quan tâm đến việc phải trở nên giống Đức Ki-tô hơn.

Do đó, nếu việc cử hành của chúng ta không nối kết với sự nhận thức về “vườn Giệt-si-ma-ni”, nơi đó chúng ta phải vật lộn với việc làm theo ý muốn của Thiên Chúa, nếu chúng ta không sẵn lòng để làm cho Đức Giê-su trở thành tâm điểm của cuộc đời chúng ta, cho đến khi chúng ta thực sự trở nên tấm bánh bẻ ra vì lợi ích của người khác, thì Thánh Thể mà chúng ta cử hành sẽ vô ích, như thánh Phao-lô đã nói trong thư thứ nhất gửi Cô-rin -tô, chúng ta có thể ‘ăn và uống án phạt mình’. Do đó, điều quan trọng được thêm vào lời khẳng định của cha Eymard đó là: việc ăn và uống tại bàn tiệc Thánh Thể phải bao hàm một ước vọng thực sự là trở nên giống Đức Giê-su, trong mọi lúc sẵn sàng gạt bỏ ý riêng của mình sang một bên và thi hành những gì Thiên Chúa muốn chúng ta làm. Và có lẽ đây là nhu cầu cấp thiết, bao lâu chúng ta còn quan tâm đến nó. Vì việc cử hành của chúng ta không thiếu sự sáng tạo cũng như sức lôi cuốn, điều đáng buồn là việc cử hành ấy thiếu đi sự nhận thức về ý nghĩa đích thực của việc làm mang tính biểu tượng: Bẻ bánh và chia sẻ Chén rượu!

Bánh Thánh Thể không phải là một phần thưởng mà Đức Giê-su trao ban cho chúng ta để giúp chúng ta trở nên tốt, nhưng đúng hơn đó là động lực thúc đẩy và thách đố để chúng ta ra đi nhân danh Ngài và quy tụ những con chiên lạc, ngay cả khi có đôi lần chính chúng ta cũng lại còn phải trả giá nữa đấy.

 

Ngày 5/7

“Hoa trái của cầu nguyện và ân phúc thì luôn luôn vĩ đại và thánh thiện. Hãy tiếp tục van nài, khẩn cầu, kêu gào lên Thiên Chúa: Điều đó được phép và thậm chí còn được xem là việc tôn vinh Thiên Chúa Nhưng bà thân mến, đừng đem lại sự buồn phiền, ưu sầu, vì điều nghĩa là đánh mất bình an, gây nguy hại đến lòng đạo đức của bà, và làm suy giảm niềm cậy trông của bà vào Thiên Chúa” [Gửi cho bà Mathilde Girand-Jordan, tháng 1/1866]

Ở đây, một lần nữa cha Eymard đưa ra quan điểm là: hành động của Thiên Chúa và sự cộng tác toàn tâm toàn ý của chúng ta sẽ gặp nhau. Quả thật, Thiên Chúa luôn luôn khởi xướng trong đời sống thiêng liêng vì chính Người mời gọi chúng ta, Người đến gần chúng ta. Tuy nhiên, Người luôn nhắn nhủ chúng ta “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Không chỗ nào trong Tin Mừng mà chúng ta thấy Đức Giê-su áp đặt quyết định của Ngài lên người khác, Ngài luôn luôn mời gọi và chờ đợi câu trả lời của chúng ta. Vả lại, mọi lời mời gọi của Ngài đều có điều kiện “ai muốn làm môn đệ Thầy, phải vác thập giá mà theo Thầy…” (Lc 14,27).

Đôi lúc, sự nỗ lực mà chúng ta bỏ ra lại phụ thuộc vào một điều gì đó hơi tiêu cực, như cha Eymard đề nghị trong lời trích dẫn này là đừng đem lại nỗi ưu sầu. Thực ra, ở đây hầu như cha lập lại những lời mà chính Đức Giê-su đã khuyên nhủ chúng ta “Lòng anh em đừng xao xuyến! Anh em tin vào Thiên Chúa thì cũng hãy tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, sao Thầy lại nói với anh em là Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,1-3). Những lần khác, Ngài lại cần chúng ta phải làm một điều gì đó tích cực: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh mà cho người nghèo, anh sẽ có được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21)

Dù là tích cực hay tiêu cực, nhưng nếu không có sự cộng tác toàn tâm toàn ý từ phía chúng ta, thì không thể có giao ước được. Vì giao ước chính là một sự chấp nhận tự nguyện, thân thương lời mời gọi của Thiên Chúa để được chia sẻ sự sống với Người! Nếu không có sự trao hiến chính bản thân chúng ta cho Thiên Chúa như Người đã trao ban chính mình cho chúng ta, thì sẽ không thể có một giao ước thực sự được. Thật không may, vì nhiều người không hiểu được khía cạnh này của Giao Ước, nên họ đánh mất đi sự bình an và niềm vui sâu thẳm mà sự hiệp thông với Thiên Chúa đem lại cho chúng ta. Thực ra, chúng ta càng đánh mất chính mình một cách có ý thức và có mục đích, thì chúng ta càng tìm lại được, vì Thiên Chúa luôn luôn trung tín với Giao Ước của Người, Người ban cho chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta có thể lãnh nhận, đòi buộc chúng ta phải hóa mình ra không, ít ra là so với những gì mà Người ban cho ta. Thánh vịnh 81 khẳng định một cách mạnh mẽ khi viết: ‘Dân Ta hỡi, nghe Ta cảnh cáo, Ít-ra-en này, phải chi ngươi chịu nghe Ta, thì đừng đem thần lạ về nhà, thần ngoại bang, chớ hề cúng bái. Chính Ta là THƯỢNG ÐẾ Chúa ngươi, đã đưa ngươi lên từ miền Ai-cập, há mi ệng ngươi ra, Ta sẽ cho đầy ứ. "Nhưng dân Ta đã chẳng nghe lời, Ít-ra-en nào đâu có chịu”’ (Tv 81,9-12).

Tóm lại, những thỉnh nguyện của chúng ta phải đi kèm theo việc sẵn sàng đón nhận lời Chúa!

 

Ngày 6/7

“Hãy trở thành tông đồ của Nhiệm Tích Thánh Thể, như một ngọn lửa cháy sáng và sưởi ấm, như Sứ giả của Thánh Tâm Ngài, sẵn sàng ra đi loan báo cho những ai chưa nhận biết Ngài và động viên những ai yêu mến Ngài cũng như những ai đang gặp đau khổ” [gửi bà Antoinette de Grandville, tháng 7/1859]

Nét nổi bật trong cuộc đời của cha Eymard chính là việc cha nhận ra ý nghĩa thực sự của Thánh Thể trong đời sống của một người Ki-tô hữu. Cha đã ý thức thâm sâu về trọng tâm của Thánh Thể cũng như những lời của Đức Giê-su “Chính Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm được gì. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và khô héo. Người ta thu lượm các cành ấy, quăng vào lửa cho cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và các lời của Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15,5-7). Sự nhận ra này như một ngọn lửa thiêu đốt xương cốt của cha, và cha luôn tìm kiếm những tông đồ nhiệt thành để đem sứ điệp tình yêu của Đức Giê-su đến cho mọi người trên trần gian.

Và trong sứ điệp mà cha ao ước truyền tải, chính tình yêu Thiên Chúa luôn luôn động viên, thậm chí ra lệnh cho những người hay phạm tội biết quay trở về với nguồn mạch tình yêu và an bình! Cha Eymard không bao giờ tìm cách ép buộc người ta quy phục Chúa Cha, vì từ kinh nghiệm cha biết rằng con người thời đại của cha quá quen với cách thức cũ nên sự sợ hãi sẽ không còn thu hút họ cho bằng tình yêu quảng đại của Chúa Cha và Con của Ngài, Đấng cứu độ chúng ta! Nhưng nếu người ta trở thành những tông đồ nhiệt thành của tình yêu, trước hết chính họ phải cảm nghiệm được thực tại của tình yêu ấy; chính họ phải biết rằng tình yêu Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với tình yêu của con người, tình yêu ấy sẽ biến đổi con người như thế nào khi con người biết đón nhận tình yêu bằng cả tấm lòng cũng như bằng một tinh thần của đức tin khiêm hạ! Cha Eymard nhận thấy rằng tình yêu này luôn được ban phát cho chúng ta một cách dồi dào nơi Thánh Thể, thứ đến là khi con người biết liên kết với tình yêu ấy, như cây nến với ngọn lửa, thì chính Đức Giê-su sẽ làm mọi sự! Sau hết, sứ vụ của Người đó là đem tất cả mọi người trở về cùng Chúa Cha, và tất cả mọi người đơn giản chỉ là những dụng cụ của Người trong nhiệm vụ cao cả này.

Hơn thế, cha Eymard ý thức một cách thâm sâu rằng khi mọi sự diễn ra một cách êm xuôi “thuận buồm, xuôi gió” hay “xuôi chèo, mát mái”, hầu như mọi người sẽ không còn cảm thấy cần đến Chúa trong cuộc đời mình nữa. Chỉ khi nào chúng ta gặp đau khổ, khi chúng ta cảm thấy bất lực trong cuộc đương đầu với đau khổ và sự dữ, bấy giờ chúng ta mới tìm kiếm sự trợ giúp từ một quyền năng mạnh mẽ hơn chính chúng ta, đó chính là lúc chúng ta xúc phạm đến tình yêu nhất. Bấy giờ, trong tình huống đó, chẳng ích gì khi phải la rầy và khiển trách người khác, dù cho họ có sai lỗi đi nữa. Như thánh Phan-xi-cô đờ San đã nói “người ta có thể bắt được nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật ong, hơn là cả một thùng dấm”. Vì thế, chính việc cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa mới là phương thuốc duy nhất chữa lành tất cả những căn bệnh của xã hội đương thời của chúng ta. Chìm đắm trong đại dương của Cái Tôi, chúng ta chỉ có thể ngày càng bị chôn vùi trong đó cho đến khi ai đó đem đến cho chúng ta một sự cảm nếm về tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa.

Thật là một lời mời gọi tuyệt vời dành cho chúng ta để cảm nếm được tình yêu này “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy; hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người. Kính sợ Chúa đi, đoàn dân thánh hỡi. Vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi... còn kẻ tìm kiếm Chúa chẳng thiếu của gì. Các con ơi, hãy đến mà nghe, Ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ Chúa’ (Tv 34,8-11). Khi chúng ta cảm nếm được tình yêu này, chúng ta sẽ dễ dàng chuyển trao tình yêu ấy cho người khác.

 

Ngày 7/7

“Giờ đây, xin hãy cầu nguyện cho tôi để tôi có thể đáp lại ơn gọi tuyệt vời này; tựa như lễ vật hy sinh, tôi có thể đánh mất sự sống, bản chất, cá tính của mình để được biến đổi trong thần khí và sự sống của Đức Giê-su; chỉ giữ lại dáng vẻ bên ngoài, sự khiêm hạ và nghèo khó của một con người, để nhân đức của Đức Giê-su có thể ở lại nơi những yếu đuối của tôi” [Gửi cho bà Clotilde Tholin-Bost, tháng 5/1856]

Có lẽ bí mật trong cuộc đời can trường và sứ vụ của cha Eymard chính là việc cha nhận ra giá trị của ơn gọi Thánh Thể. Như một ngọn lửa của tình yêu đang bốc cháy soi dọi giữa bóng đêm của sự hy sinh quên mình và sự tự lên án theo kiểu Giăng-xê-nít, cha bị đè nặng bởi những trọng trách nặng nề được trao phó cho mình. Cha biết những giới hạn của mình, nên đã cầu xin lời cầu nguyện của người khác để cha có thể đương đầu với thử thách mà ơn gọi này đặt ra trước mặt cha. Thế nhưng, chưa bao giờ cha tìm cách làm xoa dịu mọi chuyện bằng việc biện minh cho những khuyết điể m của mình. Đúng hơn, cha phân chia công việc của ba người cho bốn người, và điều này luôn luôn đem lại cho cha nhiều cơ hội để đem thông điệp của tình yêu Thiên Chúa về nhà.

Tuy nhiên, sự nhận thức sâu sắc này đã tác động đến cha, đó là: không phải là bao nhiêu công việc cha đã thực hiện được, nhưng chất lượng cuộc sống mới làm nên sự khác biệt. Cha biết rõ là nếu cha không trở nên lễ vật hy sinh, như cha đã nói, thì những gì cha nói và làm đều không ảnh hưởng gì đến người khác. Vì thế, cha đã tìm cách trở nên giống Đức Giê-su vì chính Đức Giê-su đã trở nên sứ giả và hơn thế nữa là trở nên Bí tích tình yêu của Chúa Cha! Như Đức Giê-su đã trở nên thân thể tươi sống cho tình yêu của Chúa Cha, thì cha Eymard cũng tìm cách để trở nên mình và máu cho tình yêu Thiên Chúa.

Ban đầu, cha luôn đổ lỗi cho những khiếm khuyết và thiếu sót, nhưng cha mau chóng nhận ra rằng điều này luôn luôn thuộc về bản chất của cha, nhưng nó sẽ chỉ là những hình thức bên ngoài mà nhờ đó cha sẽ trở nên giống Đức Giê-su. Bao lâu cha có thể chấp nhận những giới hạn và sự khiêm hạ bên ngoài do những khiếm khuyết và thiếu sót mang đến, thì khi ấy cha mới có thể giới thiệu về Đức Giê -su với ý tưởng quà tặng bản thân, để qua cha, Đức Giê-su tiếp tục hành động và lôi kéo mọi người vào vương quốc của Ngài. Cha đã sống lời mà thánh Phao-lô viết: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20)

Cũng như chúng ta tìm cách thực hiện dự án là trở thành tấm bánh mà nhờ đó Đức Giê-su tiếp tục nuôi dưỡng dân Ngài, không nghi ngờ chi nữa, cha Eymard đã bắt đầu dự án này với nhiều nỗ lực được hỗ trợ bởi Bản Ngã. Cha mau chóng nhận ra rằng có một con đường còn tốt hơn, đó là để cho Thần Khí hoạt động nơi cha và dẫn dắt cha từng bước. Dĩ nhiên, đây chính là con đường Thánh Thể mà cha hằng ôm ấp cho đến khi cha đạt đến quà tặng bản thân qua lời khấn nhân cách mà cha thực hiện trong đợt tĩnh tâm cuối cùng ở Rô-ma. Mặc dù cha không áp đặt lời khấn thứ tư này cho các tu sĩ của cha, nhưng cha ước muốn rằng tất cả các tu sĩ một ngày nào đó sẽ đạt đến những tầm cao này, để dâng cho Đức Giê-su một công cụ hoàn hảo hầu tiếp tục công trình cứu độ của Ngài.

