365 Ngày Với Cha Thánh Eymard – Tháng 5

365 NGÀY VỚI CHA THÁNH EYMARD – THÁNG 5

 

Ngày 1/5

“Việc thờ lạy không thể thực hiện một cách tốt đẹp nếu thiếu hiệp thông” [ ]

Vào những năm 70 và 80 của thế kỷ 20, có lẽ việc cầu nguyện không mấy phổ biến trong Hội thánh. Nhiều người cho rằng thay vì lãng phí thời giờ vào việc cầu nguyện, thì tốt hơn hết là dùng khoảng thời giờ ấy để phục vụ người nghèo và những người có nhu cầu! Thật không khó để nhận ra rằng dành một giờ để cầu nguyện trước Thánh Thể sẽ là lãng phí nếu việc cầu nguyện ấy không biến đổi người cầu nguyện, dù chỉ là một chút! Việc cầu nguyện của chúng ta không phải đơn thuần là đem lại vinh quang cho Thiên Chúa bằng việc dùng những lời, cụm từ và những bài thánh thi đẹp. Ước muốn duy nhất của Thiên Chúa, đó là: chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người và trở nên những công cụ biết chia sẻ tình yêu ấy cho người khác. Đó chính là việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật, như Chúa Giê-su đã khuyên bảo (Ga 4,23). Thiên Chúa không cần những lời trống rỗng của chúng ta, thay vào đó Người tìm kiếm tâm hồn và cuộc đời của chúng ta! Người muốn sai chúng ta ra đi để trở thành những tông đồ cho tình yêu của Người.

Vì thế, điều cốt yếu trong việc cầu nguyện của chúng ta chính là tình yêu, tình yêu mà chúng ta có được nhờ vào việc kết hiệp với Thiên Chúa. Tình yêu đưa chúng ta vào sự liên hệ mật thiết với Thiên Chúa nơi Lời và Nhiệm tích Tình yêu của Người. Nhưng như chính Chúa Giê-su đã nói với chúng ta, chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nếu đồng thời chúng ta không yêu thương người thân cận của chúng ta. Hơn thế, Ngài còn nhắc nhở chúng ta rằng người thân cận là bất cứ ai ở xung quanh chúng ta, những người đang cần được giúp đỡ. Chính lúc chúng ta biết mở lòng mình ra và phục vụ những con người đang cần được giúp đỡ này, thì chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa. “Mỗi lần các ngươi làm điều này cho một trong những người anh em bé nhỏ của Ta là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Ẩn sâu bên dưới cuộc tranh luận giữa cầu nguyện và hoạt động của Ki-tô giáo mà chúng ta nhận thấy nơi cuộc sống của nhiều Ki-tô hữu có thể là một sự hiểu biết chưa hoàn hảo khi nói rằng ‘Chúa Giê-su thực sự và chỉ hiện diện một cách thực sự dưới hình Bánh Thánh’

Thực ra thì, Công đồng Vaticano II và nhiều bài viết của Đức Thánh Cha cho chúng ta biết Chúa Giê-su hiện diện một cách thực sự trong bảy cách khác nhau: 1/ Thánh Thể. 2/ Lời. 3/ Các Bí tích. 4/ Hội Thánh [nơi có hai hay ba…]. 5/ Người nghèo [điều các ngươi làm…]. 6/ Mỗi cá nhân đã được rửa tội [ai ăn thịt Ta…]. 7/ Phẩm trật [ai lắng nghe các ngươi…]. Điều được đề cập đến ở đây là Chúa Giê-su đang hiện diện một cách tương tự và thực sự trong bất kỳ và tất cả mọi hình thức. Sự hiện diện này là cách thế tương tự, duy nhất và là hình thức của những thay đổi hiện tại. Và trong sự hiện diện này, Chúa Giê-su cũng bày tỏ những mối tương quan liên cá nhân mà chúng ta nhận ra nơi con người.

Vì vậy, không ai có thể nói rằng việc “kết hiệp” của chúng ta với Chúa Giê-su chấm dứt ở hay chỉ được tìm thấy nơi Thánh Thể hay việc cầu nguyện trước Thánh Thể. Việc kết hiệp được đổi mới ở đó, nhưng phải tiếp tục diễn ra trong suốt cả ngày khi chúng ta chuyện trò thân mật với cùng một Chúa Giê-su, Đấng đang hiện diện với chúng ta qua những cách khác, đặc biệt nơi con người. Vì thế, việc cầu nguyện của chúng ta phải biến đổi cuộc đời chúng ta… đó chính là việc kiểm tra sau cùng về hiệu quả của việc cầu nguyện của chúng ta, chúng ta ngày càng trở nên giống Chúa Ki-tô hơn trong cách đối xử với người khác, đặc biệt là chúng ta có thể vui vẻ đón nhận Thập giá trong cuộc đời mình. Cầu nguyện và cuộc sống phải liên kết với nhau: chúng ta dùng cuộc đời mình để cầu nguyện và dùng lời cầu nguyện để khơi nguồn cuộc sống.

 

Ngày 2/5

“Thánh Thể được thiết lập dưới hình thức của ăn nuôi dưỡng” [ ]

Thật là thú vị khi biết rằng để ban chính mình cho chúng ta một cách hoàn toàn, vĩnh viễn và vô điều kiện, Chúa Giê-su đã chọn cách làm việc này dưới hình thức của ăn nuôi dưỡng. Sự chọn lựa này để lại nhiều bài học cho chúng ta. Trước hết, nó cho thấy sự bất lực của chúng ta trong việc làm bất kỳ điều gì đó để dẫn chúng ta đi sâu vào sự kết hiệp mật thiết hơn với Chúa Cha. Mặc dù được trợ giúp rất nhiều, dân Is-ra-el, dân được tuyển chọn, qua nhiều thế kỷ, vẫn là những kẻ xa lạ với Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ. Hơn nữa, thánh Phao-lô làm chứng rằng dù chúng ta có cố gắng cách mấy, chúng ta vẫn bị sa vào vũng lầy tội lỗi. Duy một mình Thiên Chúa mới có thể giải thoát chúng ta ra khỏi tình trạng thất vọng này mà thôi (Rm 7,14-25).

Kế đến, nó nhắc nhở chúng ta rằng mục đích mà Chúa Giê-su ở lại với chúng ta đó là: Ngài có thể bước vào từng ngõ ngách trong cuộc đời chúng ta. Ngài muốn liên hệ với chúng ta như những cá vị, cũng như qua một mối dây liên kết tình yêu liên cá nhân sâu sắc. Cũng như lương thực mà chúng ta ăn sẽ trở thành một phần sự sống của chúng ta, cũng thế, một khi lương thực ấy được tiêu hóa, thì sẽ không còn sự phân biệt giữa thịt và máu của chúng ta nữa, vì thế Chúa Giê-su ao ước trở thành tâm điểm của tâm hồn và cuộc đời chúng ta! Ngài mong ước soi dẫn mọi ý nghĩ và khát vọng của chúng ta, làm cho những ý nghĩ và khát vọng ấy được tỏ lộ ra, cũng như để ý đến những ý nghĩ và khát vọng ấy cho tới khi đạt được kết quả cuối cùng. Như thế, Ngài có thể dìu dắt chúng ta tiến về quê trời và đạt được sự kết hiệp mật thiết với Chúa Cha.

Hơn thế nữa, chúng ta lưu ý rằng trong vấn đề về của ăn nuôi dưỡng, mọi sinh vật đều trao tặng sự sống để con người tiếp tục sống. Mặc dù chúng không làm việc này một cách có ý thức và tự nguyện, nhưng có một kiểu trao tặng ẩn chứa nơi mọi thực vật và động vật mà cuối cùng là để phục vụ bữa tối của chúng ta. Nhưng khi một con người (và còn hơn thế khi chính Thiên Chúa làm điều đó) dâng hiến chính mình một cách tự nguyện và yêu thương để trở thành của ăn nuôi dưỡng chúng ta, thì có thể nói là, người ấy hoàn toàn hủy mình đi nơi những ai ăn mình để nói lên một tình yêu vô biên! Khi hiểu được điều này, chính chúng ta cũng muốn đáp trả lại tình yêu ấy bằng một tình yêu trao hiến hoàn toàn bản thân mình. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể đạt đến mức độ trao hiến hoàn toàn bản thân của Chúa Ki-tô, nhưng chúng ta càng quảng đại với Ngài bao nhiêu qua việc để cho Ngài trở thành một phần trong cuộc đời của chúng ta, hay qua việc làm cho Ngài trở thành trung tâm đời sống chúng ta, thì đó sẽ càng là thái độ và tình yêu của chúng ta.

Việc kết hiệp của chúng ta với Chúa Giê-su sẽ dẫn chúng ta tiến xa hơn đến nỗi chúng ta cũng biết trở nên của ăn nuôi dưỡng cho người khác một cách tự nguyện và đầy yêu thương. Chúng ta làm việc này qua những lời ngợi khen, khích lệ, nhìn nhận, tha thứ, biết ơn…, vì thế đem lại sự sống mới cho người khác. Khi chúng ta biết làm điều này cho nhau, bấy giờ chúng ta mới có thể nói rằng Thánh lễ của chúng ta thực sự đang thực hiện sự biến đổi. Thánh lễ mang ý nghĩa là phát sinh. Cách làm này sẽ là một bổn phận, đặc biệt là đối với các bậc cha mẹ đang giáo dục con cái, đối với các thầy dạy cũng như các nhà đào tạo trong nhiệm vụ của mình, đối với các nhà lãnh đạo hướng đến các chủ thể của mình. Nhưng Thánh Thể đi xa hơn nữa khi thách đố từng người biết trao ban cho người khác những gì mình đã lãnh nhận. Thánh Thể làm phát sinh một thái độ trao ban bản thân, hơn là tán thành chủ nghĩa cá nhân nơi chúng ta.

 

Ngày 3/5

“Cầu nguyện là chiếc thang kỳ diệu dẫn tới trời” [ ]

Sự ám chỉ ở đây rõ ràng là nhắm đến chiếc thang của Gia-cóp bắc từ đất lên tới trời (St 28,12-22). Cha Eymard thường ví mình với Gia-cóp, người luôn luôn lên đường. Chính trong một chuyến hành trình như vậy, khi ông chạy trốn khỏi E-sau, người đã bị ông tước đoạt quyền thừa kế, thì Thiên Chúa đã tỏ cho ông biết rằng Ngài sẽ gìn giữ và bảo vệ ông trong mọi cuộc hành trình. Trong sự kiện này, có một điều thật khó hiểu: Thiên Chúa sẽ bảo vệ những ai thực sự bất công với chính anh em mình và có chủ tâm cũng như cố ý. Tuy nhiên, điều này đưa đến một chân lý: tội lỗi của chúng ta sẽ không ngăn cản chúng ta lãnh nhận và cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa. Hơn thế, chính tình yêu vô điều kiện này giải thoát chúng ta khỏi chủ nghĩa cá nhân nơi mình, làm cho chúng ta nhận ra rằng, tựa như một cú sốc, Thiên Chúa thực sự yêu thương chúng ta biết dường nào.

Cầu nguyện cũng có thể được xem là chiếc thang dẫn chúng ta lên trời theo nghĩa là khi chúng ta cầu nguyện chân thành, kết quả hay hiệu quả quan trọng nhất của việc cầu nguyện chính là làm cho chúng ta ngày càng từ bỏ mình đi và lấy Chúa làm trung tâm. Cầu nguyện đem lại cho chúng ta một kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa, cũng như khi tâm hồn và tâm trí của chúng ta được tràn đầy tình yêu của Ngài, thì không gì có thể cuốn hút chúng ta được cả. Trong bối cảnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, mọi thứ khác sẽ trở nên vô nghĩa. Thánh Phao-lô diễn tả điều này, “Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta… (Rm 8,31-39). Tuy nhiên, chỉ có lời cầu nguyện chân thành mới đem lại hiệu quả cho chúng ta, và nhìn chung thì điều này cần phải có một khoảng thời gian để thấy được sự khác biệt.

Việc cha Eymard cảm nghiệm được sự việc lạ lùng này trong cuộc đời mình quả thực là điều không thể chối cãi được. Cha luôn trung thành với ý định của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhưng đặc biệt là trong việc sáng lập Hội dòng. Điều đó nói lên sự gần gũi Thiên Chúa của cha phát xuất từ chính sự dâng hiến hoàn toàn bản thân mình cho Chúa Cha. Bên cạnh đó, cha luôn luôn ý thức rằng cha được tuyển chọn để làm những công việc vĩ đại mà Thiên Chúa đã dự định cho cha; tham vọng khôn cùng của cha luôn luôn là phải làm một điều gì đó đặc biệt cho Thiên Chúa. Một con người ý thức được vận mệnh đời mình thì không thể không ở gần Thiên Chúa, đặc biệt là khi cầu nguyện, vì thế cầu nguyện trở thành một chiếc thang dẫn người ta tới Thiên Chúa.