 

Ngày 8/7

“Chúng ta không cảm nhận được gió trong một căn nhà đóng kín. Một tâm hồn biết cách ở lại trong Chúa Giêsu sẽ không cảm thấy sợ hãi những cơn bão tố. Hãy cố gắng để đạt tới sự cư ngụ dấu yêu này… Chúng ta ở lại trong Chúa Giê-su bằng cách nào? Bằng việc yêu mến thánh ý đáng tôn thờ và đáng mến của Người; bằng việc chiêm niệm về sự tốt lành vô biên của Người, sự tốt lành luôn luôn đổ tràn trên chúng ta. Ôi! Chúng ta thật hạnh phúc khi sống trong bầu khí thánh thiêng này.” [Gửi cho bà Mathilde Giraud-Jordan, tháng 11/1862]

Lời giải thích này của cha Eymard được xem là trái ngược với bối cảnh của những mùa đông khắc nghiệt diễn ra ở Châu Âu. Thậm chí khi bên ngoài trời lạnh giá buốt, người ta vẫn có thể cảm thấy dễ chịu khi ở trong nhà, cho dù không có một lò sưởi đi chăng nữa, vì bầu khí gần gũi vẫn tạo ra sự ấm áp dù bên ngoài có một cơn bão đang gào thét. Phát xuất từ kinh nghiệm về đường thiêng liêng, cha Eymard mời gọi chúng ta thử tưởng tượng xem chúng ta sẽ cảm thấy ấm áp và dễ chịu thế nào khi ở lại trong Đức Giêsu. Chúng ta sẽ nhận được hơi ấm của tình yêu Thiên Chúa để làm cho mình cảm thấy dễ chịu, và những ai chọn lựa để ở lại trong Đức Giêsu đều có thể mong chờ như thế. Thực ra, Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến chính xác là để trao ban cho chúng ta một kinh nghiệm tuyệt vời về tình yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại.

Chính Đức Giêsu đề ra con đường để chúng ta có thể ở lại trong Người khi nói “Nếu anh em lại trong lời của Thầy, anh em thực sự là môn đệ Thầy; và anh em sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,31-32). Ở lại trong lời của Đức Giêsu nghĩa là hết lòng làm theo lời dạy của Người mà không tìm cách cắt xén hay không tìm cách loại bỏ bớt những điều khó khăn, giống như việc vác thập giá mình mà theo Người vậy! Bên cạnh đó, chính Đức Giêsu nối kết sự vâng phục với tình yêu khi Người nói “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy, thì Thầy cũng yêu mến anh em; hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em tuân giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã tuân giữ điều răn của Chúa Cha và ở lại trong tình yêu của Người” (Ga 15,9-10). Tuân giữ những giới răn của Đức Giêsu vì bất cứ lý do gì mà thiếu tình yêu, thì sẽ dẫn đến sự bất tuân phục. Vì Người mời gọi chúng ta trở thành bạn hữu của Người chứ không phải những đầy tớ “Anh em là bạn hữu của Thầy nếu anh em tuân giữ những lời Thầy truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,14-15).

Bao lâu chúng ta còn chân thành tìm cách làm theo ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta sẽ vẫn ở lại trong Đức Giêsu, như cành nho được dưỡng nuôi nhờ vào nhựa sống từ thân cây nho, và bấy giờ không gì có thể làm hại chúng ta được. Chúng ta thật ngu muội khi chọn lựa làm theo ý riêng mình và dây mình vào những phiền phức, rồi sau đó lại chạy đến với Thiên Chúa để tìm sự trợ giúp! Chúng ta hành động như người con hoang đàng từ bỏ sự an toàn trong nhà cha mình để tìm kiếm sự hoàn thiện bên ngoài, và chỉ sau đó mới nhận ra rằng không đâu bằng nhà mình! Một cách nào đó, chúng ta phải mất một khoảng thời gian dài để học được bài học này, hoặc phải trải qua nhiều khó khăn vất vả mới làm cho chúng ta nhận ra sự thực là gì. Dù thế, chúng ta vẫn thích cố gắng để thay đổi thực tại hơn là thay đổi chính mình!

Phúc cho ai nhận ra niềm hạnh phúc đích thực ở trong nhà Cha, vì họ được chuẩn bị để hưởng sự hoan lạc này. So sánh với những gì mà thế gian đem lại cho chúng ta, tình yêu của Chúa Cha thì tốt hơn và cũng ít đòi hỏi hơn! “Một ngày trong thánh điện quý hơn ngàn ngày, thà con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân” (Tv 84,10).

 

Ngày 9/7

“Bạn thân mến, hãy tìm kiếm Thiên Chúa trong sự bình tâm và an bình của cảnh cô tịch. Thật dễ dàng để tìm kiếm Ngài ở đó. Hãy vui sướng vì sự tốt lành của Thiên Chúa dành cho bạn và hãy làm theo thánh ý Ngài, thánh ý vốn ngọt ngào và đầy sức mạnh, sẽ dẫn bạn đến nơi bạn đang ở. Hãy suy niệm không ngừng về Chúa chúng ta nơi Nhiệm Tích Thánh, và bạn sẽ hạnh phúc như người đang trên đường tiến về Nước Trời vậy” [Gửi cho cha Phao-lô Ma-ri-a Ma-rê-san, tháng 11/1867].

Chúng ta có thể đoan chắc rằng lời khuyên về đường thiêng liêng mà cha Eymard dành cho các bạn hữu cũng như những người con linh hướng của cha luôn luôn dựa trên chính kinh nghiệm bản thân của cha. Có lẽ vì bị ép buộc phải sống một cuộc đời náo nhiệt, nên cha đã nhận ra rằng việc kiếm tìm Thiên Chúa trong thinh lặng và cô tịch là quan trọng như thế nào. Trong những bài suy niệm của cha, chúng ta thấy cha luôn luôn tự quở trách mình vì quá năng động và quá bận tâm lo lắng; nhưng khi chính cha chìm đắm trong việc chiêm niệm hơn là hoạt động, cha thường khiển trách bản thân vì đã không quan tâm đúng mức đến những người mà cha được trao phó để hướng dẫn họ. Vì thế, cha thấy mình hầu như vẫn còn lấn cấn giữa hoạt động và chiêm niệm.

Tuy nhiên, cha thích những lần chính cha có thể hiệp thông với Thầy chí thánh của mình. Vì thế, không cần băn khoăn lắm khi cha khuyên những ai đang chuẩn bị để làm theo lời khuyên của cha nên có được sự bình tâm và cô tịch một cách mạnh dạn. Hơn nữa, từ kinh nghiệm bản thân, cha cũng thấy rằng có lẽ bầu khí tốt nhất để thực hiện việc chiêm niệm này chính là sự hiện diện của Chúa nơi Nhiệm Tích Tình Yêu uy nghiêm. Khi người ta có thể nhận ra Thánh Thể không phải là một “điều gì đó” vô giá, nhưng là một con người, con người của chính Đức Giê-su, thì chắc chắn sự hiệp thông sẽ càng mạnh mẽ hơn!

Hơn nữa, cha thường dùng những lời được ghi chép trong Sách Thánh làm nền tảng cho việc chiêm niệm này. Qua những lời ấy, Đức Giê-su nói với chúng ta một cách nhiệm mầu nhưng lại rất thực. Việc tìm hiểu ý nghĩa của lời được ghi chép trong Sách Thánh chính là bước vào mối dây hiệp thông với Đức Giê-su. Thậm chí trong Thánh Lễ, người ta có thể tự hỏi xem liệu mình có thể đối thoại với Đức Giê-su đang hiện diện nơi Nhiệm Tích của Bánh và Rượu không nếu như trước đó mình đã không đối thoại với Người qua việc công bố Lời Chúa! Thế nhưng, thậm chí ngày nay khi Lời được công bố rộng khắp bằng nhiều ngôn ngữ và với một sự phong phú của các sách chú giải và giải thích, người ta cũng tự hỏi xem bao nhiêu người thực sự đối thoại với Chúa trong suốt phần phụng vụ Lời Chúa trong Thánh Lễ! Trong khi nhiều người nhận thức Sách Thánh là một điều gì đó thánh thiêng và quý giá, thì việc đối thoại liên vị với Đức Giê-su qua lời của Người dường như lại bị lãng quên đối với hầu hết các Ki-tô hữu!

Đối với hầu hết mọi người, “việc suy niệm” dường như bị giới hạn vào một cuộc đàm thoại với chính mình, và hầu như không đi đến một cuộc đối thoại với một con người đang sống, là chính Đức Giê-su, qua đó chúng ta nói nhiều hơn là chúng ta lắng nghe những lời Người phải nói với chúng ta một cách thân mật và cụ thể. Nếu thiếu khía cạnh quan trọng của việc lắng nghe, qua đó chúng ta dành cho Đức Giê-su một cơ hội để truyền tải sứ đi ệp cá nhân của Người cho chúng ta, thì việc loan báo có thể kết thúc ở một cuộc độc thoại hay hàng loạt những chỉ dẫn về các việc được làm hay không được làm nếu chúng ta muốn vào Nước Trời! Điều quan trọng hơn trong việc cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, cũng như nhận ra những ưu phẩm của Ngài một cách tỏ tường hơn, thì thường khó mà nhận thấy được. Nhưng ở đâu việc này được thực hiện một cách chuyên cần, thì việc chiêm niệm có thể thực sự là một kinh nghiệm ly kỳ.

 

Ngày 10/7

“Hãy nghiệm xem sự tốt lành và sự phòng xa, sự quan phòng của Thiên Chúa như thế nào? Hãy dâng hiến chính mình cho sự quan phòng đó và hãy để nó hướng dẫn và làm mọi sự. Hãy ngủ yên, Thiên Chúa đang dõi theo con và che chở con.” [Gửi cho bà Giô-sê-phin Gourd, tháng 5/1858]

Cha Eymard đã cảm nghiệm sâu sắc về tiến trình và hình thức của Giao Ước mà Thiên Chúa muốn ký kết với con người, mặc dù cha không thể dùng ngôn ngữ như chúng ta dùng ngày nay sau công đồng Vatican II. Từ kinh nghiệm bản thân, cha biết rằng khi một ai đó thăng tiến trong đời sống thiêng liêng, họ có khuynh hướng ngày càng trở nên thụ động trong mối tương quan. Đó là vì khi biết trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa, con người sẽ nhận ra rằng mình không cần chủ động để làm mọi thứ; thực ra, ở giai đoạn này điều quan trọng hơn đó là hãy để Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn, vì tất cả những gì Ngài muốn làm cho chúng ta đều là vì ích lợi của chúng ta cả thôi. Chính Ngài và chỉ mình Ngài mới biết điều gì là tốt nhất cho sự thăng tiến sau này của chúng ta. Vì thế, con người càng ít can thiệp vào công việc của Ngài thì càng tốt.

Thật không may, đường lối của Thiên Chúa thì hoàn toàn đối nghịch với chúng ta, chúng ta thường cảm thấy rằng mình đang đi lạc hướng, chúng ta cần chủ động hơn trong việc làm, như chúng ta vẫn thường làm trước đó trong giai đoạn đầu của đời sống thiêng liêng. Dường như Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi chúng ta một điều gì đó đi ngược lại với lý trí và rõ ràng là thế, vì hiện nay chúng ta đang ở cấp độ hiện hữu hoàn toàn khác. Như tại Cana khi thấy thiếu rượu, Đức Giê-su sai các đầy tớ đổ đầy nước vào các chum đá dùng vào việc thanh tẩy! Và chẳng bao lâu, sau khi họ làm theo lệnh truyền của Người, thì Người đã đem đến cho họ một thứ rượu cực kỳ ngon. Trong cách cư xử của chúng ta với Người ngày nay cũng vậy, Người sẽ đòi hỏi những gì dường như là điên khùng đối với tâm trí chúng ta, và chẳng bao lâu khi chúng ta làm theo lệnh truyền của Người thì Người sẽ ban cho chúng ta những ân huệ tuyệt vời.

Theo gương cha Eymard, chúng ta nhớ lại những gì đã xảy ra trong một ca mổ. Bệnh nhân trong trường hợp này không thể động đậy, cho dù là với những ý hướng tốt nhất, chẳng hạn như việc trợ giúp cho bác sĩ trong ca mổ. Người ấy càng can thiệp, dù cho ý định của người ấy có tốt đi chăng nữa, thì người ấy lại càng gây cản trở cho tiến trình. Vì thế, bác sĩ phẫu thuật sẽ làm cho bệnh nhân ngủ thiếp đi bằng thuốc gây mê cực mạnh và chỉ khi ấy, bác sĩ mới có thể làm những gì cần làm. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng thì đem lại lợi ích cho bệnh nhân. Khi chúng ta phải chịu đựng cuộc sống này, nếu niềm cậy trông của chúng ta vào Thiên Chúa đủ mạnh để Ngài có thể làm bất cứ việc gì Ngài muốn, thì điên khùng hay nguy hiểm dường như chẳng là gì đối với chúng ta, và kể cả những ơn lành chúng ta không nhận được! Thánh vịnh 127 nhắc nhở chúng ta: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm. Bạn có thức khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng” (Tv 127,1-2). Và Thánh vịnh 121 hoàn tất bức tranh này khi viết “Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ít-ra-en lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa gìn giữ bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn bạn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121,3-8).

 

Ngày 11/7

Cha Eymard đã viết lời nguyện này khi cha lên 12 tuổi. Đó cũng là ngày kỷ niệm biến cố rước lễ lần đầu của cha, diễn ra vào Chúa Nhật Phục Sinh: “Lạy Chúa Giê-su, con tạ ơn Chúa vì hồng ân Chúa đã ban cho con, đó là: Chúa ngự trong tâm hồn con… con xin dâng chính mình con cho Chúa như Chúa đã hiến ban chính mình cho con vậy.” [tháng 3/1823]

Lời tuyên bố này của cha Eymard khi ở tuổi 12 cho chúng ta thấy cha đã quý trọng đặc ân được rước lễ, và cha cũng hiểu rõ điều ấy có ngụ ý gì. Cha đã ý thức rằng đây không phải là cách trao ban duy nhất, Chúa Giê-su đã hiến ban chính mình cho cha và thế là kết thúc vấn đề. Cha cũng cần biết dâng chính mình cho Chúa Giê-su, để cho Người trở thành Ông Chủ của cuộc đời cha. Thực ra, đây sẽ là một phương châm mà cha thường trở lại trong cuộc đời sau này, việc dâng hiến cho Chúa Giê-su của cha phải là trọn vẹn cũng như việc trao ban của Chúa Giêsu cho cha cũng trọn vẹn và vô điều kiện. Nhiều người trong chúng ta mong ước một sự trao ban quảng đại như thế, nhưng hiếm thấy có ai thực hiện việc trao ban này trong suốt cuộc đời mình. Cha Eymard không bao giờ muốn phản bội lại lời lứa mà mình đã đề ra.