Mặc dù chúng ta đã đề cập đến chủ đề này nhiều lần, nhưng thật đáng để nhắc lại vì tầm quan trọng nền tảng của nó. Người ta càng leo lên cao, người ta sẽ ngày càng bỏ lại đàng sau tất cả những gì ở dưới mặt đất. Cũng vậy, chúng ta càng ao ước leo lên cao trong mối dây liên kết của mình với Thiên Chúa, chúng ta sẽ ngày càng từ bỏ cái Tôi của mình. Chết đi cho chính mình, đánh mất chính mình, vác thập giá mỗi ngày để theo Đức Ki-tô là những điều kiện không thể thiếu để giúp chúng ta có thể leo lên chiếc thang cầu nguyện. Không nghi ngờ gì nữa, cầu nguyện chính là chiếc thang dẫn đưa tới trời. Bây giờ, điều duy nhất đó là: cần phải có chiếc thang kết nối giữa đất với trời, nói một cách khác là chúng ta có thể dùng chiếc thang đó để đến gần Thiên Chúa. Vì vậy, chết đi cho Cái Tôi trở thành một nguyên lý mà chúng ta không thể bỏ qua.

 

Ngày 4/5

“Cầu nguyện là dây xích vàng kết chặt chúng ta với Thiên Chúa.” [ ]

Đây là một so sánh khác mà cha Eymard dùng để giải thích ý nghĩa và tầm quan trọng của cầu nguyện. Trong bầu khí chúng ta sống ngày nay, khi mà quá nhiều giáo dân thực sự quan tâm đến việc thăng tiến trong cầu nguyện, những so sánh này của cha Eymard sẽ là một sự trợ giúp quan trọng, lẽ dĩ nhiên, chúng ta cũng có thể dùng một cách hiệu quả những sự trợ giúp này cho chính mình. Ở đây, cha Eymard so sánh việc cầu nguyện với một sợi dây xích kết chặt chúng ta với Thiên Chúa. Để cho bất kỳ một sự nối kết nào đạt được hiệu quả và có ích, cần phải bảo đảm rằng sợi dây liên kết ấy không bị gấp khúc hay đứt đoạn. Chức năng của sợi dây xích chính xác là buộc chặt hai đối tượng lại với nhau, và đó chính là điều mà cầu nguyện đem lại cho chúng ta. Nếu chúng ta tự hỏi vì sao như vậy, thì bởi vì cầu nguyện mời gọi chúng ta hoàn toàn mở lòng ra với Chúa Cha và với tình yêu của Ngài. Cầu nguyện loại bỏ bất kỳ một chướng ngại nào được đặt ra, cụ thể là: một trong những chướng ngại lớn nhất chính là Cái Tôi. Vì thế, nếu việc cầu nguyện của chúng ta là chân thành, thì nó không chỉ làm cho chúng ta ngày càng từ bỏ cái tôi của mình, nhưng còn giúp chúng ta kết hiệp với Thiên Chúa một cách hiệu quả.

Kế đến, sự kết hiệp này không chỉ diễn ra trong suốt thời gian cầu nguyện. Cầu nguyện duy trì sợi dây liên kết sâu thẳm này để liên kết chúng ta với Thiên Chúa trong suốt ngày sống. Sức mạnh ẩn chứa đằng sau sự liên kết này chính là tình yêu tuôn chảy trong việc cầu nguyện của chúng ta. Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta thấy rằng sau khi dành một khoảng thời gian tương xứng cho người mình yêu, chúng ta thấy mình “nói”, chia sẻ với người mình yêu rất lâu sau khi người ấy ra về. Cả ngày sống của chúng ta dường như tràn ngập hình bóng của người mình yêu. Và điều này cũng xảy ra tương tự khi việc cầu nguyện là chân thành.

Ở đây cần lưu ý rằng, cầu nguyện thì khác hẳn với việc trích dẫn công thức. Thật không may, nhiều Ki-tô hữu thích dùng những lời cầu nguyện trích dẫn ở đâu đó ngay tại tư gia hơn là cầu nguyện từ thâm tâm. Họ cảm thấy rằng những lời cầu nguyện do người khác soạn ra thì tốt hơn và đẹp lòng Chúa Cha hơn là những lời nói ngập ngừng phát ra từ chính con tim yêu thương của chúng ta. Thế nhưng, không có gì Chúa Cha ưa thích cho bằng là lắng nghe chúng ta nói từ chính trái tim mình, dù cho văn phạm và cấu trúc câu của chúng ta có rối rắm mấy đi chăng nữa. Ngài sẽ đọc được tâm hồn chúng ta, chứ không phải những lời văn chúng ta sử dụng.

Cha Eymard nói với chúng ta: cầu nguyện là dây xích vàng quí báu, giá trị, hiếm thấy và khó có thể có được, và đó chính là điều làm cho nó trở nên quan trọng hơn. Vì việc cầu nguyện của chúng ta là một dây xích vàng, nên nó phải là sự diễn tả của tâm hồn tràn đầy tình yêu của chúng ta. Và vì tình yêu là một thực tại sống động, nó phải luôn luôn lớn mạnh qua việc khám phá ngày càng sâu sắc về tình yêu của Thiên Chúa dành cho chính bản thân chúng ta. Đó là khi chính chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, đặc biệt khi tình yêu của Ngài gây ngạc nhiên cho chúng ta để chúng ta ngày càng sẵn sàng đáp lại bằng tình yêu. Khi việc cầu nguyện của chúng ta được bao trùm bởi tình yêu chứ không phải theo nghĩa là bổn phận hay tiện lợi, thì chắc chắn nó sẽ kết chặt chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta sẽ không chỉ đến gần Thiên Chúa, nhưng còn được nên một với Ngài. Như thánh Phao-lô đã nói: “tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Chúng ta cần biết sử dụng một cách tốt nhất sợi dây xích cầu nguyện này, để duy trì mối dây liên kết với Thiên Chúa trong mọi khoảnh khắc của ngày sống.

 

Ngày 5/5

“Cầu nguyện là sự sống của trái tim ta, là sức mạnh của linh hồn ta, và là đơn vị đo lường cho những ân sủng cũng như sự hoàn thiện của ta.” [ ]

Nhìn chung, khởi đầu đời sống tâm linh của chúng ta, cầu nguyện không gì khác hơn là một bổn phận, hay một đơn thuốc cần thiết cho sự thăng tiến trong đời sống tâm linh. Cầu nguyện làm nên thời khóa biểu hằng ngày trong đời sống tu trì của chúng ta. Tuy nhiên, nếu ai đó biết đặt một trái tim quảng đại và hăng hái vào việc cầu nguyện, thì chính Chúa sẽ lôi kéo người ấy đến sự ngọt ngào trong việc cầu nguyện. Người nào ‘hăng say’ trong việc cầu nguyện, sẽ tìm được niềm vui trong mọi lúc và không lấy làm đủ. Người ấy sẽ dành bao nhiêu thời giờ có thể để cầu nguyện.

Sau giai đoạn ngọt ngào ban đầu, sẽ là một thời kỳ khô khan nguội lạnh khi mọi thứ dường như vô vị và chán ngán. Sự ngọt ngào trước đó sẽ tan biến đi và giờ đây, toàn bộ giờ cầu nguyện sẽ trở thành một thách đố thực sự. Đây là lúc lòng chân thành và niềm tin của người ta bị thử thách. Nếu ai đó có thể đứng vững trong giai đoạn này, tin cậy rằng Thiên Chúa vẫn ở gần, thì dù có đi qua hầm tối cũng vẫn đến được đích, và ánh sáng sẽ lại lóe rạng. Chính trong lúc này việc cầu nguyện sẽ trở thành sự sống của trái tim ta và là sức mạnh cho linh hồn ta. Chúng ta cầu nguyện chưa nhiều vì chúng ta chưa nhận được điều gì, nhưng quan trọng hơn là nhờ và qua cầu nguyện, chúng ta ao ước dâng hiến mình cho Thiên Chúa.

Tất cả mọi thăng tiến sau này sẽ trở thành đơn vị đo lường cho những ân sủng mà Thiên Chúa tuôn đổ trên chúng ta. Lý do giải thích điều này là khi chúng ta thăng tiến trong việc cầu nguyện, ‘công việc’ chúng ta làm sẽ ngày càng ít đi. Thay vào đó, chúng ta để cho Thiên Chúa tự do hành động trong cuộc đời ta. Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là cộng tác và hợp tác với tất cả những gì Thiên Chúa đã sắp đặt và thực hiện cho chúng ta. Thiên Chúa muốn đổ tràn vào trong chúng ta tình yêu của Người và khi Người gặp được một người ngoan hiền và khiêm tốn, không cần phải nói, Người sẽ thực hiện những gì Người muốn cho người ấy. Bao lâu người ấy chống lại sự xâm nhập và lên ngôi của Cái Tôi, bấy giờ người ấy sẽ đi từ sức mạnh này đến sức mạnh khác trong mối dây liên kết cá nhân với Thiên Chúa. Cầu nguyện sẽ ngày càng trở nên thinh lặng hơn, ít lời và bớt rườm rà hơn; cầu nguyện sẽ là chuyện của con tim hơn là của cái đầu và miệng lưỡi. Việc ngày càng loại bỏ cái tôi sẽ được lưu ý trong cuộc đời của người ấy, và bất cứ việc gì người ấy làm dường như sẽ đạt được thành công vì giờ đây không chỉ có mình người ấy làm, nhưng chính Thiên Chúa cùng làm với người ấy.

Người ấy cũng trở nên linh động và nhạy cảm hơn với những tác động của Thần Khí Chúa trong cuộc đời họ. Người ấy đón nhận sứ điệp với một niềm tin tưởng cao độ, và đáp trả với một sự hăng hái và sốt sắng hơn. Vì thế, phẩm chất và mức độ của việc cầu nguyện sẽ trở thành đơn vị đo lường cho những ân sủng mà chúng ta đã nhận được cũng như “sự hoàn thiện” mà Thiên Chúa đang thực hiện nơi chúng ta. Tuy nhiên, điều quan trọng là người ấy phải canh chừng cũng như cảnh giác trước những nguy cơ xâm nhập của Cái Tôi. Nơi đâu Cái Tôi được tiếp đón, thì nơi đó tiến trình sẽ chựng lại hay bắt đầu thụt lùi. Vì trong đời sống tâm linh, nếu không tiến thì chắc chắn sẽ lùi, người ta không thể giậm chân tại chỗ trong mối tương quan của mình với Thiên Chúa!

 

Ngày 6/5

“Cầu nguyện là tôn vinh lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa.” [ ]

Thật sự là khi một ai đó dành giờ để cầu nguyện một cách tự do, yêu mến và vui vẻ thì đó là một dấu hiệu cho thấy ân sủng đang hoạt động nơi cuộc đời của người ấy. Như Đức Giê-su đã nói, “chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai phái tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,44). Thăng tiến trong việc cầu nguyện không phải là điều mà người ta có thể đạt được tự sức mình, có thể nói như vậy, nhưng đó là chiến thắng của ân sủng của Thiên Chúa trên cái tôi ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân. Vì thế, sự thực là nếu ai đó cầu nguyện thường xuyên, trung thành, yêu mến và kiên trì thì đó là những dấu hiệu cho thấy chiến thắng của ân sủng và làm vinh danh Thiên Chúa.

Cầu nguyện là một trong những gia sản vĩ đại mà người Do Thái để lại cho chúng ta nơi Hội Thánh. Toàn bộ Cựu Ước và cụ thể là các Thánh vịnh là một lời chứng sống động về mối tương quan sâu sắc đã tồn tại giữa Dân được tuyển chọn với Gia-vê Thiên Chúa. Thế nhưng, trong số họ, có một số người đã để cho mối tương quan giữa Thiên Chúa với mình bị hủy hoại đi bởi Cái Tôi. Chính Đức Giê-su đã cảnh báo chúng ta về lối cầu nguyện của những người Pha-ri-sêu cũng như những điều ưa thích của họ, “họ thích cầu nguyện dài dòng… đừng làm như họ” (Mt 6,1-6). Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế là một ví dụ khác nảy ra trong đầu chúng ta (Lc 18,11-14). Rõ ràng là lối cầu nguyện của những người chỉ biết quy hướng về chính mình thì không thể làm vinh danh Thiên Chúa được.

Có một ý nghĩa khác mà qua đó việc cầu nguyện của chúng ta sẽ làm vinh danh Thiên Chúa. Khi việc cầu nguyện này được thực hiện bởi một người đang trong tình trạng tuyệt vọng, một tình trạng mà không ai có thể đến để giúp đỡ được, và Chúa đáp lại lời cầu nguyện của họ, bấy giờ rõ ràng là câu trả lời chỉ phát xuất từ một mình Thiên Chúa. Vì thế, chỉ đến với một mình Thiên Chúa thì người ta mới đạt đến vinh quang. Do đó, khi chúng ta cầu nguyện với ý thức sâu sắc về sự bất lực của mình, thì việc cầu nguyện ấy sẽ hoàn toàn được chấp nhận cũng như sẽ đem lại danh dự và vinh quang cho Thiên Chúa. Hơn thế, khi câu trả lời của Thiên Chúa hoàn toàn vượt ra khỏi những nỗ lực của chúng ta, lòng trung thành, tình yêu của chúng ta, … và Ngài sẽ tiếp tục chúc phúc cho chúng ta mặc cho những thất bại của chúng ta, thì sự bao dung của tình yêu Thiên Chúa sẽ đem lại cho Ngài vinh quang tột bậc.

Vinh quang chính là nét tinh túy tự bản chất của một người nào đó được nhận ra qua hành động. Do đó khi một ngôi sao bóng đá dẫn bóng trên sân cỏ và ghi một bàn thắng dường như là khó có thể thực hiện được, chúng ta được chứng kiến kỹ thuật dắt bóng của anh; nhìn vào kỹ năng ấy qua việc ghi bàn thắng tuyệt đẹp, chúng ta ‘tôn vinh’ anh. Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn vào cũng một con người đang nỗ lực để ghi điểm trong trận đấu bóng rổ hay tại sân golf, chúng ta lại không làm chứng cho vinh quang của anh cũng như là không tôn vinh anh. Vì thế, trước khi thực sự tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta cần làm chứng cho điểm nổi bật của Ngài được thể hiện qua hành động. Và điểm nổi bật của Thiên Chúa là gì? Đơn giản là Ngài đã hạ mình xuống để nâng những kẻ thấp hèn từ đống phân tro và đặt họ lên hàng khanh tướng. Khi chúng ta nhận ra cử chỉ này từ nơi Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tôn vinh Ngài. Khi cầu nguyện, chúng ta đặt vào tâm trí tất cả những hành động tuyệt vời của Thiên Chúa mà chúng ta đã để ý trong suốt ngày sống và chúng ta cất cao tiếng hát tạ ơn, hoặc tôn vinh Thiên Chúa. Mỗi Thánh Lễ cũng mời gọi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhiều lần, như trong “kinh Vinh danh”, kinh “Thánh, Thánh, Thánh”, Vinh tụng ca và Đại Amen.

 

Ngày 7/5

“Tôi đề ra một nguyên tắc, đó là: đặc sủng của Hội Dòng chính là đặc sủng cầu nguyện, và chúng ta phải khác biệt với tất cả các hội dòng khác. Đây chính là đặc sủng của anh em.” [Gửi cho các tu sĩ Thánh Thể, tháng 8/1867]

Đây là những lời mà qua đó cha Eymard đã làm nổi rõ chuyên môn của Hội Dòng Thánh Thể mà cha được gợi hứng để thành lập. Lời khẳng định nói cho chúng ta biết rằng mỗi tu sĩ Thánh Thể là những người trổi vượt trong nghệ thuật cầu nguyện, không phải vì người ấy là một thiên tài trong lĩnh vực này, nhưng đơn giản là vì đây là một đặc sủng, một ân huệ đặc biệt được trao cho người ấy khi gia nhập Hội Dòng! Cha Eymard ý thức sâu sắc rằng nhóm nhỏ các tu sĩ của cha là những người được Thiên Chúa tuyển chọn một cách đặc biệt. Cha đã làm việc với ít nhất là bốn nhân vật xuất sắc khác để hướng đến việc thiết lập một Hội dòng chuyên về tôn sùng Thánh Thể. Tất cả những vị còn lại thì khác biệt về một vài đường hướng hay những thứ khác; ít là có hai vị đã là đấng sáng lập của một hội dòng. Nhân vật nổi bật còn lại là Giám mục Va-ti-can, và ở đây cha Eymard, một linh mục khiêm tốn thuộc dòng Đức Mẹ (Marist), người được chọn để trở thành Đấng sáng lập một Hội Dòng chuyên về việc tôn sùng Nhiệm Tích Thánh Thể.

Đối với cha Eymard, đây là một dấu chỉ rõ ràng cho thấy Thiên Chúa đã có một kế hoạch đặc biệt dành cho nhóm nhỏ này; sứ vụ của họ không chỉ đơn thuần là làm việc phạt tạ, nhưng là trở thành những môn đệ và tông đồ của tình yêu Thiên Chúa được tỏ lộ nơi Nhiệm Tích Tình Yêu. Sứ vụ của họ là một nhiệm vụ đặc biệt, do đó cha Eymard nhận thấy rằng họ cần được trao tặng những ân sủng đặc biệt để hoàn thành nhiệm vụ này.

Hơn thế, khi suy xét về bản chất của nhiệm vụ được trao cho họ, với tên gọi: làm cho tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện cho tất cả mọi người, một nhiệm vụ siêu phàm đòi hỏi động lực đặc biệt nơi ân sủng của Thiên Chúa, cha nhận ra rằng họ sẽ đạt được mục đích của mình không chỉ qua công tác tông đồ mà thôi, nhưng chính yếu là nhờ vào việc cầu nguyện, hay đúng hơn là qua hoạt động được hỗ trợ bởi việc cầu nguyện. Vì thế, đối với các tu sĩ Thánh Thể, việc cầu nguyện của họ là một hoạt động tông đồ. Bên cạnh đó, họ cũng cần đón nhận những ân sủng và sự trợ giúp để soi chiếu cho người khác biết về tình yêu Thiên Chúa, việc cầu nguyện của họ sẽ loan báo tình yêu Thiên Chúa cho chính mình và cho người khác. Từ lòng nhân lành, Chúa muốn tuôn đổ những ân sủng ấy cho tất cả mọi người, nhưng Ngài cần những con người nhiệt thành với một trái tim rộng mở để đón nhận những ân sủng ấy, và hành động như những máng chuyển thông để chia sẻ ân sủng với người khác.

Vào thời đại của chúng ta, khi con người ngày càng chú trọng vào hoạt động tông đồ trái ngược với việc cầu nguyện và chiêm niệm, thì thật đáng để chúng ta tự nhắc nhở mình rằng việc cầu nguyện của tu sĩ Thánh Thể có hai hiệu quả: nó lôi kéo chính các tu sĩ vào nhóm bạn hữu thân thiết của Thiên Chúa, đồng thời việc cầu nguyện cũng tuôn đổ trên những người khác là những người được Thiên Chúa mời gọi để cảm nghiệm tình yêu ấy. Vì thế, qua việc cầu nguyện, tu sĩ Thánh Thể đóng góp vào việc loan báo vương quốc tình yêu và bình an. Thực tế, điều này có nghĩa là những nguyên tắc then chốt như Sự thinh lặng, Cô tịch và Sự tận hiến sẽ cần được trau dồi và nuôi dưỡng một cách cẩn trọng.

 

Ngày 8/5

“Hiến lễ bản vị là hành vi dâng hiến cao nhất.” [ ]

Thực tế, tất cả các tác giả viết về đường thiêng liêng đều thừa nhận rằng điểm mấu chốt, nền tảng của việc cầu nguyện hữu hiệu chính là việc dâng hiến hoàn toàn và đầy yêu thương mà chính chúng ta thực hiện trong bàn tay của Thiên Chúa: ‘thinh lặng (silence), cô tịch (solitude) và dâng hiến (surrender) là những thành phần then chốt của việc cầu nguyện hữu hiệu!’ Sự diễn tả này có ý nghĩa đối với các tu sĩ Thánh Thể, nó như những ký hiệu viết tắt mà họ đặt sau tên của mình: s.s.s. Thật ra, nếu người nào đó đi theo tiến trình thăng tiến bình thường trong việc cầu nguyện, người ấy sẽ nhận thấy rằng sau giai đoạn nồng nàn, việc cầu nguyện của họ sẽ dần dần bớt dông dài và không quy hướng về cái tôi của mình nữa. Sẽ bớt đi hoạt động của lý trí mà thay vào đó là những hành vi nội tâm hơn, yêu mến hơn của con tim, những cảm xúc sẽ dễ dàng hơn và hiệu quả hơn. Theo một nghĩa nào đó, việc giảm bớt những hoạt động của lý trí chính là một kiểu dâng hiến mà người cầu nguyện tìm cách giảm bớt đi để kiểm soát được dòng chảy cầu nguyện; người ấy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn mọi hành động trong khi cầu nguyện.

Mức độ thứ hai chính là sự cô tịch, và chúng ta có thể nói rộng ra rằng yếu tố này do chính Chúa ban. Các tu sĩ nhận ra rằng họ ngày càng bớt dính bén với những thứ mà trước đây dường như là không thể từ bỏ được. Khi người ấy bắt đầu giảm bớt mức độ của con tim, “sự cảm nếm” và ước muốn dành cho Thiên Chúa sẽ ngày càng trở nên mãnh liệt hơn. Dần dần, điều này sẽ làm cho mọi quyến rũ khác giảm bớt phần quan trọng. Bên cạnh đó, khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta không thực sự phải làm mọi việc kiểm soát và hướng dẫn, nhưng Thánh Thần sẽ làm điều đó tốt hơn khi chúng ta để cho Ngài hoàn toàn tự do, chúng ta sẽ nhận ra chính mình nhờ một sự cô tịch thẳm sâu hơn. Bấy giờ, chúng ta sẽ ngày càng ở lại trong cõi lòng hơn là ở lại trong cái đầu cũng như lý trí.

Tuy nhiên, trong khi hai yếu tố đầu tiên là công trình và ân huệ của Thiên Chúa dành cho chúng ta, thì yếu tố thứ ba: sự dâng hiến, lại là một điều gì đó mà chúng ta cần phải thực hiện bằng nhiều nỗ lực. Không cần quan tâm xem Thánh Thần có mời gọi hay thậm chí là vỗ về chúng ta hay không, nhưng suy cho cùng đây chính là tự do, hành vi có ý thức của ý chí ảnh hưởng đến sự dâng hiến. Điều này không có nghĩa là yếu tố này sẽ là một chướng ngại lớn; điều được nhấn mạnh là người ta phải làm cho việc dâng hiến này trở thành một hiến lễ được dâng tiến một cách tự nguyện và đầy tình thương. Thánh Thần sẽ không đòi buộc chúng ta phải dâng hiến, mặc dù khi chúng ta thất bại, Ngài vẫn tiếp tục mời gọi và lôi kéo chúng ta về phía trước. Khi người ta có thể hoàn toàn quảng đại trong việc dâng hiến này, bấy giờ việc cầu nguyện sẽ đem lại kết quả tốt nhất. Đó là lúc chúng ta sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn.

Đức Ma-ri-a là hiện thân của hành động này một cách tuyệt vời qua việc đáp trả bằng chính cuộc sống của Mẹ đối với Chúa Cha. Chúng ta nhận ra điều này qua lời đáp trả của Mẹ đối với sứ thần trong biến cố Truyền Tin được nhắc đến trong Tin Mừng, ‘xin hãy làm cho tôi như lời sứ thần truyền’. Và Mẹ vẫn luôn trung thành với việc dâng hiến này trong suốt cuộc đời. Mẹ không bao giờ tìm cách làm theo ý riêng mình, đặc biệt nếu điều đó dường như đi ngược lại với những gì Thiên Chúa muốn Mẹ thực hiện!

 

Ngày 09/5

“Hiến lễ bản vị là tình yêu chân thật, tình yêu chân thật duy nhất.” [ ]

Một ai đó đạt đến tầm mức dâng hiến hoàn toàn bằng tình yêu chỉ khi người ấy nếm cảm được sự ngọt ngào của Thiên Chúa. Cho đến lúc đó, chắc chắn là luôn luôn có những sợ hãi và nỗi nghi ngờ kéo dài. Chúng ta nhận ra điều này ngay giữa các tông đồ sau biến cố phục sinh của Chúa Giê-su. Mặc dù các ông biết rõ rằng Chúa Giê-su đã sống lại và giờ đây Ngài hoàn toàn ở một trạng thái khác, nhưng ‘vài người trong các ông vẫn nghi ngờ!’ (Mt 28,17). Điều này cũng giống việc một người nào đó đang xuống một con dốc thẳng đứng: đang lúc tưởng rằng mình có thể làm việc đó một cách an toàn, thì người ấy cảm thấy đôi lúc cũng cần phải bám vào rào chắn, để đảm bảo mọi chuyện diễn ra một cách êm xuôi. Thế nhưng khi người ta cảm nhận được tình yêu, đặc biệt là tình yêu mà Chúa Cha dành cho chúng ta, bấy giờ những nỗi sợ hãi bên trong sẽ tan biến mất và người ta sẵn sàng dâng hiến hoàn toàn mà không cần điều kiện gì cả.

Vì thế, về phía con người, cần phải tạo ra được quà tặng. Quà tặng bản vị chính là kết quả của việc cảm nhận tình yêu đích thực cũng như sự diễn tả của tình yêu ấy. Và khi chúng ta suy nghĩ đến điều này, thì quả thực quà tặng chỉ có ý nghĩa và giá trị khi được bao trùm bởi tình yêu. Không có tình yêu, quà tặng sẽ không hoàn toàn tự nguyện, và sau này có thể bị trả lại. Nhưng khi được trao tặng bằng một cử chỉ yêu thương có ý thức, thì thật khó có thể tưởng tượng rằng người ta sẽ trả lại món quà ấy. Hơn thế nữa, mức độ của sự trao tặng ấy sẽ mỗi ngày một thăng tiến cùng với sự thăng tiến của việc cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa.

Thật là ngạc nhiên vì tình yêu có thể chiếm hữu được một con người! Đó là sức mạnh vĩ đại nhất trên trần gian. Trong số hàng trăm câu chuyện tình nổi tiếng ở Trung Quốc, có một câu chuyện kể về một người đàn ông Trung Quốc cưới một người đàn bà lớn hơn mình 10 tuổi. Vì điều này mà xã hội phê phán họ và đối xử lạnh nhạt với cả hai bằng những cách thức khác nhau. Vì thế, họ đã rời khỏi làng của mình và đến sống trên một dãy núi cao, chỉ mình họ và không bị ai quấy rầy. Nhưng việc xuống núi để mua những đồ dùng cần thiết hằng ngày đã thực sự trở thành một vấn đề. Vì thế, để tạo điều kiện thuận lợi cho vợ mình, người đàn ông trẻ tuổi ấy đã làm ra những bậc thang dọc theo sườn núi và anh ta cần 50 năm để hoàn thành xong 6000 bậc thang. Ngày nay, những bậc thang này là một kỷ niệm tưởng nhớ tình yêu của người đàn ông ấy dành cho người vợ yêu quí của mình. Lịch sử cũng cho chúng ta rất nhiều tấm gương anh hùng khác.