Khi đã trưởng thành trong đời sống thiêng liêng, cha ngày càng nhận ra rằng sự trao ban này có nghĩa là gì, đó chủ yếu không phải là việc trao ban những ân huệ và tài năng để phục vụ Nước Trời. Điều mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải dâng hiến trước tiên và trên hết chính là sự hóa mình ra không, sự yếu đuối, đổ vỡ và những thất bại của chúng ta, vì khi chúng ta dâng hiến những điều ấy bằng cả tấm lòng, bấy giờ trở ngại lớn nhất cho tiến trình của chúng ta sẽ bị đánh bại. Dần dần chúng ta nhận ra Chúa có thể làm rất nhiều việc qua chúng ta khi chúng ta hoàn toàn cậy dựa vào bàn tay uy quyền của Ngài, và còn gì hơn nữa khi chúng ta biết nhìn nhận sự trống rỗng của mình, chúng ta sẽ ít khi dám nhận những thành quả tích cực ấy là do mình làm nên.

Khi chúng ta dâng trót sự trống rỗng của mình vào tay Chúa, lúc ấy lại càng dễ dàng để dâng hiến những điều tích cực hơn trong cuộc đời mình, mà không cảm thấy cần phải tự hào về những quà tặng đã trao vào tay Ngài. Bấy giờ chúng ta cảm thấy đủ an toàn và đủ can đảm để vượt qua bất kỳ thung lũng nào mà Chúa lôi kéo chúng ta nhờ Thần Khí của Ngài, để Ngài luôn luôn hành động qua chúng ta. Tuy nhiên, sự cộng tác của chúng ta phải toàn tâm toàn ý vì giờ đây sự cộng tác ấy được đặt nền tảng trên quyền năng và sức mạnh của Chúa. Giống như Đavít đã ra nghênh chiến với tên Goliat khổng lồ thế nào, thì chúng ta cũng tiến lên nhân danh Chúa như thế ấy. Và với sự nghèo nàn nhất của con người mình, chúng ta sẽ giành được những điều vĩ đại cho Thiên Chúa.

Tuy nhiên, khó khăn nằm ở chỗ là phải duy trì lòng quảng đại lúc ban đầu với những gì chúng ta đã dâng vào tay Thiên Chúa. Thực ra, mỗi lần chúng ta chiến thắng nhân danh Chúa, thì cái ý tưởng cho rằng chúng ta có thể mạnh mẽ nhờ vào bàn tay của Chúa bao lâu chúng ta biết chấp nhận sự yếu đuối tự nhiên của mình, sẽ ngày càng sâu đậm và mạnh mẽ hơn nơi chúng ta. Nhưng trong thực tế, điều này không thường xảy ra. Chúng ta rất dễ dàng say mê chiến thắng của “chính mình” và dần dần quên đi rằng chính quyền năng của Thiên Chúa hành động nơi chúng ta, chứ không phải là do tài năng của chúng ta! Nói tóm lại, khởi đầu với một sự tự nguyện phục tùng Thiên Chúa cách quảng đại và trọn vẹn thì dễ dàng hơn là chấp nhận sự trống rỗng của mình khi cộng tác với Thiên Chúa. Duy trì sự quân bình giữa sự yếu đuối của chính chúng ta với quyền năng của Thiên Chúa đang hoạt động trong và qua những hành động của chúng ta có lẽ là điều khó khăn nhất trong mối dây liên kết của chúng ta với Thiên Chúa.

 

Ngày 12/7

“Chúng ta hãy tìm kiếm sự thiện, mọi sự lành đến với chúng ta nhờ bàn tay của Cha nhân lành. Chúng ta hãy dâng những lo lắng về tương lai của chúng ta cho Ngài, gạt bỏ quá khứ, và hãy bước đi dưới ánh mặt trời tươi đẹp của ân sủng Ngài” [Gửi cho ông Rosemberg và những người cùng chuyến bay với ông, tháng 3/1862]

Một trong những đặc điểm của một người thực sự yêu mến người khác, đó là: người ấy chỉ nhận ra điểm tốt nơi người khác. Chính vì vậy, người ta nói rằng “tình yêu thì mù quáng” (đối với những lỗi lầm hiển nhiên của người mình yêu!). Thậm chí ngay cả trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, khi chúng ta cảm nếm được tình yêu của Thiên Chúa và nhận ra rằng Ngài không muốn gì khác ngoài điều tốt nơi chúng ta, bấy giờ ngay cả những biến cố đau buồn và trái ý trong cuộc đời cũng sẽ trở nên dễ đón nhận và hài lòng vì chúng ta nhìn mọi sự phát xuất từ bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.

Bên cạnh đó, chúng ta có được sự bảo đảm của chính Đức Giê-su, Đấng đã nói với chúng ta “Nếu anh em là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em trên trời lại không ban của tốt cho những kẻ kêu xin Người sao!” (Mt 7,11-12). Chúa Cha ban cho chúng ta những của tốt lành vì bản chất của Ngài là tốt lành; thậm chí nếu Ngài muốn, Ngài cũng không thể ban điều xấu hay điều nguy hại cho chúng ta. Vì như thế sẽ trái ngược với bản tính của Ngài! Và sự thực là bất cứ điều gì Thiên Chúa ban cho chúng ta đều tốt lành cả, nhưng điều đó không đảm bảo là chúng ta sẽ luôn luôn nhận thấy điều đó là tốt cho mình, để từ đó tỏ lòng biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa vì ân huệ ấy. Chúng ta dùng một thứ khả năng xa lạ để diễn giải hành động của Thiên Chúa theo quan điểm hẹp hòi của mình, và tưởng tượng ra rằng Ngài không chăm lo cho chúng ta.

Ngay cả những bậc ngôn sứ vĩ đại nhất đôi lúc cũng hiểu sai về những hành động của Thiên Chúa. Vì thế, ngôn sứ I-sai-a than phiền rằng ‘ĐỨC CHÚA đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tên tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi nên như gươm sắc bén, giấu tôi dưới bàn tay của Người. Người đã biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người. Người đã phán cùng tôi: “Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang. Phần tôi, tôi đã nói: “Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì.” Nhưng sự thật, đã có ĐỨC CHÚA minh xét cho tôi, Người dành sẵn cho tôi phần thưởng’ (Is 49,1-4). Trong mọi lúc, Ngài đã dang cánh tay ra cho những ai Ngài yêu mến, I-sai-a cảm thấy Thiên Chúa đã rời bỏ mình, nhưng sau này khi ông cầu nguyện thinh lặng trước mặt Chúa, ông đã nhận ra rằng sự thực thì mọi sự hoàn toàn trái ngược. Thiên Chúa đã không quên ông, nhưng Ngài ở kề bên ông trong những lúc đau khổ.

Câu chuyện nổi tiếng “Dấu chân trên cát” cũng nhắc nhở chúng ta rằng trong những lúc thất vọng nhất, Thiên Chúa lại ở gần chúng ta nhất. Vì thế, đây là điểm thuận lợi để chúng ta nhìn mọi sự diễn ra xung quanh mình đều là tốt đẹp cả. Điều đó sẽ giúp chúng ta dễ dàng bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với Thiên Chúa cả trong lời nói cũng như trong việc làm, đồng thời cậy trông hoàn toàn vào Ngài trong mọi biến cố của cuộc đời, quá khứ và những thất bại của chúng ta hay tương lai và mọi sự đang đợi chờ chúng ta.

 

Ngày 13/7

“Các bạn thân mến, các bạn đang sống trong sự tạ ơn luôn mãi. Hãy luôn luôn ở lại trong sự tạ ơn ấy. Nguyện xin Thiên Chúa ban cho các bạn gấp ngàn lần những lý do để yêu” (vậy nhé) [Gửi cho ông Rosemberg và những người cùng chuyến bay với ông, tháng 3/1862]

Ý thức về sự tốt lành của Thiên Chúa tự nhiên sẽ đưa đến hành động ngợi khen và tạ ơn Ngài. Qua những kinh nghiệm được lập đi lập lại này, chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa sẽ gia tăng niềm cậy trông nơi chúng ta để khi thời gian trôi qua, chúng ta ngày càng nhận ra rằng không có điều gì xấu xảy đến cho chúng ta bao lâu chúng ta còn ở gần Người Cha yêu thương của mình. Khi chúng ta đã thấm nhuần được thái độ này hoặc lường trước được tất cả những gì xảy đến cho chúng ta, thì mọi biến cố trong cuộc đời chúng ta sẽ ngày càng trở nên một lý do quan trọng để ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa. Thực ra, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận ra mình đang mong chờ sự đảm bảo kế tiếp của Thiên Chúa trong biến cố đặt ra trước mắt chúng ta.

Đó dường như là thái độ của chính Chúa Giê-su, Đấng đã ngợi khen Thiên Chúa, khi các môn đệ của Người trở về sau sứ vụ vất vả: “Lạy Cha, con tạ ơn Cha là Chúa cả trời đất, vì Cha đã giấu những điều này cho những kẻ khôn ngoan và thông thái, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn; Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26). Chắc chắn, các môn đệ đã không làm được những việc lớn lao trong cuộc hành trình sứ vụ đầy vất vả ấy, nhưng dù sao những công việc nhỏ bé các ông đã làm chính là sự bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho dân Ngài!

Vì thế, “Chúng ta biết rằng: mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa, tức là cho những kẻ được kêu gọi theo ý định của Người… Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, ai chống lại được chúng ta? Chính Con của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta; lẽ nào, cùng với người Con ấy, Người lại chẳng rộng ban mọi sự cho chúng ta? Ai sẽ tố cáo những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã chết, hơn nữa, đã trỗi dậy, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Chẳng lẽ là gian nan, ngặt nghèo, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo?... nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dù là sự chết hay sự sống, thiên sứ hay quản thần, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm, hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,28-9,1)

Đây cũng chính là thái độ của Mẹ Ma-ri-a. Vì Mẹ là một người Do Thái sùng đạo, nên Mẹ đã được dạy dỗ để nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa trong mọi sự xảy đến cho Mẹ. Đối chiếu với kinh nghiệm chân thật về Thiên Chúa của mình, Mẹ đã thốt lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Người đã nhìn đến phận nữ tỳ hèn mòn. Vì từ nay muôn đời sẽ ngợi khen tôi có phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả và danh Người là thánh” (Lc 1,46-49).

 

Ngày 14/7

Hãy đến với Thầy nhân lành của chúng ta bằng sự quy phục hơn là bằng sự nỗ lực, bằng tình yêu hơn là bằng các nhân đức, bằng suy niệm hơn là bằng hành động.”. [Gửi cho bà Natalie Jordan, 8/1862]

Là một chuyên gia nên trong lời tuyên bố này, cha Eymard vạch ra cho người con linh hướng của mình một con đường chắc chắn để đến cùng Thiên Chúa, con đường này sẽ dẫn đến những kết quả xác thực và tích cực. Khởi đầu hành trình thiêng liêng, người ta có thói quen cố gắng rất nhiều, nói chung là được điều khiển bởi ý chí. Mặc dầu điều này là bắt buộc đối với những người mới bắt đầu, thế nhưng họ mau chóng nhận ra rằng mọi nỗ lực vất vả này sẽ chẳng là gì so với một lời đáp trả đối với tình yêu của Thiên Chúa hiện diện ngay từ khởi đầu, dẫn dắt và lôi kéo chúng ta bước vào mối tương quan sâu thẳm hơn với Người. Khi Tình yêu Thiên Chúa ngày càng trở nên rõ ràng hơn, người môn đệ bắt đầu hiểu rằng những gì họ làm trong suốt thời gian cầu nguyện không quan trọng cho bằng những gì Thiên Chúa làm, vì chính Người là Đấng phát động và dẫn đường từ khởi sự cho đến hoàn thành!

Họ sẽ mau chóng nhận ra rằng Thiên Chúa làm mọi sự, còn việc của họ chỉ là bước theo và để cho Thiên Chúa hoàn toàn tự do thực hiện những kế hoạch yêu thương của Người trong cuộc đời họ. Thánh Tê-rê-sa Avila, bậc thầy vĩ đại về cầu nguyện, nhắc nhở chúng ta rằng có 3 cách để tưới cây. Cách thứ nhất là múc nước từ giếng, sau đó tưới lên cây, một việc làm mệt mỏi và cần sự chịu khó! Cách thứ hai là lắp đặt một máy bơm để hút nước từ giếng lên rồi tưới thẳng lên cây nhờ một ống dẫn dài. Những gì mà người làm vườn cần làm trong trường hợp này là kéo ống đến các cây để tưới nước cho chúng. Đây là cách làm ít hao tổn sức lực hơn cách trước. Nhưng cách thứ 3 đó là khi Thiên Chúa cho mưa rơi xuống toàn bộ khu vườn, và người làm vườn chẳng cần làm gì cả trong khi mọi cây cối đều có đủ lượng nước mà chúng cần. Ba cách tưới cây trong vườn mô tả ít nhiều đến 3 giai đoạn thăng tiến trong đời sống thiêng liêng. Chúng ta lưu ý rằng khi người môn đệ thăng tiến, người ấy sẽ bớt làm đi bao lâu người ấy để cho Thiên Chúa tự do hành động trong cuộc đời họ. Đôi lúc, điều này được xem là một “sự thụ động tích cực” hay là một “hoạt động tiêu cực” cần thiết cho việc thăng tiến trong đời sống thiêng liêng. Khi bàn đến điều này, mọi thứ nghe như rất đơn giản, nhưng trong thực tế, thật không dễ để đạt đến sự kết hợp này bằng một vài sự kiên định. Vì khuynh hướng tự nhiên, chúng ta muốn làm chủ cuộc đời mình và muốn tất cả mọi sự đều diễn ra theo như ý muốn của ta. Đánh mất quyền làm chủ cuộc đời mình là một điều khó khăn đối với một số người, đặc biệt khi người đó có tham vọng và chủ nghĩa cá nhân cao. Nếu không nhận ra điều này, thì ước vọng để làm chủ vẫn tiếp tục nổi lên và làm chậm tiến trình thăng tiến tâm linh của chúng ta.

Và vì thế, mọi vị linh hướng tốt đều động viên người con linh hướng của mình hãy biết ngày càng phó thác vào bàn tay của Thiên Chúa, không chỉ vì đó là điều cần thiết nhưng là vì tình yêu. Vì khi tình yêu nắm bắt được sự việc, mọi sự sẽ diễn ra nhanh hơn và người ta ngày càng có khả năng để dâng hiến thực sự cho Thiên Chúa. Chúng ta có một hình ảnh sáng tỏ nói về sự khó khăn của việc dâng hiến trong câu chuyện của chàng thanh niên giàu có buồn bã bỏ đi vì anh nhận thấy cái giá quá cao so với điều anh ưa thích!