Hạnh phúc và bình an đích thực chỉ có nơi một gia đình hay cộng đoàn khi từng thành viên biết thực hành việc dâng hiến bản thân bằng tình yêu. Trong gia đình ấy, mỗi thành viên có thể cảm nghiệm được sự tiến bộ tối đa về những phẩm chất cần thiết của con người, đặc biệt là sự hy sinh bản thân. Nơi đâu thiếu vắng điều này, cụ thể là trong đời sống của các bậc cha mẹ và những người lớn tuổi, thì sau này sẽ không thể khắc sâu điều ấy vào tâm trí của con cái được. Thật sự, họ thậm chí không thể hiểu được ý nghĩa của việc dâng hiến mà chỉ nhìn nó như một điểm tiêu cực, một dấu hiệu của sự yếu đuối hơn là một sự tưởng niệm đến tình yêu chân thực.

 

Ngày 10/5

“Hãy làm mọi sự cho Thiên Chúa, trong sự hiệp nhất với Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a.” [ ]

Khi chúng ta thực sự cảm nếm được tình yêu của Thiên Chúa cũng như khi Người trở thành tâm điểm của đời sống chúng ta, bấy giờ tự nhiên chúng ta gần như sẽ bắt đầu làm mọi sự cho Thiên Chúa. Làm thế nào để người ta biết rằng mình thực sự đã làm cho Thiên Chúa trở thành tâm điểm của đời mình? Có rất nhiều dấu chỉ cho chúng ta biết điều này. Một trong những dấu chỉ đó chính là chúng ta nhận thấy mình hằng luôn và liên tục đối thoại hay hiệp thông với Chúa. Những gì chúng ta làm hay nói sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu chúng ta không dừng lại đôi chút để tìm xem Chúa muốn gì trong tình cảnh này. Và cuộc trò chuyện nội tâm ấy không phải là một điều gì đó mang tính ép buộc hay giả tạo, nhưng nó có giá trị vì tâm điểm của đời sống con người chính là Chúa.

Một dấu chỉ khác, đó là: ai đã thực sự và thật lòng làm cho Thiên Chúa trở thành tâm điểm, thì người ấy luôn luôn được bao bọc trong sự an bình và niềm vui sâu thẳm. Khi những phiền phức và cản trở đẩy mọi thứ vào trong cuộc đời của người ta, người ta có thể bị xao động và rối loạn, nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Người ấy sẽ mau chóng tìm lại được sự bình tĩnh, vì người ấy biết rằng Thiên Chúa chi phối tất cả và Người sẽ không để cho bất cứ điều gì xảy ra mà không nhắm đến lợi ích cho chúng ta. Điều này cũng tương tự với việc ngồi trên chiếc xe do một tài xế có kinh nghiệm lái. Hành khách cảm thấy an toàn bao lâu người tài xế ấy lái xe và thậm chí khi có điều gì xảy ra ở phía trước, cảm giác tin tưởng vẫn không mất đi.

Một dấu chỉ quan trọng hơn, đó là: chính chúng ta miễn cưỡng phải làm hay nói những gì chúng ta biết là đi ngược lại với ý định của Chúa. Chúng ta không muốn làm tổn thương Người hay chống lại những ước muốn của Người, thậm chí là trong vấn đề nhỏ nhất. Điều này được thực hiện không phải vì sợ hãi bị trừng phạt hay phải lo chu toàn bổn phận, nhưng là bằng tình yêu. Trái lại, mối bận tâm chính là làm việc một cách tốt nhất trong khả năng của mình vì đó là điều Chúa muốn. Nói cách khác, ý muốn, sự hài lòng và những ước muốn tha thiết của Người phải được đặt lên trước sự thoải mái, tiện nghi,… của chính chúng ta. Tình yêu luôn luôn ẩn chứa sự hy sinh, thậm chí là trong những vấn đề nhỏ.

Nhưng một dấu chỉ khác có thể là khi Chúa Giê-su là tâm điểm của cuộc đời chúng ta, Người cũng không bao giờ ở xa chúng ta. Người sẽ trở thành điều mà chúng ta cố gắng đạt được trong suốt ngày sống; mọi dự án, mọi hành động được thực hiện cùng với Người. Chúng ta phát triển một kiểu hợp tác với Thiên Chúa. Một người như thế sẽ thích nghi với mọi tình huống, người ấy không phải lúc nào cũng tìm kiếm những gì phù hợp với mình nhất, tuy thế người ấy không e ngại phải xin những gì cần thiết. Cơ bản người ấy là một con người vững tin, quân bình và hoàn thiện.

Quả vậy, khi hiểu được giá trị của việc sống kết hiệp với Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a, chúng ta có thể nói rằng chúng ta đã nắm bắt được ý tưởng mà cha Eymard đề nghị chúng ta thực hiện. Rõ ràng, việc này đòi hỏi phải có một tương quan mật thiết với Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a cũng như phải chết đi cho Cái Tôi ngay trong những chuyện nhỏ nhặt. Khi nỗi lo sợ phải đánh mất những gì chúng ta cho là quý giá biến mất khỏi cuộc đời chúng ta, bấy giờ mọi sự sẽ trở nên dễ dàng hơn.

 

Ngày 11/5

“Tâm hồn tôi luôn thuộc trọn về Chúa Giê-su.” [ ]

Mặc dù xuất thân từ một gia đình có đạo, nhưng dường như cha Eymard vượt xa mọi người trong gia đình qua việc bước theo Chúa. Lời khẳng định: tâm hồn cha luôn thuộc trọn về Chúa ở trên quả thực là đúng theo nghĩa là ngay từ thời niên thiếu, mọi sự phát xuất từ Thần Khí luôn có một sự lôi cuốn mạnh mẽ đối với cha. Chuyện kể rằng vào một tối nọ, người ta thấy cha mất tích, và sau khi tìm kiếm khắp nơi, cha bị phát hiện là đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu cao với đôi tai áp sát vào Nhà tạm phía sau bàn thờ. Khi được hỏi là đang làm gì ở đó, cha thật thà trả lời: ‘ở đây, em có thể nghe thấy Chúa Giê-su rõ hơn’. Biến cố này cho thấy tình yêu của cha đối với các vấn đề tâm linh ngay khi còn là một đứa trẻ.

Cha khao khát được rước lễ khi còn nhỏ nhưng không được phép vì theo tục lệ thời bấy giờ, nên cha đã cùng đi với chị Ma-ri-an đến nhà thờ để tham dự Thánh Lễ. Sau khi chị rước lễ, cha đã tựa đầu vào lòng của chị và nói ‘bây giờ em có thể nghe nhịp đập của trái tim Người tốt hơn, rõ hơn!’. Chúa Giê-su thực sự là niềm đam mê trong cuộc đời cha, một cuộc đời vốn chỉ xoay quanh Chúa Giê-su cũng như việc làm của Người.

Cha đã cảm nghiệm được sức quyến rũ của cơn cám dỗ như bao người khác, và đôi lúc không chống trả nổi. Thế nhưng chẳng bao lâu khi nhận ra việc làm sai trái của mình, cha đã tìm cách sửa sai, không bận tâm đến cái giá phải trả như thế nào. Chi tiết đánh cắp một chiếc lông từ một cửa tiệm để có thể bắt chước vua Na-pô-lê-ông đại đế là một trường hợp còn đọng lại trong trí nhớ. Cũng thế, trong suốt cuộc đời, cha vẫn còn những nhược điểm nhỏ chẳng hạn như phải dùng thuốc ngửi, nhưng cha luôn luôn sẵn sàng vứt bỏ hay bỏ dần nếu đó là ý muốn của Thầy Chí Thánh.

Khi cha lớn lên và thậm chí khi là một linh mục, cha đã hình dung Thiên Chúa đang mời gọi cha dâng mình cho trái tim Người, “hỡi con, hãy dâng tâm hồn con cha Ta!’ (Kn 23,26). Cha hiểu rằng đó không phải là những quà tặng vật chất hay những điều mà Thiên Chúa muốn cho con cái Người, nhưng cuộc sống của chúng được diễn đạt bằng biểu tượng là trái tim. Vì thế, cha luôn luôn tìm cách để dâng tất cả, những gì tốt nhất mà cha có thể. Vì Chúa, cha sẽ làm bất cứ điều gì. Và đối với Chúa cũng như Thầy Chí Thánh của cha, thì không gì thích hợp cho bằng là điều gì quý giá nhất. Những bất tiện về vật chất hay những thua thiệt đã không cản bước được cha bao lâu cha có thể đến gần với Chúa Giê-su. Những đau đớn về thể xác của cha cần được chữa trị, nhưng chúng ta biết ít khi cha than phiền về những gì cha phải chịu đựng. Thay vào đó, cha đã làm vơi đi những đau đớn và tiếp tục nhiệm vụ của mình như thể là chẳng có gì xảy ra cả.

Có lẽ cao điểm của việc thuộc trọn về Chúa Giê-su nơi cha xảy đến trong suốt cuộc tĩnh tâm ở Rô-ma khi cha cảm thấy một ước muốn tột cùng là dâng cho Chúa Giê-su những gì mà Ngài đã dâng lên cho Chúa Cha. Chắc chắn, ở giai đoạn này, cha đã nhận ra rằng mối tương quan của Chúa Giê-su với Chúa Cha bao gồm một sự trao hiến bản thân, và đó là điều cha nhắm tới qua lời khấn bản vị mà cha đã tuyên hứa trong cuộc tĩnh tâm này. Mặc dù cha chỉ sống lời khấn này được ba năm, nhưng chúng ta có thể nói rằng lời khấn này đã làm nổi bật tất cả những nỗ lực của cha để thực sự thuộc trọn về Chúa Giê-su. Câu châm ngôn “Tất cả vì Chúa Giê-su, chứ không phải vì Cái Tôi” đã đúc kết cách làm của cha trong vấn đề này.

 

Ngày 12/5

“Nhận biết Thiên Chúa chính là sự chú tâm đầy yêu thương, là một ước muốn chân thành để làm đẹp lòng Ngài” [ ]

Trong bài suy niệm trước, chúng ta thấy rằng Đức Giê-su thực sự là tâm điểm cho trọn cuộc đời của cha Eymard. Và một trong những đặc điểm của việc tận hiến hoàn toàn cho Đức Giê-su chính là nhận biết sự hiện diện và tình yêu của Người. Không nghi ngờ chi, Thiên Chúa luôn luôn hiện diện với chúng ta như Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi. Nhưng sự hiện diện này trở nên riêng tư khi chúng ta chú ý đến sự hiện diện ấy, tương giao với Chúa hay đối thoại với Ngài thường xuyên. Ai  muốn trưởng thành trong đời sống tâm linh, người ấy phải luôn tập trung vào việc phát triển nghệ thuật để ý đến sự hiện diện của Thiên Chúa dù có bận bịu với những bổn phận trần thế khác. Vì thế, thầy Lawrence có thể trò chuyện với Chúa ngay trong lúc làm công việc bếp núc của mình; nhiều vị đại thánh khác đã đưa sự nhận biết này vào trong nhiều khía cạnh khác của cuộc sống với cùng một sự thanh thản và thoải mái.

Tuy nhiên, đó không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng là gắn kết với sự hiện diện ấy bằng một cách thức đầy yêu thương, trò chuyện với Chúa đang hiện diện với chúng ta. Lúc đầu, ‘sự hiện diện’ của Chúa được tìm thấy ‘ở bên ngoài’ hoặc là ở trong nhà tạm hay ở một đền thánh hoặc một nơi hành hương nào đó. Nhưng khi người ta trưởng thành trong đời sống tâm linh, dần dần sự hiện diện này trở nên nội tâm hóa hơn, và ở lại nơi chính bản thân, để người ta có thể trò chuyện với Chúa suốt ngày và đêm. Sự hiện diện bên ngoài Nhà Tạm chỉ có tác dụng đào sâu và mài dũa sự nhận biết về sự hiện diện bên trong. Tuy nhiên, chúng ta phải luôn nhớ rằng một sự nhận thức sâu sắc là kết quả của ân sủng đặc biệt nơi Chúa. Thế nhưng, những ân sủng này được ban cho những ai biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, và biết làm cho sự hiện diện ấy ngày càng hiện thực và năng động hơn.

Về cơ bản, công việc này bao gồm việc loại bỏ Cái Tôi cùng với những đòi hỏi muốn đánh bóng hình ảnh và sức mạnh của nó. Khi một ai đó học được nghệ thuật chết đi cho chính mình, rõ ràng là việc nhận ra sự hiện diện của Chúa bắt đầu thăng tiến và lớn mạnh. Nói một cách khác tương tự là con người trở nên cẩn thận trong việc tuân theo ý muốn của Chúa, không muốn làm mất lòng Chúa ngay cả trong những chuyện nhỏ nhặt nhất. Sự vâng phục này không phát xuất từ nỗi sợ hãi bị trừng phạt hay từ trách nhiệm bổn phận, nhưng đó là một sự diễn tả tình yêu con thảo.