 

Ngày 15/7

“Khi tâm hồn con khô khan, buồn chán và hầu như là mất cảm thức về tội, thì đừng bắt đầu tìm kiếm nguyên nhân nơi chính bản thân mình… nhưng hãy mau mắn quay về với sự nhân lành của Thiên Chúa” [Gửi cho bà An-tô-ny đờ Gra-vin, tháng 7/1862]

Cha Eymard xem Cái Tôi là kẻ thù lớn nhất trong đời sống tâm linh. Và chắc chắn cha biết rằng nếu một lần nào đó, khi chúng ta có khuynh hướng quy về Cái Tôi, thì đó là lúc chúng ta đã phạm tội và chúng ta vô cùng hối tiếc về điều đó. Đó là lúc chúng ta moi móc và thăm dò chính mình để tìm ra lý do giải thích cho sự thất bại của mình. Tuy nhiên, trong những tình cảnh ấy, lý do thất bại thì thường không thích đáng, vì rõ ràng là nó phát xuất từ sự yếu đuối, lòng dạ thay đổi, sự thiếu cam kết rõ ràng của chúng ta và mọi điều có liên quan đến Chúa và Thầy của chúng ta. Điều quan trọng trong những lúc này đó là nhận ra sự yếu đuối của mình và trở về với nguồn sức mạnh của chúng ta. Nguồn sức mạnh ấy chính là lòng nhân từ và sự tốt lành của Thiên Chúa.

Thực tế, trong những lúc khó khăn này, chỉ một cái nhìn của tình yêu thôi cũng đã là đủ lắm rồi, như trong trường hợp của thánh Phê-rô khi ánh mắt của ông nhìn vào Chúa Giê-su trong suốt Cuộc Tử Nạn. Đó không phải là một cái nhìn lên án, nhưng là một cái nhìn của lòng thương xót và lòng trắc ẩn, mời gọi tội nhân trở về với tình yêu chữa lành mà Người đã ban một cách quảng đại và với một sự cảm thông sâu sắc với sự bất lực bẩm sinh của chúng ta. Không cần biết chúng ta đã mắc phạm cùng một tội này nhiều lần trước đó, Chúa Giê-su biết rằng phương thuốc chữa lành không phải là sự hổ thẹn và xấu hổ, nhưng đúng hơn đó là một sự đón nhận đầy yêu thương những gì Người ban cho chúng ta nhờ Người Cha yêu thương của Người.

Để trở về với Thiên Chúa trong những lúc yếu đuối này cần phải có sự khiêm tốn chân thành, một sự chấp nhận tình trạng tội lỗi của mình, một sự nhìn nhận rằng chúng ta không thể tự giúp chính mình trong những lúc này, và chúng ta không thể làm gì để thoát ra khỏi tình thế khó khăn này! Những ai biết tự do chấp nhận bản thân mình sẽ dễ dàng trở về với Chúa Giê-su và đón nhận từ nơi Người ơn tha thứ. Và rõ ràng là, chính sự chấp nhận bản thân sẽ giúp chúng ta ở gần Chúa Giê-su và làm cho chúng ta ngày càng thận trọng hơn trong tương lai.

Phương pháp này làm nổi rõ chân lý: nếu chúng ta hoàn toàn ở gần Chúa Giê-su, là vì Người đã đi bước trước và mời gọi chúng ta, cũng như vì Người luôn luôn trông trừng chúng ta, hướng dẫn và bảo vệ, cảnh báo và ủng hộ, chữa lành và đổi mới chúng ta trong trường hợp có thể. Thái độ của chúng ta nên giống như thái độ của tác giả Thánh vịnh trong Thánh vịnh 121

“Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến từ nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời….” (Tv 121,1-8)

Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu. Vì thế, khi cử hành Thánh Thể, Giáo hội mời gọi con cái mình yêu mến, thành kính và sống mầu nhiệm ấy trong chính đời sống đức tin hằng ngày.

 

Ngày 16/7

“Hãy phụng sự Chúa chúng ta vì chính Người và để làm đẹp lòng Người. Ôi! Con sẽ hạnh phúc dường nào khi tình yêu trở thành luật lệ, động lực và phần thưởng cho những hành động của con!” [Gửi cho bà An-tô-ny đờ Gra-vin, tháng 7/1862]

Ở đây, một lần nữa điểm mấu chốt dường như lại là Cái Tôi. Trong khi tất cả chúng ta nghĩ rằng chúng ta phụng sự Chúa vì tình yêu và vì chính Người, nhưng trong thực tế điều này quả thực là hiếm thấy. Quả thực là rất khó, hầu như là không thể, để chúng ta thoát khỏi thủ đoạn gian lận của Cái Tôi trong tất cả các hành động của mình. Thường thì nó len lỏi ngay cả vào những hành động tốt nhất của chúng ta mặc cho chúng ta có nhận ra được điều đó hay không. Thực ra, sự xuất hiện của Cái Tôi thường tỏ tường đối với những người quan sát chúng ta ở một khoảng cách nào đấy hơn là chính chúng ta, bởi vì chúng ta ở quá gần nó và có khuynh hướng tin vào tất cả những ý định của chúng ta. Vậy chúng ta sẽ thoát khỏi những rắc rối vốn đeo bám những bước đi của chúng ta ở mọi nơi như thế nào đây?

Câu trả lời được tìm thấy trong những lời của thánh Phao-lô: ‘Tôi thật là một người khốn khổ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!’ (Rm 7,4- 25). Chúng ta cũng cần phó thác mọi sự trong tay Chúa ngay khi chúng ta khám phá, hay được cảnh tỉnh về hoạt động của Cái Tôi nơi mình. Chúa không những có thể thực hiện điều đó cho chúng ta, nhưng Người còn biết sự yếu đuối của chúng ta và loại bỏ Cái Tôi đang hoành hành nơi chúng ta. Người bảo vệ và che chở chúng ta bằng quyền năng của vinh quang Người. Tất cả những gì Người muốn mời gọi chúng ta đó là: chúng ta hãy luôn ở gần Người với một nỗ lực chân thành để vâng nghe Người trong mọi sự.

Lẽ dĩ nhiên, một cách thức chữa trị khác đó là hãy làm cho tình yêu trở thành nguyên lý hướng dẫn cuộc đời chúng ta trong mọi sự. Chúng ta cần dừng lại đôi chút trước khi bắt đầu bất cứ hành động nào, và cần nhấn mạnh rằng chúng ta muốn làm việc này bằng tình yêu. Thậm chí khi những ý định của chúng ta không hoàn toàn hoàn hảo và mạnh mẽ, song ước vọng muốn làm mọi sự bằng tình yêu sẽ khiến Chúa ôm ấp chúng ta trong vòng tay yêu thương của Người và biến điều này trở thành một thực tại đối với chúng ta. Nhưng, có thể chúng ta sẽ cần lưu ý đến điều này: khi chúng ta thực sự làm vì tình yêu, thì quả thực là chúng ta cũng không ý thức được rằng mình đang hành động vì tình yêu. Nếu chúng ta ý thức được điều này và có lẽ tự hào rằng mình hành động vì tình yêu, bấy giờ chúng ta sẽ cần kiểm tra lại thái độ của mình, vì sự ý thức về bản thân có thể là một dấu chỉ cho biết chúng ta đang hành động vì cái tôi chứ không phải vì tình yêu!

Nói tóm lại, khi đối diện với hành động nguy hiểm liên quan đến cái tôi này, chúng ta cần loại bỏ đi những rắc rối để đến với Chúa, Đấng đã dành tình yêu cho chúng ta. Người sẽ không để chúng ta trở thành những nạn nhân của những âm mưu xảo quyệt và hiểm độc. Một dấu hiệu tích cực cho thấy tình yêu của Người đang hoạt động nơi chúng ta đó là một cảm giác sâu lắng về sự an bình và niềm vui lan rộng khắp, chỉ có thể phát xuất từ chính người ban phát mọi ân huệ tốt lành. Sự an bình này sẽ mãi tồn tại thậm chí khi chúng ta thất bại trong những nỗ lực của mình, vì chúng ta đoan chắc rằng Chúa điều khiển và sẽ làm mọi sự tốt lành cho chúng ta. Một lưu ý khác đó là chúng ta không cảm thấy cần phải che giấu những lỗi lầm hay đổ lỗi cho người khác. Chúng ta chịu trách nhiệm về những thất bại của mình và cố gắng làm tốt hơn trong tương lai.

 

Ngày 17/7

“Hãy giữ lấy mọi thứ cũng như chẳng giữ gì cả; hãy giữ lấy mọi thứ khi Thiên Chúa muốn; chẳng giữ gì cả bao lâu Thiên Chúa không muốn nữa dù cho có những việc thực hành đạo đức và bác ái của con, vì Thiên Chúa làm cho chúng trở nên tốt hơn” [gửi cho bà Antony đờ Gravi, tháng 7/1862]

Một trong những sai lầm phổ biến nhất mà hầu hết mọi người đều mắc phải trong hành trình tiến tới sự kết thân với Thiên Chúa, đó là làm đảo lộn những ân huệ với người ban phát ân huệ. Bất kỳ một hướng dẫn nào nói về đường thiêng liêng cũng đều cảnh tỉnh cho các môn đệ của Chúa biết cách tập trung toàn bộ sự chú ý vào Ngài, chứ không phải vào những ân huệ mà Ngài ban cho chúng ta. Chính Ngài mới quan trọng hơn những ân huệ hay phúc lành mà Ngài ban cho chúng ta. Nhưng những ân huệ là những dấu chỉ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, và nó là phương tiện lôi kéo chúng ta đến gần với Ngài hơn. Sự gắn bó với Chúa này có nghĩa là trong mắt của chúng ta, bất cứ điều gì Ngài nói với chúng ta thì sẽ quan trọng hơn là những việc thực hành mà chúng ta làm, dù cho những việc thực hành ấy được thực hiện dưới sự linh hứng của Ngài đi chăng nữa.

Trong hành trình theo Chúa Giê-su, chúng ta cần lưu ý rằng chúng ta mau chóng trói buộc mình vào những việc thực hành. Đó là vì những việc thực hành này, một cách nào đó, làm vui lòng chúng ta và làm cho ta cảm thấy gần Chúa. Dần dần, bằng cách này hay bằng cách khác, chúng ta khám phá ra những việc thực hành này có những sức mạnh kỳ lạ làm chúng ta cảm thấy gần Chúa! Và dĩ nhiên lúc bấy giờ, thật là khó để chúng ta buông bỏ những việc thực hành này khi Chúa mời gọi chúng ta làm như vậy. Điều quan trọng cần nhớ là có lẽ ân huệ lớn nhất mà Chúa ban cho chúng ta và ân huệ ấy là dấu chỉ chắc chắn nhất về sự gần gũi của chúng ta với Ngài, đó chính là sự tự do nội tâm để thi hành bất cứ điều gì mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta. Và Ngài cũng đoan chắc rằng chúng ta không những có được sự tự do này mà còn thể hiện sự tự do ấy nữa. Ngài thường làm việc này bằng việc mời gọi chúng ta làm một việc thực hành cụ thể hay bước đi trên một con đường cụ thể. Nhưng sau đó ít lâu, khi chúng ta đã cố gắng trung thành với việc đó (và có lẽ nó được đưa lên bàn cân), Ngài mời gọi chúng ta làm ngược lại, thì bấy giờ điều đó sẽ trở nên khó khăn vì chúng ta cảm thấy mình có thể làm mất lòng Chúa, Đấng đã kêu mời chúng ta làm chính xác những điều đó.

Khi chúng ta nhận thấy mọi sự đang diễn ra trong cuộc đời mình, chúng ta cần tập trung vào con người của Đức Giê-su. Chúng ta có thể cần thêm sự trợ giúp để phân định một cách chính xác điều Chúa kêu mời chúng ta trong tình huống rắc rối này, nhưng khi đã biết chắc chắn với mức độ rõ ràng, chúng ta chỉ cần tập trung vào những gì Ngài nói với chúng ta, không cần biết điều đó là khó hay xa lạ, hoặc thậm chí là nó có thể bất hợp lý đi chăng nữa. Sự hỗ trợ tích cực từ phía cộng đoàn có thể là một sự trợ giúp to lớn trong những tình cảnh này, dù cuối cùng quyết định vẫn là của chính chúng ta.

Cũng nên nhớ là nếu Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ những việc thực hành là vì Ngài muốn điều gì đó tốt hơn cho chúng ta, và vì thế bao lâu chúng ta còn bám vào lối thực hành cũ kỹ, thì lối thực hành mới sẽ không thể trở thành một thực tại đối với chúng ta được. Điều đó cũng giống như những gì xảy ra trong suốt quãng đời học trò của chúng ta vậy: chúng ta cần bỏ lại những cảnh vật xung quanh quen thuộc của lớp học mà chúng ta đã có trong suốt một năm nếu chúng ta muốn tiến lên cấp độ kế tiếp! Và ở trung học, nhiều thứ sẽ mới mẻ hay khác lạ, làm ta cảm thấy nản lòng lúc ban đầu, nhưng sau cùng nó sẽ đem lại ích lợi và sự thăng tiến! Và điều này đúng với mọi tiến trình. Chúng ta rời bỏ những bãi biển quen thuộc để đến những vùng đất xa hơn và màu mỡ hơn! Hơn nữa, không có kiến thức mới được thủ đắc cho đến khi người ta bỏ đi những lề thói cũ và chấp nhận những cái mới. Ở đâu điều này không diễn ra, thì chỉ có lời được thay đổi, chứ thái độ bên trong của chúng ta thì không!

 

Ngày 18/7

“Các bạn thân mến, các bạn đang sống trong sự tạ ơn luôn mãi. Hãy luôn luôn ở lại trong sự tạ ơn ấy. Nguyện xin Thiên Chúa ban cho các bạn gấp ngàn lần những lý do để yêu” (vậy nhé) [Gửi cho ông Rosemberg và những người cùng chuyến bay với ông, tháng 3/1862]

Trong suốt Kinh Tiền Tụng của mỗi Thánh Lễ, vị chủ tế nhắc nhở cộng đoàn rằng “thật là chính đáng để tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa mọi lúc mọi nơi”. Mặc dù đây là lý tưởng mà mỗi Ki-tô hữu nên làm, nghĩa là suốt ngày (hay suốt cuộc đời) của họ sẽ trở thành một hành động ngợi khen Thiên Chúa liên lỉ và kéo dài, nhưng chúng ta biết rằng thực tế điều này hiếm xảy ra ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt. Nguyên nhân của sự thiếu sót này có thể là rất nhiều, nhưng có lẽ trên hết, nguyên nhân chính đó là chúng ta không thực sự ý thức về việc ngợi khen Thiên Chúa ngay trong lời kinh Tiền Tụng của Thánh Lễ. Vị chủ tế mời gọi tất cả mọi người, quả đúng như vậy, ngài nói “Hãy tạ ơn Chúa” nhưng hiếm có ai thực sự gắn kết mình vào trong việc ngợi khen Thiên Chúa vì những ơn lành đã nhận được. Nhưng nếu chúng ta có thói quen ngợi khen Thiên Chúa trong mỗi Thánh Lễ, thì những cơ hội này là dịp để chúng ta nhớ lại cũng như hăng hái thực hành việc ngợi khen trong suốt ngày sống.

Một lý do khác có thể là chúng ta không có thói quen tạ ơn khi lãnh nhận những ơn lành của Thiên Chúa tuôn đổ trên chúng ta một cách quảng đại và bao la. Ở đây, những ơn lành của Thiên Chúa sẽ trở nên khả giác chỉ khi chúng ta nhận ra sự trống rỗng và yếu đuối của mình. Khi chúng ta tràn ngập một cảm giác về sự vĩ đại của mình hay khi mọi thứ dường như là suông sẻ đối với chúng ta, thì hầu như chúng ta ít nhớ đến Chúa. Vì thế, chúng ta nhận lãnh những ơn lành của Người vì nghĩ rằng chúng ta đáng được như vậy hoặc cho rằng Thiên Chúa nợ chúng ta những ân huệ ấy! Nhưng khi chúng ta học được nghệ thuật đón nhận mọi sự xảy đến với chúng ta và xem đó như một phúc lành, thì bấy giờ những lời tạ ơn có thể tự động phát ra từ tâm hồn và môi miệng của chúng ta, hầu như là không cần bất kỳ một cố gắng nào. Người nghèo là người có lòng biết ơn nhất, vì anh ta ý thức sâu sắc về cái nghèo và sự bất lực của mình.

Một đặc tính cứu độ mà chúng ta luôn luôn quên lãng đó là sự tốt lành của Thiên Chúa, Ngài sẽ không bao giờ để chúng bị phủ lấp bởi một cảm giác về sự vĩ đại của chính mình quá lâu. Ngay lập tức hoặc sau này, Ngài sẽ lại để chúng ta rơi vào tình huống khó khăn khác, tình huống này vượt ra khỏi khả năng kiểm soát của chúng ta. Ngay cả trong những tình huống này, chúng ta vẫn có được những nguồn trợ giúp cho chính mình, chẳng hạn như những kinh nghiệm quá khứ, những bạn bè thân thiết và những người có tầm ảnh hưởng xung quanh chúng ta. Nhưng Thiên Chúa có cách biến đổi và quy phục chúng ta, và bấy giờ chúng ta bắt đầu học được bài học quan trọng về ngợi khen và tạ ơn.

Tuy nhiên, tốt hơn là ngợi khen Thiên Chúa vì những lý do liên kết với tình yêu, để lời ngợi khen của chúng ta cũng được tràn đầy tình yêu. Hơn nữa, cách làm bằng tình yêu này sẽ đưa chúng ta đến gần với Thiên Chúa hơn bất kỳ lý do nào khác, vì bản chất của tình yêu là gắn kết con người vào sợi dây sức mạnh. Điều này giải thích vì sao cha Eymard ước ao và cầu xin Thiên Chúa ban cho người con linh hướng của ngài gấp ngàn lần những lý do để yêu trong việc ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa. Điều đó không chỉ đem lại lợi ích cho cha, nhưng còn đảm bảo cho cha vẫn còn được kết hợp thâm sâu với Chúa Cha.

 

Ngày 19/7

“Chúng ta hãy dâng lên Ngài những nỗi lo lắng về tương lai của chúng ta, sự tha thứ trong quá khứ, và hãy bước đi dưới ánh mặt trời tươi đẹp của ân sủng Ngài” [Gửi cho ông Rosemberg và những người cùng chuyến bay với ông, tháng 3/1862]

Khi một ai đó đã phát huy được nghệ thuật chúc tụng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc và mọi nơi như Kinh Tiền Tụng mời gọi chúng ta, thì bấy giờ họ sẽ lắng nghe tiếng Chúa và những ước vọng của Ngài dành cho chúng ta, vâng lời Ngài qua việc để ý đến cả chi tiết nhỏ nhặt nhất, thường xuyên nhớ lại lòng nhân từ mà Ngài dành cho chúng ta. Điều này sẽ trở nên dễ dàng và thú vị biết bao. Hơn nữa, sự lo lắng về quá khứ hay tương lai cũng sẽ ít thấy nơi cuộc đời của một con người như vậy vì toàn bộ cuộc đời họ được đặt trọn vào tay Chúa. Điều mà thánh Phao-lô nói với chính mình quả thực cũng đúng với một người tôn thờ như thế: ‘Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Ki-tô sống trong tôi’ (Gl 2,20)

Thay vì bỏ thời giờ để lo lắng về những lỗi lầm trong quá khứ hay những bước đường tương lai, người tôn thờ chân thành sẽ chú trọng đến hiện tại và đến việc làm thế nào để họ có thể thi hành ý định của Thiên Chúa một cách tốt nhất, cụ thể là làm thế nào để họ có thể dùng mọi cơ hội được đặt ra trước mặt mình để mở rộng Nước Chúa qua việc đem lại cho những người xung quanh một cảm nghiệm về tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Có lẽ đây là điều mà cha Eymard muốn nói ‘hãy bước đi dưới ánh mặt trời tươi đẹp của ân sủng nơi Thiên Chúa!’ Người tôn thờ nhận ra rằng họ được Chúa Cha yêu thương và Ngài luôn tuôn đổ những ơn lành tốt nhất xuống trên họ, ban cho họ những gì là tốt nhất. Nhờ ân sủng và ân huệ của Thiên Chúa, người tôn thờ sẽ hoàn tất cuộc sống mà không một chút lo lắng hay sợ hãi, nhưng được tràn đầy ánh rạng ngời của Thiên Chúa trong từng khoảnh khắc của cuộc đời mình.

Với cách làm này, người Ki-tô hữu sẽ sống giao ước mà Chúa Cha muốn ký kết với từng người. Tùy thuộc vào sự nhận biết sâu sắc của họ về tình yêu Thiên Chúa và sự phó thác của họ vào bàn tay Thiên Chúa, người ấy sẽ tận hưởng một sự an bình và niềm vui lớn lao hay nhỏ nhoi của Nước Trời ngay tại trần gian này. Hơn nữa, đối với người ấy, cái chết sẽ không là một biến cố đáng sợ như bao người khác; đó chỉ là một cuộc trở về nhà, một sự trở về nhà Cha, nơi người ấy sẽ nhận được sự sung mãn của những ơn lành và trải nghiệm được cuộc diện kiến trực diện với Thiên Chúa của tình yêu. Khi sống trên trần gian với đức tin và đức mến, sự liên kết này sẽ đạt đến đỉnh điểm khi đem đến cho người tôn thờ một niềm vui trực tiếp và riêng tư về sự nhân lành đầy yêu thương của Thiên Chúa.

Thật là đáng tiếc khi nhiều người trong chúng ta đánh mất ơn phúc cao quý này đơn giản vì chúng ta không biết đánh giá một cách đúng mức về sự nhân lành và tình yêu của Thiên Chúa trong từng khoảnh khắc của ngày sống chúng ta, cũng như chúng ta không quan tâm học hỏi bài học quan trọng này và thực hành một cách liên lỉ cho tới khi nó trở thành bản tính thứ hai của chúng ta. Thực ra, đây phải là ưu tiên hàng đầu trong đời sống của con người, vì khi đạt đến được sự quân bình nội tâm và sự an bình đích thực, mọi thứ khác sẽ được đặt vào đúng giá trị và tầm quan trọng của nó. Khi từng người bắt đầu sống theo cách này, chúng ta sẽ cảm nghiệm được Nước Trời ngay tại trần gian!

 

Ngày 20/7

Hãy chịu đựng những cảm giác về sự bất lực của con trước Nhan Chúa: Đó là việc thờ phượng của người nghèo. Cùng lúc đó, hãy ngồi dưới chân Chúa.”. [Gửi cho Maria Guillot, 10/1862]

Lại một lần nữa trong lời khuyên dành cho người con linh hướng của mình là cô Maria Guillot, cha Eymard đề cập đến khía cạnh then chốt trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta_ chúng ta chấp nhận sự trống rỗng của mình trước Thiên Chúa, nhưng chúng ta đặt sự trống rỗng ấy vào bàn tay uy quyền của Người, chúng ta bước đi theo mệnh lệnh của Chúa và làm tất cả những gì Người đòi hỏi chúng ta. Rõ ràng là Thiên Chúa chống lại sự kiêu ngạo và thậm chí còn hạ bệ nó nữa, trong khi đó Người đề cao sự thấp hèn và đặt chúng lên hàng quyền thế. Dường như đó là cách cư xử ưa thích của Thiên Chúa đối với loài người. Khi mặc khải chính mình là “Thiên Chúa của sự chống đối”, Người đến giúp đỡ những ai biết chấp nhận sự trống rỗng của mình và không sợ đặt nó vào, vì mọi sự đều có giá trị, bàn tay yêu thương của Người.

Có lẽ mẫu gương và kiểu mẫu nổi bật nhất của thái độ này được tìm thấy nơi Đức Trinh Nữ Maria. Trong Tin Mừng Lc 1,26 chúng ta biết rằng “Sứ thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến một thành miền Galilê… đến với một trinh nữ đã đính hôn…”. Thuật ngữ trinh nữ ở đây được hiểu theo nghĩa là người Do Thái thời bấy giờ đã chấp nhận từ ấy; đối với họ, trinh nữ có nghĩa là một người mà dưới cái nhìn của xã hội chưa ăn ở với ai cả. Vì đối với họ, một phụ nữ chỉ được coi trọng bao lâu người ấy sinh được một đứa con. Chính vì người trinh nữ khiêm hạ và ‘vô dụng’ này mà Thiên Chúa đã sai sứ giả của Người đến, để đề nghị Mẹ cộng tác vào trong công trình cứu chuộc. Và chính sự trống rỗng này đã khiến Mẹ Maria đặt mọi sự trước mặt Chúa khi Mẹ trả lời “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin làm cho tôi như lời ngài!” Sau đó, Mẹ đi xa hơn nữa.

Khi dâng hiến sự trống rỗng của mình vào bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Mẹ đã bước đi trong niềm tin để đem ân huệ cứu chuộc về nhà và gia đình của ông Dacaria. Mẹ đã ở lại đó độ 3 tháng để giúp đỡ cho 3 thành viên của gia đình ấy. Dacaria được giải thoát khỏi tình trạng câm, Elisabét thì được đầy tràn Thánh Thần và bà đã ngợi khen Mẹ Maria trong khi trẻ Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ. Sau này, Mẹ Maria cũng để lại cho chúng ta một mẫu gương về sự kết hợp và quân bình giữa sự trống rỗng của ta với sự sung mãn của Thiên Chúa. Trong bài tán dương của Mẹ, Mẹ loan báo “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người là thánh… Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn đến. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.”

Khi nào chúng ta mới cần chấp nhận sự trống rỗng của mình nếu không phải là trong suốt thời gian cầu nguyện? Khi chúng ta cảm nghiệm được sự bất lực của mình trong khi cầu nguyện, thì đó là lúc chúng ta cầu nguyện một cách hiệu quả nhất. Vì càng từ bỏ Cái Tôi trong cuộc đời mình, chúng ta lại càng nhận ra quyền năng của Thiên Chúa đang hoạt động trong sự trống rỗng của chúng ta!

Khi ăn uống thịt máu Chúa, và được đầy sức mạnh mà Thánh Thể ban cho, cộng đồng phải trở thành một thân thể Giáo Hội, một thân thể hiến dâng cho nhiều người.

 

Ngày 21/7

“Vậy thì, cư ngụ trong Chúa Giê-su có nghĩa là gì? Con đường nào dẫn đến việc cư ngụ thánh thiện này? Chúng ta có thể bước vào đó như thế nào? Những điều kiện để ở lại đó là gì? Cư ngụ trong Chúa Giê-su là bỏ mình đi, từ bỏ mình để trao hiến mình như người ta bỏ củi vào lò lửa.”. [Tĩnh tâm, 11/1862]

Chính từ kinh nghiệm lâu năm mà cha Eymard đã đưa ra những nhận xét về Cái Tôi như thử thách lớn nhất cho việc cư ngụ trong Chúa Giê-su. Ở những chỗ khác, chúng ta cũng nghe cha giải thích về chủ đề này, đặc biệt khi cha nhận ra những sai lầm vì nhấn mạnh đến Cái Tôi quá nhiều trong hành trình về với Thiên Chúa. Thế nhưng, cha càng dâng trọn đời mình cho Chúa Giê-su để phục vụ Người, cụ thể là bằng tình yêu, thì cha lại bị thuyết phục bởi “việc chết đi cho cái tôi” trong tất cả những biểu hiện của nó. Một trong những điều đơn giản nhất đó là việc cha luôn luôn rà soát xem mọi thứ cha muốn làm hay nói có thực sự là ý muốn của Chúa không. Và cha đã làm điều này không giống như hầu hết chúng ta đã làm. Ít nhất là khởi đầu tiến trình, cha đã dành thời gian và nỗ lực rất nhiều để loại bỏ bất kỳ dấu vết nào của Cái Tôi trong những quyết định của cha. Sau này, khi cha đã quen, thì điều này trở nên dễ dàng hơn, thế nhưng cha không bao giờ từ bỏ việc này.

Ước muốn nồng cháy của cha đó là tận hiến hoàn toàn cho Đức Ki-tô, để vương quốc tình yêu của Người tỏ rạng ngay giữa những người mà cha phục vụ. Nếu những người môn đệ của cha ngày nay cũng có thể làm giống như vậy, thì mọi người sẽ thấy được những sự biến đổi còn tốt hơn thế. Sau hết, căn nguyên của mọi vấn đề của chúng ta phải chăng là ở sự kết hợp với Chúa hay tha nhân, phát xuất từ việc quá đề cao Cái Tôi. Ở đâu cái tôi bị gạt bỏ hoàn toàn, ở đó những tương quan tốt sẽ kéo dài. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là người ta biến mình trở thành kẻ bù nhìn, để cho người khác chà đạp lên mình. Chúng ta cần giữ vững quyền lợi của mình, nhưng chỉ khi nào điều đó là cần thiết. Chúng ta thấy chính Chúa Giê-su làm điều này khi Người trả lời một cách thẳng thắn, không úp mở với viên sĩ quan đã đánh Người trong cuộc khổ nạn “Nếu tôi nói sai thì sai ở chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải thì sao lại đánh tôi?” (Ga 18,23).