Nhiều thay đổi diễn ra trong cuộc đời của con người cho thấy họ ngày càng bám víu vào Chúa hơn. Người ta bắt đầu hiểu được giá trị của sự thinh lặng nhiều hơn, hầu như là họ vất bỏ những chuyện phù phiếm bên ngoài không cần thiết. Họ kiếm tìm một tương lai rạng ngời hơn qua việc đọc Kinh Thánh và cầu nguyện, và họ có thể chấp nhận những hy sinh lớn lao cũng như hạ mình vì Thiên Chúa và vì người khác. Thế nhưng, tất cả những điều này chỉ được thực hiện một cách tự nhiên và giản dị; không chú ý đến bản thân mình trong bất kỳ một hoạt động nào mà người ta đảm trách.

Khi một người nào đó đạt đến tầm mức này, thì tự nơi anh sẽ phát ra một sức mạnh tinh thần hoặc sự hiện diện bên trong cho những ai có thể cảm nhận được. Lời nói và hành động của anh ta sẽ ngày càng mạnh mẽ và hiệu quả hơn, vì quả thực ‘tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Ki-tô sống trong tôi’.

 

Ngày 13/5

(Kỷ niệm ngày thành lập dòng năm 1856)

“Hành vi tự hiến sẽ làm đẹp lòng Ngài hơn tất cả những hoạt động tông đồ khác trong thế gian.” []

 Thiên Chúa không mong muốn một điều gì khác nơi chúng ta ngoài việc hiến mình trọn vẹn và đầy yêu thương, để Ngài hoàn toàn tự do làm việc nơi chúng ta khi Ngài muốn. Dĩ nhiên, điều duy nhất Thiên Chúa đã làm nơi chúng ta đó là đổ tràn biết bao ân huệ tốt lành trên chúng ta để ‘khi nhìn thấy những việc tốt lành của anh em, họ sẽ tôn vinh Cha trên trời’ (Mt 5,14-16). Thiên Chúa hoàn toàn hiến ban chính mình Ngài, và chẳng bao giờ có bất kỳ một bí nhiệm nào khi Ngài mời gọi con cái của Ngài bước vào mối dây hiệp thông sâu sắc với Ngài. Giống như bất kỳ người nào trong chúng ta, Thiên Chúa cũng cảm thấy hài lòng hơn về một mối tương quan liên vị mật thiết với chúng ta hơn bất kỳ một điều gì khác mà chúng ta có thể làm cho Ngài.

Thật không may, nhiều người lại nghĩ khác: mọi sự chúng ta làm cho Thiên Chúa/ người khác sẽ làm vui lòng họ hơn là dành thời giờ để hiệp thông với họ. Và quả thực, thật là dễ để làm một điều gì đó cho người khác hơn là trở thành một người nào đó cho người khác. Cha mẹ thường rơi vào cạm bẫy này khi đối xử với con cái. Thay vì dành thời gian quý báu cho con cái, họ lại thích tặng cho chúng thật nhiều món quà; đặc biệt khi con cái đòi hỏi họ quan tâm đến chúng, thì họ lại cố gắng đáp ứng cho chúng với thật nhiều món quà hơn. Khi làm một điều gì đó cho ai, chúng ta cũng vẫn chỉ là những kẻ bị khống chế trong toàn bộ trường hợp ấy. Nhưng trở thành một người nào đó cho người khác ám chỉ sự tự nguyện cao cả về phía chúng ta. Chúng ta bị thử thách là phải đặt mình hoàn toàn vào tay người khác để họ làm bất cứ điều gì họ muốn làm với chúng ta, và đó có thể là điều khủng khiếp trong những lúc ấy.

Điều khó khăn nhất đối với một con người chính là đánh mất quyền kiểm soát cuộc đời mình. Bình thường, chúng ta không để vuột mất quyền kiểm soát cuộc đời mình dù chỉ trong một khoảnh khắc, vì sợ rằng mọi thứ sẽ đi sai hướng và bấy giờ thật là khó để chúng ta giành lại quyền kiểm soát. Thế nhưng, khi tương quan với Chúa, việc phó thác đời mình vào tay Ngài sẽ là điều hợp lý nhất chúng ta có thể làm, vì chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa không muốn bất kỳ điều gì có hại cho chúng ta; bất cứ điều gì Ngài muốn và làm thì luôn luôn là vì lợi ích và điều tốt cho chúng ta (x. Gr 2,11-12). Nhưng, chắc chắn rằng tương quan với Chúa là tương quan với một Đấng chúng ta không biết, và dường như sẽ luôn luôn có một nỗi sợ hãi ẩn chứa trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Khi chúng ta có thể vượt qua nỗi sợ hãi này và quảng đại dâng trọn đời mình cho Ngài, chúng ta sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chúng ta là những kẻ được lợi nhất từ mối tương quan này.

Để sự hiến mình đạt được ích lợi, đòi hỏi sự hiến mình ấy phải là tự nguyện, đầy yêu thương và trọn vẹn. Hiến ban chính mình một cách nửa vời sẽ chẳng giúp ích gì, vì suy cho cùng, chúng ta vẫn còn bị kiểm soát. Thứ đến, quà tặng của chúng ta sẽ không phù hợp với Thiên Chúa vì khi Ngài trao ban, Ngài đã trao ban trọn vẹn và không cân xứng. Nếu Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách vô vị lợi, chẳng lẽ chúng ta lại có thể so đo tính toán và hối tiếc trong việc trao ban của chúng ta hay sao? Hơn nữa, khi chúng ta dâng hiến hoàn toàn bản thân mình, thì không có chỗ cho Cái Tôi. Nhưng khi chúng ta làm việc tông đồ, thì vẫn còn cơ hội để chúng ta tự đề cao mình, đôi lúc chúng ta còn không ý thức được nó nữa. Vì thế, việc hiến mình của chúng ta thì đẹp lòng Chúa hơn là công tác tông đồ mà chúng ta có thể làm cho Ngài!

 

Ngày 14/5

“Tôi không muốn biết chuyện gì khác ngoài Đức Ki-tô, mà là Đức Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá” [ ]

Đây là những lời của thánh Phao-lô, người đã nói ‘tất cả những gì tôi muốn là biết Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá’ (1 Cr 2,2). Dĩ nhiên, giống như cha Eymard, thánh Phao-lô đã biết rằng Mầu Nhiệm Vượt Qua là một thực tại bao gồm hai khía cạnh- chết và phục sinh. Người ta không thể có được điều này mà thiếu điều kia. Nói chung, tất cả chúng ta sẽ chọn lựa sự Phục Sinh vì đó là điều làm ta vui thích hơn. Nhưng trong sự khôn ngoan của mình, thánh Phao-lô cũng như cha Eymard đã chọn phần khó khăn hơn, vì nếu người ta có thể bằng lòng với thực tại cay đắng hơn, thì người ta sẽ càng vui thú hơn vì không còn chuyện gì xảy ra nữa.

Phải hiểu rằng ở đây cha Eymard dùng từ “chịu đóng đinh” theo nghĩa ẩn dụ. Thực ra, cái phải chịu đóng đinh và phải chết, chính là: cái Bản ngã nơi chúng ta, và sự thật ở đây là chúng ta càng để cho Cái Tôi ấy chi phối cuộc đời mình, thì lại càng không có chỗ dành cho Thiên Chúa và ngược lại. Vì thế, người ta càng mong muốn được tràn đầy Chúa, thì người ta lại càng phải từ bỏ Cái Tôi của mình. Vậy thì, dù muốn hay không, mỗi ngày vì lòng nhân từ, Chúa ban cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để loại bỏ được Cái Tôi. Dĩ nhiên, thường thì chúng ta không biết sử dụng những cơ hội này một cách quảng đại. Vì thế, việc cầu xin để chịu đóng đinh với Đức Giê-su Ki-tô có thuận lợi là buộc chúng ta trước hết phải đón nhận những thập giá mà Chúa Cha dự định và gửi đến cho chúng ta mỗi ngày, và trên hết đó là chấp nhận tất cả những gì mà chúng ta cũng chọn lựa cho mình.

Liên quan đến việc đón nhận những thập giá một cách vui vẻ và hân hoan, kinh nghiệm cho thấy nhìn chung khởi đầu của tiến trình này hầu như là đau khổ và sợ hãi. Khi chúng ta đã có nhiều hay ít thói quen đối diện với những thập giá cùng với Đức Ki-tô, cũng như là luôn nhìn theo hướng tích cực, thì việc chấp nhận những thập giá ấy sẽ không còn là mối đe dọa đối với chúng ta nữa. Thực ra, chúng ta có thể đi đến chỗ ước muốn và thấy trước những thập giá ấy bằng sự mong chờ háo hức, chứ không phải bằng bất kỳ thủ đoạn tàn ác nào, vì bấy giờ chúng ta nhận ra vai trò của Thập giá trong mối tương quan của chúng ta với Đức Ki-tô.

Bên cạnh đó, khi chúng ta nhận ra rằng mỗi thập giá xảy đến trên con đường chúng ta đi sẽ đem lại một ơn phúc đặc biệt nào đó, chúng ta được huấn luyện giống như những con chó của Pap-lốp trong thí nghiệm mà ông thực hiện. Mỗi lần chuông reo thì những con chó được cho ăn. Sau nhiều ngày lặp đi lặp lại như vậy, chuông vẫn reo nhưng không có thức ăn được đem ra. Thật vậy, cần lưu ý rằng lúc những con chó nghe thấy tiếng chuông reo, chúng bắt đầu chảy nước dãi vì chúng trông chờ phần thức ăn được đem đến cho chúng mỗi khi chuông reo. Và một chu kỳ khác cũng diễn ra y như vậy: khi thức ăn được đem đến, chúng tỏ ra mình đang chờ đợi để nghe tiếng chuông. Vì thế, liên hệ đến việc đón nhận thập giá trong cuộc đời của chúng ta, mỗi lần thập giá xuất hiện, trước hết đầu óc của chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những ơn phúc mà thập giá đem lại. Và cho dù nếu thập giá ấy nặng nề cách mấy đi chăng nữa, thì chúng ta cũng vui vẻ đón nhận vì ơn phúc sẽ đến sau đó. Do đó, chúng ta hãy luôn nhìn theo hướng tích cực, cũng như luôn nhớ đến lòng trung tín của Chúa có thể giúp chúng ta vui vẻ vác lấy những thập giá, và tiếp tục cộng tác vào công trình cứu độ thế gian.

 

Ngày 15/5

“Niềm tự hào của tôi, sức mạnh của tôi, trọn cuộc đời tôi ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, không có Người, tôi chỉ là chính mình” [ ]

Lời giải thích này chỉ có thể phát xuất từ một người đã nhận ra từ kinh nghiệm bản thân rằng nếu không có Đức Giê-su là tâm điểm của cuộc đời, thì chúng ta chẳng có giá trị gì cũng như chúng ta vẫn đầy ắp nỗi ưu sầu và thất vọng. Chính Đức Giê-su đã phán điều này khi Người nói trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly ‘Thầy là cây nho, anh em là cành…không có Thầy, anh em không thể làm gì được… như những cành nho khô héo và chết… chúng bị chặt đi và quẳng vào lửa.’ (Ga 15,1-6). Thánh Phao-lô là người đã cảm nghiệm được chân lý này một cách thực nghiệm, vì thế ngài đã viết trong thư gửi tín hữu Rô-ma “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt.  Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Rm 7,15-8,1)

Thật đáng để dành chút thời gian chú ý đến lời giải thích đầu tiên của cha Eymard: Đức Giê-su là niềm tự hào của tôi. Lời giải thích đó nên là cảm xúc của mọi Ki-tô hữu sau kinh nghiệm Phục Sinh. Chúng ta đặt mình vào trường hợp của các môn đệ trong suốt Cuộc Khổ Nạn của Đức Giê-su, và cảm nghiệm điều mà các ông đã cảm nghiệm: một sự thất vọng và tuyệt vọng hoàn toàn vì tất cả những gì các ông đã mơ tưởng về Chúa và Thầy mình nay tan thành mây khói. Các ông không thể tưởng tượng nổi tương lai của mình sẽ như thế nào? Thế nhưng, sau đó, buổi sáng của ngày thứ Nhất trong tuần đã diễn ra với những tin vui Phục Sinh tràn ngập. Lúc đầu, các ông không biết điều gì xảy ra, nhưng khi sự thật của biến cố này bắt đầu lan rộng, các ông thấy mình tràn ngập một nguồn sống mới.

Điều đó như thể một vận động viên điền kinh nổi tiếng người Ấn Độ, người đã giành chiến thắng trong cuộc đua Olympic, cạnh tranh trong một cuộc đua mà anh đã dẫn đầu ngay lúc xuất phát. Nhưng sau đó, đột nhiên vì một sự thiếu may mắn, anh vấp té và ngã lăn ra. Trước khi anh có thể đứng dậy và trở lại cuộc đua, nhiều vận động viên khác đã vượt lên trước anh và anh không thể lấy lại vị trí dẫn đầu mãi cho đến vòng cuối cùng. Với nhịp thở hổn hển, mọi người chờ đợi xem điều kỳ diệu sẽ xảy ra: liệu rằng anh có về đích trước những vận động viên khác hay không!?! Anh đã cố gắng trong tuyệt vọng, nhưng những vận động viên khác vẫn tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu của mình. Tuy nhiên, thật khó tưởng tượng trong bước cuối cùng, người đàn ông của chúng ta đã tung ra cú nước rút tuyệt vọng sau cùng và đã chạm đích đầu tiên. Câu trả lời của tất cả các cổ động viên chứng kiến biến cố đó là gì? Họ sẽ rạo rực khôn xiết, và hoan hô anh hùng của họ đã không để họ thất vọng, sau mọi chuyện! Đó cũng là cảnh tượng mà các tông đồ cảm nhận được vào sáng ngày Thứ nhất trong tuần, khi các ông biết rằng Đức Giê-su vẫn sống. Khi chúng ta nói rằng Đức Ki-tô là niềm tự hào của chúng ta, chúng ta có ý nói rằng Người sẽ không bao giờ để chúng ta thất vọng. Cuộc đời chúng ta được đặt vào tay hữu cũng như người đáng tin cậy, và chúng ta được an toàn: ‘Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không xấu hổ, vì tôi biết tôi đã tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo tồn kho tàng đã giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó’ (2 Tm 1,12).