Ở đây, Chúa Giê-su đã lên tiếng bởi vì đó là chuyện liên quan đến Nước Trời và trong chuyện này, Người không cho phép bất kỳ sự kiêu ngạo nào. Nhưng khi nó là một chuyện cá nhân, Người lại thích thinh lặng hơn. Sự phân biệt nhỏ này có thể làm chúng ta khó mà biết được khi nào là vấn đề của danh tiếng và danh dự của Thiên Chúa, và khi nào là Cái Tôi tìm kiếm sự đền bù. Tuy nhiên, khi chúng ta ý thức được Cái Tôi xâm nhập vào tất cả những xao lãng của chúng ta, chúng ta sẽ cẩn trọng hơn, kết quả là sẽ không thấy khó khăn để cư ngụ trong Chúa Giê-su, cảm nghiệm được niềm vui của việc ở gần Người và việc nhận được sự hướng dẫn và tình yêu của Người trong mọi lúc. Thực ra, trong vấn đề này, khi suy nghĩ một cách chín chắn, chúng ta sẽ mau chóng nhận thấy rằng nhiều lần chúng ta đã hành động vì để ý quá nhiều đến lợi ích cá nhân của mình. Hơn thế, chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận chết đi cho Cái Tôi, đặc biệt khi nó xuất hiện dưới hình thức của một sự khiêm hạ hay sự chối bỏ công khai.

 

Ngày 22/7

Con đường dẫn đến việc cư ngụ trong Chúa Giê-su chính là một tình yêu cho đi tất cả và muốn chịu đau khổ vì tất cả mọi người.”. [Tĩnh tâm, 11/1862]

Tiếp theo bài suy niệm của ngày hôm qua, cha Eymard nhanh chóng bổ sung thêm rằng chỉ riêng mặt tiêu cực không thôi thì chưa đủ. Để cư ngụ trong Chúa Giê-su, người ta cần gạt bỏ đi Cái Tôi, chắc chắn là như thế rồi. Nhưng điều đó chỉ có thể loại bỏ đi vẻ bề ngoài trống rỗng của chúng ta mà thôi. Chúng ta cần được đổ tràn tình yêu, như một bài thánh ca nổi tiếng nhắc nhở chúng ta “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời!” Thiên Chúa là tình yêu, vì thế không thể có bất kỳ sự tương tác nào với Người nếu chúng ta không sống trong tình yêu. Tình yêu mà chúng ta đề cập đến là một khía cạnh tích cực của việc chết đi cho cái tôi được đề cập trước đó. Vì Cái Tôi và Thiên Chúa không thể ở cùng nhau trong cùng một thời điểm và trong cùng một nơi.

Tuy nhiên, chúng ta không thể cho rằng điều đó là đúng đơn giản là vì chúng ta nhổ bỏ Cái Tôi ra khỏi cuộc đời mình, đương nhiên chúng ta sẽ được tràn đầy tình yêu. Chúa Giê-su cảnh báo chúng ta “Khi thần ô uế xuất ra khỏi một người, nó đi lang thang để tìm kiếm một nơi ở khác, nhưng không tìm được, nó bèn nói, ‘ta sẽ trở lại nơi mà ta đã ra đi’ Khi nó đến, nó thấy chỗ đó đã được quét sạch sẽ và sắp xếp ngăn nắp. Nó bèn đi rủ thêm bảy thần khác đến, và chúng vào và sống ở đó; cuối cùng tình trạng của người đó lại tệ hại hơn trước” (Lc 11,24-26). Vì thế, khi chúng ta loại bỏ Cái Tôi, vị trí của nó phải mau chóng được lấp đầy bằng tình yêu; bên cạnh đó đây là phương thuốc duy nhất để đẩy lui sự dữ ra khỏi cuộc đời chúng ta. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng đây là một nhiệm vụ mà chỉ mình chúng ta mới cần quan tâm. Chính Chúa sẽ tuôn đổ trên cuộc đời chúng ta tình yêu và sự sống của Người khi chúng ta thực lòng mời Người bước vào và làm chủ những gì thực sự là của Người (Rm 5,5).

Để tiếp tục giữ Chúa ở gần, tất cả những gì chúng ta cần làm là thi hành các giới răn của Người. Điều này xảy ra là do tình yêu của chúng ta, vì Chúa Giê-su nói “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy tuân giữ điều răn của Thầy’ (Ga 14,15). Giống như con chiên thuộc về người mục tử, chúng ta lắng nghe tiếng Người và đến bất cứ nơi đâu Người dẫn chúng ta đến. Chúng ta có thể đoan chắc rằng Người sẽ ban cho chúng ta những gì tốt nhất vì tình yêu vô biên của Người dành cho chúng ta.

Nói tóm lại, chúng ta có thể đoan chắc rằng bao lâu chúng ta còn muốn ở gần Chúa Giê-su, Người sẽ chẳng bao giờ lẩn trốn chúng ta vì lý do Người đã đến cự ngụ giữa chúng ta là để có thể ở gần chúng ta, chẳng phải Người là “Đấng Emmanuel” -Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó sao? Lần duy nhất Người rời khỏi cuộc đời chúng ta đó là khi chúng ta tìm cách loại trừ Người bằng việc đề cao cái tôi của chúng ta, hay khi chúng ta không chọn Giê-su nhưng chọn một ai đó hay một thứ gì khác. Cũng giống như sự việc đã xảy ra trong cuộc khổ nạn khi Philatô hỏi người Do Thái: “Các ngươi muốn ta tha ai cho các ngươi, Baraba hay Giê-su, người được gọi là Đấng Mê-si-a?” Vị tổng trấn lại hỏi họ lần nữa “trong hai người, các ngươi muốn ta tha ai cho các ngươi” Và họ đáp “Baraba” (Mt 27,17-21). Mỗi cơn cám dỗ chúng ta gặp đơn giản cũng chỉ là cùng một câu hỏi đặt chúng ta vào những tình thế khác: Bạn chọn ai: Đức Giê-su, là Chúa và là Thầy hay chọn Cái Tôi? Điều ấy sẽ được tỏ lộ để cho thấy những câu trả lời mà chúng ta đưa ra trong những hoàn cảnh khác nhau!

 

Ngày 23/7

“Tình yêu đối với Thánh Thể là tất cả luật lệ, nhân đức và sự thánh thiện của con” [Mẹ Maria Guillot, tháng 12/1862]

Trong bài suy niệm trước, chúng ta đã thấy rằng chỉ từ bỏ cái tôi thôi thì chưa đủ; điều quan trọng hơn là chúng ta phải lấp đầy cuộc sống của mình bằng tình yêu, thứ tình yêu mà Thần Khí của Thiên Chúa đã đổ tràn vào tâm hồn chúng ta. Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta “Quả vậy, ngay khi chúng ta còn yếu đuối, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết cho những kẻ vô đạo. Hầu như không ai chết cho một người công chính, may ra có kẻ dám chết cho người lương thiện. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Chúa đối với chúng ta, đó là ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, Đức Ki-tô đã chết cho chúng ta. Phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu của Người, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ. Thật vậy, nếu đang khi còn là thù nghịch, mà chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa, nhờ cái chết của Con Thiên Chúa, phương chi khi đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy.” (Rm 5,6-10).

Tình yêu mà Thiên Chúa đổ tràn vào tâm hồn chúng ta một cách tự do và phong phú chính là tài năng được ban tặng cho mỗi người chúng ta. Tất cả những gì chúng ta được yêu cầu làm trong cuộc sống chính là làm cho tài năng ấy gia tăng, qua việc tự nguyện sử dụng tài năng ấy trong cách đối xử của chúng ta với người khác. Vì đây là điều chúng ta dễ để ý đến trong cuộc đời mình, chúng ta càng mở rộng lòng mình ra một cách tự nguyện và độ lượng với người khác, chia sẻ với họ tất cả những gì chúng ta có và chúng ta là, thì lại càng dễ dàng để tiếp tục thực hiện công việc ấy một cách thường xuyên hơn. Chúng ta càng hạn chế chia sẻ tình yêu với người khác, vì sợ hay vì thờ ơ lãnh đạm, thì chúng ta lại càng cảm thấy khó khăn để có thể quảng đại mà đến được với người khác. Chúng ta vẫn tính toán và sợ hãi, kết quả là chúng ta đánh mất cảm xúc bồi hồi và niềm vui của việc trao ban. Những người đón nhận tình yêu của chúng ta cũng mau chóng nhận ra rằng sự trao ban của chúng ta chỉ là nửa vời, và họ sẽ giữ khoảng cách với chúng ta. Vì thế, dần dần chúng ta bắt đầu nhận ra rằng chúng ta bị tách biệt và xa cách với người khác, trong khi cuộc đời chúng ta lại héo hắt vì mong ước tình yêu.

Vì thế, bí mật của sự thánh thiện, như cha Eymard chỉ ra, đó là duy trì việc chia sẻ tình yêu và bản thân của chúng ta với bất cứ ai mà Chúa gửi đến trên bước đường đời của chúng ta. Đây chính là điều mà chúng ta bắt đầu làm trong Thánh lễ khi hoàn tất lệnh truyền của Chúa về việc cử hành Thánh Thể “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Như Đức Giê-su đã bẻ chính mình và trao ban tất cả cho các bạn hữu của Người để nhắc nhở họ rằng đây cũng chính là cuộc đời của Người hiến dâng vì họ, vì thế chúng ta cũng phải biết tự nguyện cho đi bản thân mình. Cách làm hay thái độ này sẽ trở nên đường lối chỉ đạo, giúp chúng ta sống những gì chúng ta cử hành trong Thánh lễ. Và vì điều này liên quan đến toàn bộ đời sống chúng ta, đó là điều duy nhất cần thiết và hiệu quả để đạt đến sự thánh thiện. Trong Kinh Thánh, trở nên “thánh” là trở nên “khác biệt”. Thiên Chúa là Đấng Thánh vì Ngài hoàn toàn khác biệt với loài người chúng ta ‘vì tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải đường lối của các ngươi, Chúa phán như vậy. Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các người bấy nhiêu’ (Is 55,8-9)

Khi chúng ta bắt đầu sống trong tình yêu và bằng tình yêu, bấy giờ chúng ta cũng sẽ trở nên khác biệt, ngày càng giống Chúa hơn, và do đó trở nên thánh thiện, khác biệt với những người xung quanh chúng ta! Có lẽ đây là công việc khủng khiếp nhất trong tất cả các công việc, để làm nên sự khác biệt. Hầu hết mọi người đều thích bị tan biến trong đám đông, làm tất cả những gì người khác làm, dù là đúng hay sai!

 

Ngày 24/7

“Tình yêu đích thực chính là quên mình đi, hiến dâng chính mình, hy sinh bản thân mình, không vì tư lợi, cũng không cần ráng sức nhưng bằng niềm vui, tìm được niềm hạnh phúc duy nhất qua việc làm đẹp lòng người khác.” [Mẹ Maria Guillot, 12/1862]

Như thánh Phao-lô, cha Eymard cũng cố gắng giải thích rõ tình yêu đích thực là gì, phác thảo những đặc tính chính yếu của tình yêu đích thực. Như chúng ta đã nói ngay từ ban đầu, Như thánh Phao-lô, cha Eymard cũng cố gắng giải thích rõ tình yêu đích thực là gì, phác thảo những đặc tính chính yếu của tình yêu đích thực. Như chúng ta đã nói ngay từ ban đầu, đặc tính quan trọng của tình yêu đích thực chính là không quy hướng về chính mình. Thật ra mà nói, điều gì sẽ xảy ra khi tình yêu đích thực được tìm thấy, đó là người yêu quá mê mệt người mình yêu đến nỗi người ấy hoàn toàn quên đi bản thân mình. Điều này thường thấy trong sự kiện người yêu, chẳng bao lâu khi rơi vào tình yêu, sẽ bắt đầu thờ ơ với chính mình, chính nhu cầu ăn uống của mình, tất cả mọi sự,… Một đặc điểm khác đó là người ấy sẽ mau chóng chấp nhận những tính cách của người mình yêu, và không cần phải biết hay không cần bất kỳ sự nỗ lực quá sức nào. Vì tình yêu đích thực thì tìm thấy sự bình đẳng và tạo ra sự bình đẳng (x. Mc 3,20-21).

Một dấu hiệu nữa của việc đánh mất Cái tôi đó là không có sự sợ hãi trong việc cho đi bản thân mình. Thực ra, ngay khi tình yêu đi vào cuộc đời của một người nào đó, thì họ bắt đầu làm mọi thứ, người ấy không chỉ nói nhưng còn cư xử như thể “tất cả những gì của tôi cũng là của bạn và tất cả những gì của bạn đều là của tôi!” Không còn gì bí mật giữa hai người nữa, có một sự cho và nhận qua lại lẫn nhau; và trong mọi mục đích thực tế, thì hai người thực sự như trở nên một. Như bà Ruth đã nói với bà Naomi “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa vì mẹ đi đâu, con đi đó. Mẹ ở đâu, con ở đó; dân của mẹ là dân của con; Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất. Xin Đức Chúa phạt con thế này và thêm thế kia nữa, nếu con xa lìa mẹ mà không phải vì cái chết!” (Rth 1,16-17)

Thực tế, câu chuyện về sự tận tâm của bà Ruth đối với gia đình bên chồng là một châm ngôn và bao hàm tất cả những phẩm chất mà cha Eymard đề cập đến trong lời trích dẫn ở trên. Có lẽ chúng ta có thể dừng lại lâu hơn ở thái độ không tìm tư lợi được biểu hiện nơi sự sẵn lòng của bà Ruth. Bà đã dám chấp nhận làm công việc của một người đầy tớ, đó là: đi mót lúa trong cánh đồng của ông Bô-át. Chắc chắn điều này đòi hỏi rất nhiều sự khiêm tốn chân thành; câu chuyện đề cập đến một sự hòa nhập thực sự vào cuộc sống và văn hóa của những người làm dâu, từ bỏ lối sống và sở thích của chính mình. Sự tận hiến này chỉ có thể phát xuất từ một tình yêu sâu đậm. Theo nghĩa này, tình yêu đích thực có sức biến đổi một con người, làm cho người ấy ngày càng giống với người mình yêu hơn. Và đó là điều mà Chúa đòi hỏi chúng ta khi Ngài mời gọi chúng ta bước vào Giao ước với Ngài.

Ví dụ được trích dẫn ở trên dường như muốn ngụ ý nói rằng bà Ruth có nhiều thứ để bỏ đi hay từ bỏ để hòa nhập với cuộc sống và văn hóa của bên chồng, nhưng trong mối tương quan của ta với Thiên Chúa, thì chính Ngài là Đấng đã bỏ đi tất cả những gì thuộc về Ngài và mặc lấy thân phận loài người của chúng ta (Pl 2,5-11) và cũng hóa mình ra không vì yêu thương chúng ta. Chúng ta là những kẻ có lợi vì chúng ta được nâng lên một tầm mức cao hơn mà không mất bất cứ thứ gì, chúng ta có nhiều thứ để thủ đắc!

 

Ngày 25/7

“Yêu mến Chúa chúng ta một cách chân thành nghĩa là hoàn toàn chết đi cho bản tính ích kỷ của mình cũng như bản thân mình; vì tình yêu trước tiên là chết đi, rồi sau đó mới là sống lại” [Mẹ Maria Guillot, 12/1862]

Bài suy niệm trước nói đến mối tương quan tình yêu của chúng ta với Chúa, chúng ta là những người có lợi nhất. Điều này vừa đúng mà cũng vừa sai, tùy theo những góc độ khác nhau. Chúng ta thu lợi vì Thiên Chúa thì vô biên trong mọi ưu phẩm của Ngài, vì thế không có điểm dừng đối với những gì chúng ta có thể nhận được. Như tiên tri Isaia đã loan báo: ‘Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ. Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó: “Hãy tạ ơn Đức Chúa, cầu khẩn danh Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân, và nhắc nhở: danh Người siêu việt… Dân Xi-on, hãy reo hò mừng rỡ, vì giữa ngươi, Đức Thánh của Ít-ra-en quả thật là vĩ đại!”’ (Is 12,3-13,1)

Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta sẽ chỉ thu được lợi ích bao lâu chúng ta thực sự dành chỗ cho sự sống và tình yêu của Thiên Chúa ở lại trong chúng ta. Chúng ta càng để sự vĩ đại của mình phủ lấp, chúng ta lại càng ít muốn Thiên Chúa chia sẻ cuộc sống của chúng ta; hơn nữa chúng ta càng chú ý đến những tài năng và thành tựu của mình, chúng ta sẽ cảm thấy ít cần đến Chúa hơn! Vì thế, nếu chúng ta ao ước Chúa ở lại với chúng ta, thì cần phải từ bỏ cái tôi và biết hy sinh bản thân. Và cũng không chỉ là nói mà thôi, chúng ta thường cảm thấy rằng vì chúng ta nói rất hùng hồn về sự hy sinh, nhưng chúng ta lại quá ích kỷ. Sự thử thách sau cùng trong những vấn đề này đó là: không phải là nói quá nhiều, mà là cách cư xử hàng ngày của chúng ta.

Lại nữa, chính hành động của chúng ta trong những tình huống khó khăn mới cho thấy điều gì thực sự ở lại nơi chúng ta. Chính Chúa Giê-su phán “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà tuyên sấm, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: ‘Ta không hề biết các người; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!’ Vậy hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì nền đã xây trên đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành.” (Mt 7,21-27)

Điều này cũng được thánh Gioan ủng hộ khi ngài nói “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta… Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu mến nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu mến bằng việc làm, cách chân thật. Căn cứ vào điều đó mà chúng ta biết rằng chúng ta phát xuất từ sự thật, và chúng ta sẽ đượ can lòng trước mặt Thiên Chúa, vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự. Anh em yêu quý, nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, thì chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa, và điều chúng ta xin Người, thì chúng ta nhận được, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người. Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu mến nhau…Ai tuân giữ các điều răn của Người thì ở lại trong Người và Người ở lại trong kẻ ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Người ở lại trong chúng ta: nhờ Thần Khí mà Người đã ban cho chúng ta.” (1Ga 3,16-4,1)

 

Ngày 26/7

“Tình yêu tựa như sự vĩnh cửu, đang dần triển nở với những ân huệ và ảnh hưởng mới. Xin cho tâm hồn bạn ở lại nơi tâm điểm của tình yêu” [Mẹ Maria Guillot, tháng 12/1862]

Khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nhân tố tình yêu tích cực trong cách đối xử của con người với Thiên Chúa và tha nhân, cha Eymard tiếp tục chỉ ra những phẩm tính tốt của tình yêu. Cha so sánh tình yêu với sự vĩnh cửu không chỉ theo nghĩa là nó không bao giờ có khởi đầu hay kết thúc, mà còn vì tình yêu biểu hiện một sự viên mãn. Tình yêu chân thật thì không bao giờ là một điều gì đó tĩnh tại, tình yêu ấy luôn cùng một cấp độ với độ dài của thời gian. Là một mối tương quan sống động giữa hai người, tình yêu triển nở mãnh liệt hay giảm dần cho đến khi bị dập tắt hoàn toàn. Đôi khi, nó được so sánh với một tài khoản ngân hàng của một người nào đó. Tiền gửi càng nhiều, thì số tiền còn lại trong tài khoản ngân hàng của người ấy càng cao và do đó đem lại độ tin cậy càng cao. Tuy nhiên, khi số tiền được rút ra khỏi tài khoản làm cho số tiền còn lại trong tài khoản giảm đi, và nếu người ta không tiếp tục gửi tiền vào tài khoản, thì tự nhiên tài khoản sẽ suy giảm dần và biến mất hẳn.

Như vậy, sự khác biệt giữa tài khoản ngân hàng tình cảm mà trong đó tiền gửi chính là những hành vi yêu thương dành cho người mình yêu, với tài khoản ngân hàng tài chánh mà trong đó tiền gửi chính là số tiền có trong tài khoản đó, đơn giản là: tài khoản tài chánh có thể vẫn đứng yên một chỗ cho dù không có thêm tiền gửi vào tài khoản. Thậm chí nó có thể gia tăng đáng kể vì tiền lãi dồn lại! Nhưng đối với tài khoản ngân hàng tình cảm, nếu không tiếp tục gửi tiền vào tài khoản, thì mức độ tin cậy sẽ tự động giảm dần và biến mất. Đơn giản là vì trong vấn đề tình yêu, chúng ta liên hệ với một vật sống động, một tương quan sống động giữa hai con người đang sống. Và vì nó là một phẩm chất sống động nên nó phải luôn thăng tiến nếu như muốn tồn tại!

Thực ra, trong tương quan tình yêu giữa hai người, ở đây muốn nói đến tương quan giữa người chồng và người vợ, người ta cần lưu ý rằng khi cả đôi bên đều nghiêm túc trong việc gìn giữ cho mối tương quan của mình, thì họ sẽ khám phá ra những cách thức mới hơn và tốt hơn trong việc bày tỏ tình yêu cho nhau. Nơi đâu thiếu vắng điều này, chẳng hạn như khi người chồng hay người vợ bị cuốn hút vào công việc hay những dự án của riêng mình, thì ngay lập tức sự nguội lạnh trong tình yêu giữa họ sẽ hướng đến những thứ ở bên ngoài. Thói quen thường ngày và lề thói sẽ dần dần thay đổi, và chẳng mấy chốc sẽ không còn gì khác ngoài vỏ bọc bên ngoài của mối tương quan. Đó là lý do vì sao lời đề nghị của cha Eymard cho thấy rằng tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng phải được hâm nóng và bùng cháy lên nhờ những ân huệ và ảnh hưởng mới, bằng không thì chúng ta sẽ chỉ bám vào những hành vi sùng kính thông thường. Khi điều này bắt đầu xảy ra, người mộ đạo không thể bỏ qua những việc thực hành: cầu nguyện và việc đạo đức, nhưng tâm hồn họ sẽ thiếu vắng những việc thực hành này và những việc thực hành này sẽ chỉ được làm một cách máy móc mà thôi. Đó là lúc chúng ta chỉ hài lòng với những lời nói được trích dẫn đâu đó, mà không dừng lại để suy niệm về những gì chúng ta nói với Thiên Chúa khi cầu nguyện.

Một dấu hiệu đáng chú ý khác chính là nỗi buồn chán mà người ta cảm nghiệm được trong suốt buổi cầu nguyện. Trong những tình huống ấy, người ta mong chờ giờ cầu nguyện sớm kết thúc để người ta có thể lao vào những hoạt động cá nhân hấp dẫn hơn. Đến trễ vào giờ cầu nguyện, mơ giữa ban ngày trong suốt giờ cầu nguyện, hoàn toàn quên tất cả những gì người ta đã làm trong suốt thời gian cầu nguyện, đây là những cách biểu lộ cho thấy tâm hồn chúng ta không ở trong mối tương quan với Thiên Chúa. Để tránh điều này xảy ra, người ta cần đảm bảo rằng tâm hồn mình luôn ở trong tâm điểm của việc cầu nguyện, gắn kết với việc cầu nguyện một cách trọn vẹn và tích cực.

 

Ngày 27/7

“Hãy đến cùng Chúa nhân lành một cách trực tiếp và chân thành, và tránh xa việc tự vấn lương tâm vốn chẳng chữa lành điều gì cả nhưng sự tự vấn lương tâm ấy phát xuất từ một tâm hồn không muốn xúc phạm đến Thiên Chúa. Điều đó tốt, nhưng chúng ta cũng không được chú ý đến mình quá nhiều” [Gửi cho cô Stephanie Gourd, tháng 4/1863]

Người ta nói rằng ‘mặc dù cha Eymard không mấy nổi tiếng, nhưng cha lại chiếm được chỗ đứng trong số những nhà thần bí của thế kỷ 19. Điều này thường bị nghi ngờ, song lại làm nên cội nguồn của chúng ta’ (A. Guitton, trang 1). Chúng ta nhìn thoáng qua sự vĩ đại này của cha Eymard trong lời hướng dẫn mà cha dành cho những người con thiêng liêng của mình. Trong lời chú thích ở trên, chúng ta lưu ý rằng cha đánh giá cao tâm hồn của cô Gourd, người không muốn xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng vẫn có đôi chút Cái Tôi xen lẫn đằng sau những ý hướng tốt. Và dựa vào dấu hiệu bịa đặt của một sự tự vấn lương tâm quá đáng mà cô đã thực hiện, cha chỉ ra rằng có lẽ cô đã quá tự hào về sự ngay chính và sự sốt sắng của mình.

Trái ngược với hình ảnh này là hình ảnh của Bông Hồng Nhỏ, thánh Têrêsa thành Lisieux cũng gặp nhiều thử thách trong việc cầu nguyện. Thế nhưng, cậy dựa hoàn toàn vào Chúa, Đấng mà thánh nhân chân nhận là Cha của mình, cũng như nhận ra sự nhỏ bé và sự tuyệt vọng của mình, nên thánh nhân đã tiếp tục làm những công việc nhỏ bé nhất, còn kết quả thì để cho Thiên Chúa định liệu. Thánh nhân cũng khao khát để không xúc phạm đến Thiên Chúa, mà không cần dành giây phút tự vấn lương tâm như đã được nhắc đến ở đây.

Điểm đáng chú ý của một vị linh hướng tốt đó là người ấy có thể phát hiện ra những cạm bẫy thiêng liêng của bản tính tự nhiên này- đây là một ân huệ phát xuất từ Đấng Toàn Năng, chắc chắn là thế rồi, song ân huệ này phải được trau dồi nhờ việc liên lỉ cầu nguyện trong chính nỗ lực tâm linh của người ấy. Quả thực, đây là một kỹ năng hiếm có và có lẽ chỉ một vài người mới có được, họ có thể làm cho mình trở nên thật thà và đơn sơ trước Thiên Chúa cũng như trước những người khác. Khi nhận ra khả năng giới hạn của mình, họ đặt tất cả niềm trông cậy vào Thiên Chúa, Đấng bù đắp cho tất cả những gì còn thiếu sót nơi họ. Tuy nhiên, một vài người khác lại cảm thấy khó có thể ‘chịu đựng’ những bất toàn nơi mình và dường như là muốn nhanh chóng nhổ tận gốc mọi dấu vết của tội lỗi ra khỏi cuộc đời họ. Họ làm chúng ta nhớ t ới những người đầy tớ đã đến gặp ông chủ và nói ‘Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu ra vậy?" Ông đáp: "kẻ thù đã làm đó!" Ðầy tớ nói: "Vậy ông có muốn chúng tôi ra nhặt đi không?" Ông đáp: Ðừng, sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Ðến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi’ (Mt 13,27-30).

Đường lối của Thiên Chúa chắc chắn không phải là đường lối của chúng ta, cũng như trong tương quan Giao ước của chúng ta với Ngài, chúng ta được mời gọi để ‘mặc lấy Đức Kitô’, mặc lấy tâm tưởng của Đức Ki-tô và trở nên giống Người trong mối tương quan của Người với Chúa Cha. Khi chúng ta có thể quy hướng về Chúa Giêsu, mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn. Dĩ nhiên, điều ngược lại là nếu chúng ta quy hướng về chính mình, mọi sự không mong muốn sẽ xảy đến! Thật là hữu ích để lưu ý rằng sự chọn lựa này cần phải được thực hiện một cách có ý thức, nếu muốn có hiệu quả thực sự.

 

Ngày 28/7

“Con sẽ không có được sự bình an trong tâm hồn khi quá bối rối hoặc lo lắng, nhưng chỉ có được sự an bình đó khi biết dâng hiến chính mình cho lòng hiền hậu và nhân từ của Thiên Chúa” [Gửi cho bá tước D’Andigne, 7/1863]

Gửi cho một người con linh hướng khác, cha Eymard cũng dùng lời khuyên tương tự, đó là: không nhìn vào chính mình nhưng là vào Chúa. Dấu hiệu chắc chắn nhất cho thấy chúng ta có thể thực hiện điều này, đó là sự an bình nội tâm sâu thẳm và sự yên tĩnh mà chúng ta cảm nghiệm được ngay cả khi chúng ta nhận thức được những thất bại của mình. Thực tế, một mặt chúng ta chán ghét thất bại đang bừng cháy trong lương tâm chúng ta, nhưng mặt khác, chiều hướng tâm linh của cá tính cũng nhắc nhở chúng ta rằng đó thực sự không phải là vấn đề đối với Chúa, bao lâu chúng ta có thể chấp nhận giới hạn của mình và đặt mọi quan tâm của chúng ta vào nơi Ngài. Đây không phải là một thành tựu dễ dàng và nó chỉ đến sau nhiều lần thực hành, có lẽ sẽ có nhiều thất bại xen vào giữa. Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta đó là: quan niệm Thiên Chúa là Thiên Chúa thánh thiện và hoàn thiện, dĩ nhiên Ngài là như vậy rồi. Nhưng khi tạo dựng chúng ta, Ngài biết rõ bản tính yếu đuối của chúng ta và Ngài yêu thương chúng ta mặc cho những giới hạn này.

Điều mà Ngài đòi hỏi chúng ta khi bước theo Ngài đó là tin vào tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Đó là điều cho phép chúng ta vượt thắng mọi ngáng trở. Dấu hiệu chắc chắn nhất cho thấy chúng ta không đi theo kế hoạch của Thiên Chúa, đó là: chúng ta cảm thấy lo lắng, bối rối, hoặc có lẽ chúng ta để cho mình rơi vào cảm giác bị thất bại và tưởng tượng ra rằng chúng ta đã để mất Thiên Chúa vì đã không giữ lời hứa với Ngài! Theo quan điểm của cha thánh, điều thực sự sẽ xảy ra đó là Thiên Chúa sẽ nhận ra sự yếu đuối của chúng ta cũng như sự bất lực của chúng ta trong việc tự giúp mình, và Ngài sẽ sẵn sàng đến cứu thoát chúng ta. Dường như Ngài nói với chúng ta “hãy để Ta nâng con dậy”, trong khi mọi thứ chúng ta có thể nhìn và nghe đó là một lời khiển trách (thực sự là không phải vậy!). Hiếm người vào thời điểm đó lại có thể “cảm nhận” được trái tim thổn thức yêu thương của Thiên Chúa đang khao khát ôm ấp họ vào bàn tay yêu thương của Ngài. Nhưng Ngài sẽ vui hơn khi chúng ta tự ý chọn Ngài, để Ngài trở thành một “goel” (người bảo vệ) người giải thoát những người máu mủ ruột thịt của mình, đến để trợ giúp chúng ta trong những lúc này.