 

Ngày 16/5

“Để trở nên giống Đức Ki-tô, điều cần thiết là phải chết đi cho chính mình cũng như cho việc tìm kiếm bản thân” [ ]

Chúa Cha rất quảng đại và không ngừng mời gọi mọi người được nên một với Đức Ki-tô, Con của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su phán bảo chúng ta rằng ‘không ai có thể làm tôi hai chủ… (Mt 6,24). Vì vậy, trong thực tế điều này có nghĩa là nếu chúng ta ao ước có được Đức Ki-tô và được chìm ngập hoàn toàn vào cuộc đời của Người, chúng ta phải từ bỏ hoàn toàn Bản Ngã của chính mình bao nhiêu có thể. Chính Bản Ngã đòi buộc chúng ta không nên phụ thuộc hoàn toàn vào mọi người xung quanh chúng ta, vì nó nghĩ rằng bằng cách này, thì sự vĩ đại của nó sẽ được bộc lộ và được nhận biết. Nhiều lần, vì muốn chiếm được chút vinh quang nhỏ nhoi này, Bản Ngã có thể cố ý biến những người xung quanh nó thành kẻ thù, thậm chí là những người thật tình yêu thương chúng ta và muốn điều tốt cho chúng ta. Hậu quả là cuối cùng chúng ta chỉ hoàn toàn tìm kiếm chính bản thân mình, chẳng có điều gì khác ngoài Cái Tôi. Và Cái Tôi không thể đem lại cho chúng ta bất kỳ điều gì có giá trị cả.

Những thủ đoạn mà Bản Ngã sử dụng nhằm duy trì uy thế của mình, chính là nỗi sợ hãi. Điều đầu tiên chúng ta lo sợ chính là nếu chúng ta phục tùng hay dâng hiến cho người khác (cũng như là cho Thiên Chúa), thì chúng ta sẽ đánh mất quyền làm chủ trên cuộc đời mình và chúng ta sẽ chấm dứt ở việc trở về với hư vô. Đây là thách thức mà chúng ta cũng phải đối diện trong mọi tương quan tình yêu: mỗi bên đều có quan điểm riêng về sự vĩ đại của mình, và mỗi bên đều nhận ra những mối đe dọa đến sự vĩ đại của mình. Vì thế, thay vì cuộc đời của hai người phải trở nên một theo chiều hướng tốt hơn và phong phú hơn, thì họ lại kết thúc như hai hòn đảo trong trận chiến đối đầu với nhau. Và kết cục đáng buồn của tình trạng này, đó là: cả hai đều đánh mất sự quân bình.

Điều làm cho người ta có thể trao hiến chính mình vào tay người khác, thậm chí nếu người khác ấy là chính Thiên Chúa, đó là niềm trông cậy. Và chân lý này triển nở rất chậm cũng như không thể cảm nhận được khi trong mối tương quan ấy, mỗi người đều nhận ra và biết được những phẩm chất tốt nơi người khác. Thường thì việc nhận ra này xuất hiện và triển nở một cách vô ý thức. Một cách nào đó, người ta cảm thấy rằng tha nhân quả thực giúp ích cho mình rất nhiều; họ không phải là thù địch, và cũng không thực sự là mối đe dọa cho sự hiện hữu và trưởng thành của mình; và với một chút thận trọng, người ta cũng chẳng cần phải đề phòng, sẵn sàng để cho người khác xâm nhập vào. Chỉ khi ấy, một sự hiệp thông yêu thương mới có thể nảy sinh.

Trải qua những năm đầu tiên của thời niên thiếu, cha Eymard đã biết cách cậy trông vào Chúa chứ không phải vào chính bản thân mình. Trải qua nhiều kinh nghiệm, cha nhận ra rằng Đức Giê-su không chỉ ủng hộ chúng ta, nhưng Người còn luôn luôn ở bên cạnh chúng ta nữa. Người không để cho một sợi tóc trên đầu chúng ta rụng xuống mà không có một lý do hợp lý nào. Người sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình vì mỗi người chúng ta. Vì thế, cha Eymard có thể phó thác trọn cuộc đời mình vào tay Đức Ki-tô, và nhận ra những điều lạ lùng Đức Giê-su đã làm để dẫn dắt và hướng dẫn chúng ta tới sự sống viên mãn trong Vương quốc của Chúa Cha. Cha hoàn toàn đúng khi thừa nhận Đức Giê-su là niềm tự hào của cha, là thuẫn đỡ và nơi ẩn náu của cha. Đối với một con người như thế, việc chết đi cho chính mình quả là một điều dễ dàng. Trong mọi trường hợp, cha luôn trao đổi với Chúa và chỉ làm những gì hợp ý Chúa mà thôi. Đối với cha Eymard, chẳng có gì nghiêm trọng khi người khác xem cha là một kẻ bại trận, đặc biệt khi mọi sự dường như đi chệch hướng sau khi thiết lập Hội Dòng. Đặt trọn niềm trông cậy vào Chúa, cha đã chiến đấu một cách anh dũng cho đến giờ phút cuối cùng. Việc không ngừng từ bỏ bản thân đã giúp cha ngày càng trở nên giống Đức Ki-tô hơn!

 

Ngày 17/5

“Ôi Thiên Chúa của con, khi nào Ngài mới nhận tâm hồn này, tâm hồn được dành cho Ngài, tâm hồn vốn thuộc về Ngài.” [ ]

 Điều duy nhất mà mọi người tôn thờ sẽ cảm nghiệm được dù sớm hay muộn, đó là: người ta chẳng bao giờ có thể đến gần Chúa được. Một nguyên nhân giải thích cho cảm giác này, đó là chúng ta càng ở gần Ánh Sáng là Đức Giê-su, chúng ta càng nhận rõ những lỗi lầm và giới hạn của mình, và những điều này có xu hướng làm tăng khoảng cách giữa chúng ta với Ngài. Thường thì, Đức Giê-su để cho một vài lỗi lầm này, thậm chí những lỗi lầm rành rành, tiếp tục xảy ra trong cuộc đời của chúng ta vì chúng sẽ giúp chúng ta biết khiêm tốn cũng như không tự hào về những thành công hay công phúc của mình. Và cũng không phải thường xuyên, Ngài sẽ để cho những người khác biết được sự yếu đuối của ta, và có lẽ Ngài sẽ nói những lỗi lầm ấy cho người khác biết. Quả thực, đây là một cảnh tượng mà tất cả chúng ta đều lo sợ và sẽ không muốn bất cứ thứ gì trong thế gian này biết đến cả.

Chính trong suy nghĩ này mà chúng ta cần tiếp tục tự nhủ với lòng mình rằng Đức Giê-su yêu thương chúng ta như chúng ta là, và những lỗi lầm cũng như thất bại của chúng ta sẽ không ảnh hưởng gì đến tình yêu của Ngài dành cho chúng ta cả. Thậm chí những thất bại thường xuyên của chúng ta cũng không làm cho Ngài rút lại tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta, bao lâu chúng ta còn bám víu vào Ngài trong đức tin. Chính lúc chúng ta ý thức một cách sâu sắc và đau đớn về những giới hạn của mình, thì chúng ta cần cầu xin Đức Giê-su bù đắp cho những thiếu sót và mong muốn của chúng ta, và Ngài sẽ làm việc này theo cách thức tuyệt vời của Ngài.

Tuy nhiên, thật ích lợi biết mấy khi chúng ta tiếp tục mong chờ và nài xin Đức Giê-su làm chủ cuộc đời chúng ta, bất luận là thế nào đi chăng nữa. Một ngày nào đó, lời cầu xin của chúng ta sẽ được đoái nhận, nhưng có lẽ không cần chúng ta phải biết đến. Việc nhận biết của chúng ta về mối dây liên kết mật thiết có thể là một mối nguy khi chúng ta tôn vinh nó, hay ca ngợi sự trưởng thành vốn sẽ tự động làm cho chúng ta đánh mất nó. Tốt hơn là tiếp tục khiêm tốn, ý thức về những gì chúng ta còn thiếu sót, nhưng với một niềm tin vững mạnh rằng một ngày nào đó, Ngài sẽ dẫn chúng ta về với Ngài. Khi người khác vạch trần lỗi lầm của chúng ta một cách công khai hoặc có thể là chế giễu chúng ta trước mặt người khác, nếu chúng ta nhận thấy mình không bị tổn thương vì những điều đó hoặc cảm thấy không cần thiết phải trả đũa hay trả thù, thì chúng ta đồng ý với họ khi nhận ra những giới hạn của mình và muốn dâng những giới hạn ấy cho Chúa để được Ngài bù đắp, đó sẽ là một dấu hiệu tốt cho thấy chúng ta ở gần Chúa. Chúng ta cần ngợi khen và tạ ơn Ngài về điều này, vì đây đích thực là ân huệ của Ngài.

Trong lời cầu nguyện của chúng ta suốt giai đoạn này, chúng ta tiếp tục mong chờ một sự kết hiệp hoàn toàn với Chúa, và kiên nhẫn cũng như hy vọng đợi chờ ngày mà Ngài sẽ đáp lại sự mong chờ của chúng ta. Thậm chí nếu phải mất nhiều năm, chúng ta cũng không nên mất can đảm và bỏ cuộc; sẽ có những dấu hiệu tốt khác để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đang ở gần Ngài và với sự nhân lành, Ngài sẽ đoái nhìn đến những ước nguyện của chúng ta vào đúng thời và đúng cách của Ngài. Điều quan trọng cần đảm bảo trong suốt thời gian này, đó là chúng ta không chối bỏ bất kỳ thập giá nào mà Chúa gửi đến trên con đường của chúng ta, vì đây có thể là những sự chuẩn bị có giá trị cho một sự liên kết sâu đậm hơn với Ngài.

 

Ngày 18/5

“Đau khổ của Ki-tô giáo chính là nơi thanh luyện linh hồn tín hữu” [ ]

Thật cần thiết để lưu ý rằng câu khẳng định ở trên ám chỉ đến đau khổ của ‘Ki-tô giáo’, chứ không riêng gì đau khổ mà đôi lúc có thể đánh bại một người nào đó không có khả năng để chỗi dậy. Thực vậy, chúng ta có thể nói rằng đau khổ của Ki-tô giáo là sự đau khổ mang một ý nghĩa và mục đích để con người ta vác lấy thập giá. Khi đau khổ ‘phù hợp’ với lối suy nghĩ Ki-tô giáo của người ta, thì đau khổ ấy có thể có lợi và hữu ích vì nó thanh tẩy chúng ta khỏi những dấu vết của Cái Tôi vẫn đang ở trong chúng ta.

Cách nhìn về sự đau khổ của người ngoại sẽ chỉ xem đau khổ như một hình phạt mà Chúa gửi đến cho chúng ta vì tội lỗi của mình. Thiên Chúa không trừng phạt chúng ta vì việc làm sai trái; mà chính chúng ta tự trừng phạt mình đấy thôi. Quả thực, Thiên Chúa thường để cho chúng ta gục ngã thảm hại vì chỉ khi đó, mắt chúng ta mới mở ra và chúng ta mới quay trở về với Ngài một cách khiêm nhường và đầy lòng cậy trông. Tuy nhiên, khi xem đau khổ như sự trừng phạt, thì có lẽ đó là cách giải thích dễ nhất về lý do vì sao chúng ta phải chịu đau khổ, mặc dù chắc chắn đó không phải là cách giải thích thuyết phục nhất. Mặc dù Thiên Chúa rất công minh và Ngài thiết định những luật lệ không thể bị phá vỡ vào trong con người chúng ta, nhưng dường như Kinh Thánh lại cho thấy Thiên Chúa là Đấng cứu chúng ta ra khỏi chính bản thân mình, cũng như khỏi mọi tội lỗi. Điều này đơn giản có nghĩa là khi chúng ta gặp rắc rối vì sự ngu dại và sự thiển cận của mình, thì chính Thiên Chúa là Đấng đầu tiên sẽ đến và giải cứu chúng ta. Bấy giờ, Ngài không chỉ chữa lành nhưng còn giúp chúng ta học được bài học kinh nghiệm, và điều này sẽ giúp ích cho chúng ta trong tương lai.

Nếu đau khổ không phải là sự trừng phạt tội lỗi do Thiên Chúa bắt phải chịu, thì phải chăng đó là hậu quả của những tội lỗi trong quá khứ. Sự sinh lại lần nữa là cách giải thích khác có vẻ hợp lý cho sự tồn tại của đau khổ trong thế giới của chúng ta. Nhưng nó chẳng có ý nghĩa khi chúng ta đặt nó bên cạnh những đau khổ của chính Đức Giê-su. Về cơ bản, chúng ta có thể nói rằng đau khổ là hệ quả tự nhiên của con người chúng ta, con người đầy những giới hạn. Thường thì những đau khổ của chúng ta do chính chúng ta gây ra, nhưng không phải lúc nào cũng vậy, chúng cũng xuất phát từ những giới hạn và những thiếu sót của những người xung quanh chúng ta. Thế nhưng, nguyên nhân chính của đau khổ, đó là: sự giới hạn của con người chúng ta.

Hơn nữa, chúng ta thường thấy rằng chính những con người luôn cố gắng sống theo những mệnh lệnh của Chúa, thì lại được gọi là những người đau khổ nhất. Trong những trường hợp này, chúng ta nhận ra rằng bên cạnh việc trở thành một phần trong con người chúng ta, những đau khổ còn được thanh tẩy để chúng giảm bớt Cái Tôi nơi chúng ta và đây luôn luôn là một kết quả hữu ích và tích cực. Càng ít Cái Tôi trong cuộc đời chúng ta, chúng ta lại càng có thể cảm nghiệm được sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng càng cảm nghiệm sự đau khổ nhiều, chúng ta lại càng có nhiều cơ hội hoặc sẽ đến gần với Thiên Chúa hơn.

Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ lời thánh Phê-rô đã nói ‘Thật vậy, chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công vì lòng tôn kính Thiên Chúa, thì đó là một ân huệ. Vì nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu, thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành mà phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban.’ (1 Pr 2,19-20).

 

Ngày 19/5

“Thiên Chúa là của tôi và là tất cả đối với tôi” [ ]

Nhìn thoáng qua thì lời khẳng định này dường như là quy hướng về cái tôi, tuy nhiên nó diễn tả một chân lý đơn giản nhưng rất quan trọng, đó là: Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta một mối dây hiệp thông thân mật, gần gũi với Ngài. Sự thật là Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, những con người, bằng lý trí và ý chí tự do, điều này dường như cho thấy Ngài muốn bước vào mối tương quan tự do và yêu thương với chúng ta. Trong Kinh Thánh, tương quan này được gọi là Giao ước và là một điều gì đó mà Chúa luôn mời gọi chúng ta tham dự vào.

Cần lưu ý rằng Thiên Chúa lôi kéo chúng ta vào Giao ước cùng với Ngài, như đã được nói đến trong sách Xuất Hành. Chính Ngài luôn luôn đi bước trước và ban cho chúng ta những khả năng để bước vào sự hiệp thông cùng với Ngài. Khi thấy chúng ta phải chiến đấu với những khó khăn hay trở thành những nạn nhân bị người khác chống đối, Thiên Chúa luôn can thiệp như một “go-el” một từ ngữ Do Thái ám chỉ đến người thân thích ruột thịt có trách nhiệm đến để giúp đỡ những người đau khổ và bị chống đối. Sự can thiệp của Thiên Chúa luôn luôn là một hành động cứu độ, Ngài hành động vì chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi biển lửa, và sau đó mời gọi chúng ta suy nghĩ về kinh nghiệm này. Câu hỏi của Ngài đặt ra cho chúng ta là: ‘Các ngươi hãy xem Ta yêu thương các ngươi dường nào và Ta đã làm gì cho các ngươi?’ (Xh 19,3-5).

Khi chúng ta nhận ra từ kinh nghiệm, (đặc biệt khi chúng ta nghiệm lại việc mình đã được giải cứu thế nào, những lúc chúng ta không có ai giúp đỡ dù chỉ một ngón tay để nâng chúng ta dậy), Thiên Chúa luôn ở cùng chúng ta, nói một cách văn vẻ ‘Thiên Chúa là tất cả đối với chúng ta’, thì đó là lúc chúng ta chấp nhận trao phó bản thân mình hoàn toàn vào bàn tay của Ngài. Chúng ta kiếm tìm một sự hiệp nhất hoàn toàn như vậy và có lẽ còn tiến xa hơn thế nữa, chúng ta bày tỏ sự sẵn sàng của mình đối với sự hiệp nhất ấy. Thế nhưng, vẫn còn một chặng đường dài để đi. Những nỗi sợ hãi, những nghi ngờ, những lo lắng, đặc biệt trong vấn đề sống còn và trưởng thành của chúng ta, cần phải vượt qua và điều này có thể xảy ra nhờ vào những kinh nghiệm đau thương khi đức tin của chúng ta bị thử thách; nhưng trong những kinh nghiệm này, chính chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta biết chừng nào. Giai đoạn này của cuộc hành trình thường mang hình ảnh một ‘mũi tên bị bẻ gãy’, ba bước tiến và hai bước lùi, hai bước tiến khác và một bước lùi, … Chính trong bước tiến ngập ngừng và loạng choạng này mà chúng ta tiến bộ cho tới khi vào một ngày nào đó, chúng ta hoàn toàn nhận ra rằng Thiên Chúa là của chúng ta và không ai có thể chống lại chúng ta và hơn thế nữa, không ai có thể ngăn cản chúng ta tiến đến với Ngài.

Thế nhưng, khi chúng ta tin Thiên Chúa là tất cả của chúng ta và là tất cả đối với chúng ta, không phải là loại trừ người khác; chắc chắn điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa sẽ không ban cho người khác những gì mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, hay thậm chí Ngài sẽ ban cho họ ít hơn. Không phải thế, Thiên Chúa đủ rộng lượng để yêu thương tất cả con cái của Ngài một cách không giới hạn, và tình yêu vô biên của Ngài dành cho chúng ta không cản bước Ngài yêu thương người khác, mỗi người đều là một trong số những đứa con yêu dấu của Ngài. Thay vì làm cho chúng ta trở nên ganh tị hay độc quyền trong thái độ của mình, tâm hồn chúng ta mở ra rộng hơn để bao quát mọi người, cũng như chia sẻ với họ kho tàng vĩ đại và ơn phúc của chúng ta. Chúng ta muốn Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi người như Ngài đã yêu thương chúng ta vậy… và chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của mình bao nhiêu có thể, để ngày càng có nhiều người yêu mến Ngài cũng như cảm nghiệm được tình yêu của Ngài như chúng ta đã cảm nghiệm. Tình yêu đích thực thì không bao giờ ích kỷ và độc chiếm; thực tế, chúng ta càng cảm nghiệm được tình yêu chân thật bao nhiêu, chúng ta lại càng bớt ích kỷ đi bấy nhiêu. Bấy giờ, chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta muốn chia sẻ tình yêu của mình cũng như của Đấng đã yêu thương mình với mọi người, nếu có thể.

 

Ngày 20/5

“Trong cái nhìn của Thiên Chúa, bạn là cái bạn là” [ ]

Đây là một đoạn khác trích từ lời khuyên của cha Eymard, rõ ràng đoạn này được thu lượm từ những nỗ lực bản thân của cha để thuộc trọn về Đức Giê-su, cũng như từ kinh nghiệm của cha trong việc hướng dẫn người khác trên con đường kết hiệp tâm linh với Chúa. Không thiếu những người xung quanh nói với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau rằng ‘bạn thật tốt’, trong khi những người khác sẽ mâu thuẫn với họ khi nói ‘bạn chẳng có gì tốt cả!’ Nói chung, người ta chỉ nhận ra nơi chúng ta một sự phản ảnh của chính họ, hay là họ bị cuốn hút bởi những phẩm chất nơi chúng ta mà chính họ đang có; bên cạnh đó, mỗi người chỉ nhìn có một phần, vì thế họ chỉ nhận xét một phần của tôi mà thôi. Nếu tôi đặt cuộc đời và những phản ứng của tôi trên những quan điểm từ nhiều phía và phiến diện của người khác, thì có thể tôi sẽ phát khùng, vì mỗi người đều đi theo một hướng khác nhau, và không ai trong số họ thực sự hiểu được toàn bộ sự thật về tôi. Ngược lại với nền tảng này, thật là dễ để nhận ra rằng chỉ có cái nhìn của Thiên Chúa về tôi mới đúng mà thôi, vì trước hết Ngài là Đấng Sáng Tạo của tôi, Ngài biết rõ tôi (x Tv 138/139), và thứ đến vì Ngài nhìn tổng thể bức tranh. Thứ ba, khi Thiên Chúa nói với tôi về bản thân tôi, Ngài không thu được lợi lộc gì từ việc che giấu sự thật, vì Ngài là Đấng duy nhất sẽ cho tôi một bức tranh rõ nét về chính tôi.

Vậy Thiên Chúa nhận ra điều gì nơi tôi? Trước hết, Ngài xem tôi như đứa con yêu dấu của Ngài. Ngài nói với tôi, như Ngài đã nói với Đức Giê-su ‘Này là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta’ (Mc 1,12). Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa không nhận ra những giới hạn và lỗi lầm của tôi, đơn giản nó có nghĩa là những điều này không làm nên tôi ‘thực sự’ như Ngài đã tạo dựng tôi. Khi một người mẹ bế đứa con dơ bẩn của bà mới chơi ở phía trước sân và bị dính bùn, trước hết bà không nhìn vào vết bẩn dính trên người đứa con, nhưng nhìn vào đứa trẻ đang bị dơ bẩn. Bà bắt đầu rửa sạch cho nó, mặc dù bà biết rằng chỉ ít phút sau khi được rửa sạch, nó lại dính bùn lần nữa! Bà không nóng giận với đứa con đang dính bẩn- nhưng nhận ra đứa trẻ đang cần sự giúp đỡ của bà! Đó là điều Thiên Chúa nghĩ về tôi, tôi là đứa con yêu dấu của Ngài, dù tôi có thể yếu đuối và mỏng dòn đến đâu đi chăng nữa!

Thứ hai, Thiên Chúa nhận ra nơi tôi tiềm năng về điều tôi có thể trở thành nếu tôi để cho Đức Giê-su cũng như Thần Khí của Người tự do hoạt động trong cuộc đời tôi. Nếu một Sao-lê có thể được biến đổi thành một Phao-lô năng động và nhiệt huyết, nếu một Augustino có thể được đổi đời từ một tội nhân suy đồi để trở thành một Giám mục và thậm chí là một vị thánh của Mẹ Giáo Hội, thì chúng ta cũng có thể vươn đến những đỉnh cao đáng kể không phải vì chúng ta, dĩ nhiên là vậy, nhưng là trong và nhờ Đức Ki-tô. Trong khi đó, vì những giới hạn của bản thân, chúng ta không thể nhận ra bức tranh vinh quang vào thời sau hết của chúng ta, nhưng Thiên Chúa thì có thể- vì thế, đó là điều Ngài liên hệ đến khi đối xử với chúng ta.

Thứ ba, Thiên Chúa không chỉ nhận thấy tiềm năng cần thiết cho sự trưởng thành của bản thân tôi, nhưng Ngài còn biết tôi có thể trở thành một khí cụ tuyệt vời trong bàn tay yêu thương của Ngài, khi tôi thực sự dâng hiến chính mình cho Ngài. Qua tôi, Ngài có thể đến với hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn người khác; và Ngài cũng đem đến cho họ những kinh nghiệm về sự nhân lành yêu thương của Ngài. Vì thế, khi Thiên Chúa đoái nhìn đến tôi, thì Ngài không để ý nhiều đến tội lỗi của tôi, nhưng đến tiềm năng lớn lao mà chính Ngài đặt vào nơi tôi. Ngài nhìn tôi một cách tích cực, bằng tình yêu và hy vọng vào tương lai. Tôi sẽ là người đầu tiên tìm được lợi ích nhờ việc chú ý nhiều hơn đến điều Thiên Chúa nghĩ về tôi hơn là điều mà những con người giới hạn khác nghĩ về tôi. Đây là chân lý nền tảng của cuộc đời tôi! Tôi là kẻ tôi là, trong cái nhìn của Thiên Chúa!

 

Ngày 21/5

“Hãy đến như bạn là và hãy dâng cái tôi của bạn cho Thiên Chúa” [ ]

Ngày nay, Tâm lý học cho chúng ta thấy rằng mỗi người được hình thành từ nhiều khía cạnh; thậm chí một vài người nói rằng chúng ta được hình thành từ ‘nhiều cái tôi’ khác nhau: cái tôi thực, cái tôi giả, cái tôi tưởng tượng, cái tôi dự án, … Nói chung, khi giao tiếp với người khác, chúng ta tìm cách ‘phô bày’ cho mình một hình ảnh đẹp nhất, thậm chí nếu chúng ta biết rằng đó không phải là con người thực của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta làm như thế vì chúng ta muốn phô bày một hình ảnh đẹp về chính mình và đảm bảo rằng người khác sẽ chấp nhận chúng ta, dù cho tình yêu của họ dựa trên việc đánh giá sai lầm về chúng ta đi chăng nữa. Tất cả chúng ta muốn được người khác đánh giá cao, vì thế chúng ta thường đeo những ‘mặt nạ’ để gây ấn tượng cho họ.