Điều cần lưu ý lúc này đó là khi chúng ta tiến bộ trong đời sống thiêng liêng, chúng ta ngày càng trở nên thụ động hơn, như cục đất sét trong tay người thợ gốm vậy “Ngươi hãy trỗi dậy và xuống nhà thợ gốm, ở đó Ta sẽ cho ngươi nghe lời Ta. Tôi xuống nhà thợ gốm, và này anh ta đang sử dụng chiếc bàn xoay hai bánh. Nhưng chiếc bình anh đang nắn bị hỏng, như có lúc xảy ra khi thợ gốm nặn đất sét. Anh làm lại một chiếc khác đúng như anh thấy cần phải làm. Bấy giờ có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: “Hỡi nhà Ít-ra-en, đối với các ngươi, Ta lại không thể làm được như người thợ gốm này hay sao? Sấm ngôn của Đức Chúa. Này hỡi nhà Ít-ra-en, đất sét ở trong tay người thợ gốm thế nào, các ngươi ở trong tay Ta cũng như vậy”” (Gr 18,2-7)

Và điều này cũng đúng với cả chúng ta nữa. Chính Thiên Chúa, Đấ ng che chở chúng ta, và mặc dù chính chúng ta thường là những kẻ thọc gậy bánh xe, phá đổ công trình của Thiên Chúa vì quá đề cao cái tôi của mình, thế nhưng Ngài đủ quyền năng và khéo léo để tái thiết lại mọi sự và làm ra những thứ khác còn đẹp đẽ hơn trước!

 

Ngày 29/7

“Con cần biết rằng khi một tâm hồn tốt lành mong ước sống một đời sống thiêng liêng, thì kẻ thù duy nhất đưa đến sự sợ hãi đó là: sự lười biếng, cẩu thả.” [Gửi cho cô Edmee Benier de Montmorand, 7/1963]

Hoàn cảnh của lời khuyên mà cha Eymard đưa ra dường như là một người nào đó đã chọn lựa để thực hiện hành trình thiêng liêng một cách nghiêm túc, và hành trình thiêng liêng ấy đã thực sự bắt đầu. Thườ ng thì điều này xảy ra là domột vài điểm đáng chú ý tác động đến người ấy, bất ngờ không lường trước được, làm cho người ấy phải đoan hứa với Chúa rằ ng mình sẽ quảng đại đáp trả lại. Khi đã thực hiện được những bước đầu tiên, điều có thể xảy ra là người ấy dần dần bắt đầu cho mọi thứ là đúng theo ý mình, cẩu thả trong những chi tiết nhỏ vốn làm nên sự khác biệt trong thực tế. Chi tiết này sẽ thường xuyên đổi mới động cơ thúc đẩy của người ấy, và người ấy sẽ can đảm cũng như mạnh dạn gạt sang một bên mọi lời biện hộ để từ bỏ hành trình thiêng liêng. Rõ ràng là sẽ có những ngáng trở trên đường, lúc đầu là những ngáng trở nhỏ nhưng sẽ dần lớn lên về kích cỡ và độ khó theo thời gian.

Ngáng trở này thường là gương sống của người khác, thậm chí có lẽ là những người hết sức tận tụy ở xung quanh chúng ta, họ là những người đã không thật lòng chọn lựa để bước theo lời mời gọi của Chúa. Điều làm cho cám dỗ này trở nên tệ hại đó là những con người này dường như là thành công và cuộc đời dường như là êm xuôi đối với họ; nhưng ngược lại người nào tìm cách bước theo Chúa một cách trung thành, thì lại nếm đủ mọi thứ gian lao thử thách! Những ngáng trở khác có thể xen vào đó là: những bất lợi về thể lý, một công việc cấp bách cần phải giải quyết ngay, sự chế giễu của bạn bè và hàng xóm,… Trong thực tế, những ngáng trở này giống như những sợi chỉ nhỏ buộc chúng ta lại với Cái Tôi, chúng có thể dễ dàng bị cắt đứt, làm cho kinh nghiệm ban đầu của chúng ta đủ mạnh và sự lôi cuốn ban đầu của chúng tiếp tục được duy trì qua sự đổi mới thường xuyên! Nhưng cho tới khi chúng thực sự bị cắt đứt, chúng ta cũng không thực sự tự do.

Điều lạ là khi chúng ta đặt chân mình xuống và quyết định tiếp tục cuộc hành trình thiêng liêng, mọi sự sẽ trở nên dễ dàng và đơn giản, và còn gì hơn khi cuối bài thực hành thiêng liêng, chúng ta thực sự cảm thấy tốt vì đã trung thành với chương trình chọn lựa của mình. Và nếu điều này được lặp lại vào những ngày sau đó khoảng 2 tuần lễ, chúng ta nhận ra rằng chúng ta đã phát huy được thói quen của một lối sống mới. Thế nhưng, điều đó không gây ra một vấn đề lớn làm chúng ta lại rơi vào sự lười biếng một lần nữa. Và nếu chúng ta chịu thua, việc trở lại với hành trình thiêng liêng của chúng ta sẽ trở nên khó khăn hơn và căn bệnh sẽ lại càng tái phát.

Đó là lý do vì sao cần phải có “nhóm hỗ trợ” của một vài người bạn, họ là những người cùng thực hiện hành trình thiêng liêng này. Sự hỗ trợ của những người khác trong nhóm sẽ nâng đỡ người ta khi cơn cám dỗ nổi lên. Và nếu người ta có thể vô tư về những cảm xúc và những thất bại của mình trong lúc ấy, thì sẽ càng dễ dàng hơn trong việc trung thành với quyết định theo Chúa của mình. Việc trao đổi với vị linh hướng chính là một sự trợ giúp khác mà người ta có thể dùng đến và nếu người ấy khôn ngoan cũng như hiểu biết, thì sự trợ giúp được trao ban và được lãnh nhận ấy có thể là rất hữu ích. Những cuộc chiến này hiếm khi giành được thắng lợi khi người ta chỉ biết đơn thân độc mã chiến đấu một mình!

 

Ngày 30/7

“…Hãy đến cùng Chúa chúng ta giống như một người nghèo vậy, tuy nhiên người nghèo là người được yêu thương và được quyền ưu tiên, người nghèo là những người mà thái độ của họ chỉ là biết ơn, những người mà công trạng của họ chỉ là biết cách cầu xin và lãnh nhận…” [Gửi cho bá tước D’Andigne, 8/1863]

Nghịch lý của Ki-tô giáo mà tất cả chúng ta phải đối diện lúc này hay lúc khác trong đời sống thiêng liêng đó là đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa đường lối của chúng ta! Như thánh Phao-lô viết trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô “thưa anh em, anh em hãy nghĩ xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, đâu có mấy người quý phái. Song những gì điên dại trong thế gian, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì yếu đuối trong thế gian, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những gì mạnh mẽ, những gì hèn mạt trong thế gian, những gì bị khinh thường, những gì không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự hào trước mặt Thiên Chúa.” (1Cr 1,26-29). Khi chọn lựa chúng ta vì sự nghèo nàn của chúng ta, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta chấp nhận sự trống rỗng của mình và vui vẻ đặt sự trống rỗng ấy vào bàn tay uy quyền của Ngài, để khi cộng tác với Ngài, chúng ta có thể làm những việc vĩ đại cho Ngài!

Sự yếu đuối của chúng ta chỉ có tác dụng lôi kéo Thiên Chúa ngày càng gần với chúng ta mà thôi; Ngài mau chóng giải cứu chúng ta khi biết rằng trong sự thiếu thốn, chúng ta sẽ cầu xin Ngài trong đức tin và đức mến! Vì thế, khi chúng ta biết cách sử dụng sự thiếu thốn của mình một cách tốt nhất, thì chúng ta thực sự chẳng cần lo lắng gì cả. Chúng ta không cần biện minh về sự yếu đuối của mình, cũng không cần giải thích, không cần phải xấu hổ vì điều đó với người khác. Đó là điều chúng ta cần làm khi từ bỏ chính mình, sự yếu đuối cũng như giới hạn, nhưng đặt sự yếu đuối đó vào bàn tay uy quyền và sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng có thể biến đổi thế giới. Đây là nghịch lý căn bản của Ki-tô giáo, nhưng quá khó để điều khiển và thực hành một cách hiệu quả khi chúng ta đã quen thuộc.

Theo tính tự nhiên, dường như chúng ta chán ghét sự yếu đuối, sự đổ vỡ và dùng mọi phương tiện khả thi để giải quyết chúng. Dĩ nhiên, nỗi sợ hãi của chúng ta đó là: những người khác sẽ biết được sự yếu đuối ấy và sẽ chối bỏ hay giễu cợt chúng ta, và bấy giờ chúng ta bị xem chẳng là gì cả và bị gạt sang một bên, có thể nói là ‘bị xếp lên kệ sách’. Trong khi con người có thể và thường xuyên đối xử với chúng ta như vậy, thì đường lối của Thiên Chúa lại ngược hẳn. Khi đối xử với Thiên Chúa, chúng ta càng ít tự hào bao nhiêu, thì càng tốt bấy nhiêu. Thực tế, khi hiểu được nguyên lý quan trọng này, thánh Phao-lô khẳng định ‘Nhưng Người (Thiên Chúa) nói với tôi: “Ơn của Thầy đủ cho anh rồi, vì quyền năng được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Thế nên tôi rất thích tự hào hơn về những yếu đuối của tôi, để quyền năng của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui mừng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, khốn quẫn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Quả thật khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh’ (2Cr 12,9-10)

Khi một người nào đó hiểu được nguyên tắc tâm linh quan trọng này và bắt đầu thực hành nó một cách sốt sắng, thì người ấy đang tấn tới về đường thiêng liêng. Một lời đề nghị hữu ích để trung thành với những đường lối ấy chính là cầu xin Chúa mỗi ngày ban cho chúng ta, nhất là sự khiêm hạ để giúp chúng ta luôn khiêm nhường và ý thức sự yếu đuối của mình! Có thể nói, chúng ta cần luôn luôn liên hệ với những căn nguyên của mình.

 

Ngày 31/7

“Hãy ước mong cho cha có được Phòng Tiệc Ly thực sự (trước tiên) rồi sau đó là Phòng Tiệc Ly Nội Tâm; bấy giờ cha sẽ hạnh phúc” [Gửi cho bà Nataly Gióoc đan, 1/1864]

Lời chú thích này của cha Eymard trở nên dễ hiểu, trái ngược với bối cảnh của những biến cố đánh dấu những năm cuối đời của cha. Các thành viên của Hội dòng Thánh Thể cảm thấy rằng đó sẽ là một ý tưởng tuyệt vời nếu họ, những người tận hiến cho Thánh Thể, có thể sở hữu và sử dụng Phòng Tiệc Ly, căn Phòng Trên mà Chúa Giê-su đã dùng khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Vì thế, họ đã cố gắng rất nhiều để dành được đặc quyền cao trọng này, thế nhưng tất cả chỉ là hão huyền!

Tuy nhiên, Chúa đã dùng ước muốn được gieo vào lòng họ này để dẫn dắt cha Eymard khám phá ra một kho tàng còn quý giá hơn nhiều, đó là Phòng Tiệc Ly Nội Tâm, cung lòng của cha_ nơi Thiên Chúa ngự trị. Vào thời điểm viết lời chú thích này, câu trả lời có phần bất lợi từ phía Đức Thánh Cha chưa đến được với cha Eymard, vì cha đang trải qua đợt Đại Tĩnh Tâm (65 ngày) trong lúc chờ đợi câu trả lời này. Vì thế chúng ta thấy cha vẫn hy vọng rằng câu trả lời sẽ là tích cực để cha có thể dung hòa với khía cạnh khác (tâm linh) vốn đã trở thành một thực tại mãnh liệt trong cuộc đời cha: Sự hiện diện của Thiên Chúa mà cha đã ý thức được ngày qua ngày. Tuy nhiên, cha nhận ra rằng đây là một ân huệ cao quý mà Chúa nhân lành đã ban cho cha, vì vậy cha ước ao để có được nó bằng mọi cách. Biết được sự yếu đuối của mình, cha cầu xin lời cầu nguyện của những người khác.

Phần còn lại trong tiểu sử của cha cho thấy cuộc đời của cha đã đổi khác thế nào sau cuộc trở lại Rô-ma. Cha vui mừng về việc nhận thức được sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho cha và cha đã tìm cách đáp trả cho cân xứng. Việc cha chấp nhận bản thân mình, sự yếu đuối của bản thân, cũng như những phản ứng trong những tình huống cha bị từ chối hay giễu cợt quả thực là rất giống với Đức Ki-tô đến nỗi bất kỳ ai đã biết rõ cha đều cho là cha không thể làm được như vậy, mà quy gán điều này là do sự hiện diện của Chúa và Thầy Chí Thánh. Trước kia, cha mong có được một căn phòng với cánh cửa sổ mở ra hướng về nhà nguyện, để từ đó cha có thể nhìn thấy Nhà Tạm một cách rõ hơn, nhưng bây giờ cái nhìn của cha lại hướng vào trong tâm hồn với cùng một niềm vui và lòng biết ơn. Mong ước thuộc trọn về Đức Ki-tô, cha không chỉ thực hiện Quà tặng Bản vị (Gift of Self) mà còn tôn vinh nó qua Lời khấn Nhân cách để nhờ đó cha hoàn toàn tự do và xác tín chọn lựa thuộc trọn về Đức Ki-tô, từ đó cha sẽ trở nên “Đức Ki-tô” mặc dù những hình thức bên ngoài vẫn là của cha Eymard.

Cha Eymard không bao giờ áp đặt lời khấn thứ tư: Lời khấn Nhân cách (Vow of Personality) lên bất kỳ một môn đệ nào của cha, mặc dù chúng ta có thể đoan chắc rằng cha muốn họ cũng nhận được ân huệ này để nhìn thấy những kết quả kỳ diệu mà cử chỉ này tạo ra nơi một con người quảng đại và sẵn sàng! Tuy nhiên, đúng ra cần nói thêm rằng những ân huệ cao quý này chỉ xứng đáng dành cho những con người đặc biệt, những con người được phú ban cho một tấm lòng quảng đại và sự trung tín nổi trội! Tất cả điều này là do công trình của Thiên Chúa, tất cả những gì Ngài đòi hỏi chúng ta đó là sẵn sàng thuộc trọn về Ngài.

Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, SSS

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.