Dĩ nhiên, điều không may là khi chúng ta có thói quen khoác lên mình hình ảnh giả tạo khi cư xử với người khác, chúng ta cũng làm tương tự như vậy khi tương quan với Thiên Chúa. Nói cách khác, khi chúng ta ở trước Nhan Ngài, chúng ta giả vờ trở thành cái mà chúng ta không thực sự là! Chúng ta đến trước Nhan Ngài và hiện diện với một hình ảnh đầy hứa hẹn về chính bản thân mình. Đôi lúc, chúng ta hoàn toàn ý thức rằng đây không phải là con người thực mà chúng ta đang phô bày, những lần khác chúng ta thậm chí không để ý rằng chúng ta chỉ đơn thuần là diễn viên kịch trước mặt Thiên Chúa. Rõ ràng là chúng ta không thể đánh lừa Thiên Chúa, vì thế việc đeo những mặt nạ trước mặt Ngài sẽ không giúp ích gì cho chúng ta cả. Trái lại, khi phô bày một con người giả tạo trước mặt Chúa, chúng ta là những người đầu tiên đánh mất những ơn phúc của Ngài. Sự xuất hiện của chúng ta trước mặt Chúa với một hình ảnh giả tạo, và cầu xin sự trợ giúp của Ngài quả thực là giống như việc xin bác sĩ bôi thuốc lên băng gạc vốn đang che đậy vết thương, chứ không phải là chính vết thương. Việc bôi thuốc lên băng gạc sẽ không giúp chữa lành vết thương, nhưng thậm chí lại còn có thể làm cho vết thương ra nặng hơn.

Mọi bác sĩ có óc xét đoán chắc chắn sẽ gỡ bỏ băng gạc đi trước tiên, rồi sau đó mới bắt đầu rửa sạch vết thương dù cho việc làm đó có thể đau đớn lắm. Sau đó, ông sẽ thoa thuốc vào đúng vết thương và băng vết thương lại. Việc này sẽ đảm bảo cho chúng ta mau chóng lành bệnh. Tiến trình này rất quan trọng khi chúng ta đến trước mặt Chúa. Ở đây, sẽ không có bất kỳ một sự giả vờ nào. Vì thế, chúng ta hãy đến như chúng ta là, bất luận chúng ta có xấu xa cách mấy đi chăng nữa, và hãy để Thiên Chúa chăm lo cho những nhu cầu của chúng ta vì Ngài là Đấng hiểu rõ chúng ta nhất. Chúng ta không đề nghị Ngài bất cứ điều gì, cũng như không lấy và chọn lựa những phương thuốc mà Ngài khuyên. Chúng ta trông cậy hoàn toàn vào Ngài và tin vào tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng ta, và tất cả những gì Ngài đòi hỏi chúng ta, đó là: chúng ta hãy hết lòng cộng tác với những kế hoạch của Ngài dành cho chúng ta.

Vì thế, khi nhận ra mình cần được chữa lành, chúng ta nên đem đến cho Chúa con người thực của chúng ta và dâng lên Ngài, để rồi Ngài sẽ chữa lành mọi thói hư tật xấu của chúng ta. Ngài sẽ không bị sốc khi nhìn thấy những lỗi lầm và thất bại của chúng ta. Ngài biết những chuyện vớ vẩn chúng ta làm là gì, và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta khi chúng ta cần. Vả lại, việc phó dâng của chúng ta sẽ đem lại ích lợi vì nó ngay chính và đáng yêu. Chính thái độ này mới làm cho Chúa ban cho chúng ta những điều cần thiết, để đạt được sự viên mãn và vĩnh cửu. Quả thực, Ngài là vị Thần y và Ngài sẽ chữa lành chúng ta, vì đó là lý do Ngài đến thế gian ‘để anh em có được sự sống dồi dào’ (Ga 10,10).

 

Ngày 22/5

“Chúa chúng ta không ngừng theo đuổi tôi, và tôi sẽ không có được sự bình an cho tới khi tôi đạt đến trạng thái hoàn toàn tách rời khỏi bản thân mình” [ ]

Chúng ta biết rằng bất cứ việc gì Chúa làm, Ngài luôn luôn làm một cách xuyên suốt và hoàn hảo. Đơn giản là từ bản chất, Ngài đặt toàn bộ bản thân mình vào những gì Ngài làm. Thiên Chúa không có điều gì khác và vì thế Ngài không thể hiến ban chính mình một cách ít ỏi được. Vì thế, khi Ngài trao ban, Ngài trao ban tất cả; khi Ngài yêu, thì Ngài yêu hoàn toàn, … Khi chúng ta là những kẻ lãnh nhận những hành động của Thiên Chúa, thì dường như những hành động ấy được kéo dài theo thời gian, được nhân lên từng bước; nhưng dưới cái nhìn của Ngài, điều đó chỉ được cho đi, một lần cho tất cả, cho đi mà không bao giờ đòi lại. Với nền tảng này, chúng ta có thể hiểu được điều mà cha Eymard muốn nói về kinh nghiệm của mình rằng Đức Giê-su không ngừng theo đuổi cha, Ngài không bao giờ bỏ cuộc bất luận câu trả lời của cha là gì đi chăng nữa. Và điều này cũng xảy ra tương tự đối với chúng ta. Phan-xi-cô Thom-son đã diễn tả chân lý này hết sức tuyệt vời trong bài thơ nổi tiếng của ông có tên Sự Theo Đuổi Của Nước Trời, trong đó ông diễn tả sự theo đuổi không ngừng nghỉ của Thầy chí thánh trong cuộc tìm kiếm ông. Lúc đó, ông là một kẻ nghiện rượu và có một bộ dạng thảm hại. Tuy nhiên, mặc cho ông có bị lạc lối bao nhiêu đi chăng nữa, thì Thiên Chúa luôn luôn đuổi theo ông, để tìm kiếm con chiên lạc cho tới khi Thiên Chúa giành chiến thắng và ông, Phan-xi-xô, tìm được đường trở về nhà Cha.

Quả thực, Thiên Chúa yêu thương một cách cuồng dại, thậm chí là yêu thương những thụ tạo của Ngài. Sau hết, Ngài đã chẳng trang điểm cho mỗi người bằng những bộ trang phục phù hợp, có thể nói là như vậy; Ngài trao ban cho họ những ân huệ và tài năng cao quý, những tình huống và những cơ hội cần thiết để hoàn thành vận mệnh đời mình đó sao? Khi chúng ta phó thác đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa, thì về tiềm năng, chúng ta là những thụ tạo ưu tú nhất, tột đỉnh của công trình sáng tạo và nếu chúng ta tiếp tục làm theo ý muốn của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ trở nên những thụ tạo tuyệt vời mà Thiên Chúa dự định làm ra ngay từ lúc khởi đầu. Dĩ nhiên, tiến trình này chỉ hoàn toàn đúng với trường hợp của Đức Giê-su, cũng như Mẹ Maria, còn tất cả chúng ta hầu như là đã cản trở kế hoạch và ý định của Thiên Chúa dành cho mình, khi bất tuân lệnh Ngài. Cái Tôi nơi chúng ta tiếp tục gây cản trở cho những kế hoạch của Thiên Chúa, do đó chúng ta bị bóp méo và bị biến dạng.

Cha Eymard là một trong số những người có được đặc ân để biện phân, ít là một cách lờ mờ, kế hoạch kỳ diệu mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho cha ngay từ thời thơ ấu. Và một phẩm chất luôn xuất hiện trong cuộc đời cha, đó là sự theo đuổi không ngừng nghỉ của cha đối với ý muốn của Thiên Chúa. Mỗi khi gặp thất bại trong vấn đề này, cha tìm cách duyệt xét lại những bước đi của mình, dâng trót bản thân mình bao nhiêu có thể. Khi nhận ra Cái Tôi là kẻ thù lớn nhất trong tiến trình này, cha đã ra sức loại bỏ và chết đi cho cái tôi với một sức mạnh tương xứng, và cha đã đạt đến những tầm cao đáng kể khi sáng lập Hội dòng.

Khi nhìn lại cuộc đời của cha, chúng ta được khuyến khích noi gương bắt chước cha trong việc từ bỏ Cái Tôi của mình, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu chúng ta khám phá ra nguy cơ xấu xa của nó. Thường thì tất cả chúng ta đều thực hiện điều này và cũng gặt hái được đôi chút kết quả, thế nhưng việc từ bỏ của chúng ta có lẽ không thật lòng, thực tâm và bền bỉ như cha Eymard đã làm. Cũng vậy, chúng ta sẽ không bao giờ đạt đến những đỉnh cao của sự hiệp thông với Chúa nếu chúng ta không học được nghệ thuật chết đi cho Cái Tôi, và Chúa nhân lành lại sẽ tiếp tục theo đuổi chúng ta, hằng mời gọi chúng ta ngày càng lên cao hơn đến đỉnh đồi Can-va-ri-ô cũng như đến đỉnh vinh quang trên ngọn núi Ta-bo-rê.

 

Ngày 23/5

“Hãy sống thành cộng đoàn, theo tinh thần của gia đình Na-da-rét” [ ]

Vì Ba Ngôi Thiên Chúa là một cộng đoàn của Ba Ngôi Vị, nhưng chỉ là một Thiên Chúa, sống trong sự duy nhất trọn hảo, nên chúng ta, những con người được dựng nên theo hình ảnh và giống Ba Ngôi, cần phải sống theo cách đó, và điều này được cụ thể hóa qua sự duy nhất trong đa dạng. Mỗi người được sinh ra trong một gia đình và Thiên Chúa đảm bảo cho con người mới sinh ra ấy được đón nhận và được yêu bằng tình thương yêu của gia đình. Có vô số những ngoại lệ đối với qui luật này, chắc chắn là như vậy, thế nhưng Thiên Chúa luôn ban cho mỗi người, những thụ tạo của Ngài, có được một mái ấm gia đình.

Tuy nhiên, sau khi tội lỗi phát sinh do chủ nghĩa cá nhân, dù sự gắn kết vẫn làm nên gia đình nhưng đã xuất hiện những chia rẽ và phân biệt đối xử. Thực ra thì, chúng ta có thể nói rằng không có gia đình nào trên trần gian này phản ảnh một cách trọn vẹn tình yêu và sự đón nhận của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một kiểu mẫu và tấm gương là Gia đình Thánh gia, để duy trì ước vọng về tình yêu và sự hiệp nhất trọn hảo ấy nơi gia đình.

Dĩ nhiên, chúng ta không biết nhiều về đời sống nội tại của gia đình Na-da-rét, nhưng chỉ biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Mẹ Maria là người đã hết lòng đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa, còn thánh cả Giu-se được Kinh Thánh diễn tả như ‘một người công chính’- chúng ta có thể suy đoán một cách hợp lý rằng gia đình ấy phản ảnh một cách xác thực nhất đời sống nội tại của Ba Ngôi! Nơi gia đình ấy, người ta sẽ tìm thấy sự chấp nhận và hiến mình cho nhau cách trọn vẹn của từng thành viên; chủ nghĩa cá nhân vốn chỉ tìm kiếm lợi ích cho bản thân hoàn toàn không thấy xuất hiện nơi gia đình này. Kết quả là mỗi thành viên sẽ tìm thấy nơi đó không gian cần thiết cho sự trưởng thành về mọi phương diện qua những phẩm chất mà Thiên Chúa đã đặt vào con người họ.

Một khi được sinh lại trong Đức Ki-tô, các Ki-tô hữu tiên khởi đã tìm cách sống thành những cộng đoàn gồm bởi những con người xuất thân từ những gia đình và hoàn cảnh khác nhau, có chung một lý tưởng về Ba Ngôi Thiên Chúa. Quả thực, đây sẽ là một điều khó khăn hơn vì ở đây sợi dây huyết thống tự nhiên sẽ vắng bóng; tuy nhiên sự thiếu vắng ấy lại được tình yêu của Đức Ki-tô bù đắp vào, để gắn kết họ thành một thân thể. Mô tả về cộng đoàn Ki-tô hữu lý tưởng, thánh Luca viết ‘Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Ðồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng. Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Ðồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.’ (Cv 4,32-35). Câu gây ấn tượng nhất trong đoạn văn này đó là ‘không ai phải thiếu thốn’. Cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi chính là lý tưởng cho tất cả các cộng đoàn tu trì, và cha Eymard cũng khuyên như thế với các tu sĩ của cha.

Trong cộng đoàn ấy, có sự hiệp nhất chứ không phải là đồng nhất. Các thành viên không phải là không có lỗi lầm, nhưng khi họ phạm lỗi, những người khác sẽ giúp đỡ họ để họ có thể trở về với lý tưởng càng sớm càng tốt. Thế nhưng, chúng ta cần luôn nhớ rằng đây là lý tưởng mà chúng ta đang nhắm tới. Như Luật Sống nhắc nhở chúng ta ‘sự đa dạng này biểu lộ những ân huệ phong phú… (Luật Sống số 8).

 

Ngày 24/5

“Thiên Chúa đã ban thưởng cho Mẹ Maria vinh quang và danh dự. Mẹ chính là kiệt tác của tình yêu Ngài” [ ]

Trong sự nhân lành, Chúa Cha luôn gợi lên cho chúng ta một hình ảnh cụ thể về những gì Ngài mong ước chúng ta trở thành qua việc sử dụng lý trí và ý chí tự do của chúng ta. Vì thế, Ngài đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người, và Đức Giê-su đã hoàn toàn trở nên giống chúng ta về mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Nhưng trong trường hợp của Đức Giê-su, người ta có thể nói rằng Người là một mẫu người lý tưởng vì Người được sinh làm Con Thiên Chúa, còn chúng ta thì không, chúng ta không thể giống như Đức Giê-su được! Với ý nghĩ như thế, dường như Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một mẫu gương khác, lần này là một người phụ nữ giống như chúng ta. Ngài đã ban thưởng người nữ ấy danh dự và vinh quang, nhưng Ngài đã làm cho người phụ nữ ấy nên hoàn thiện ngay từ đầu khi tuôn đổ tình yêu của Ngài trên bà. Và Đức Maria đã quảng đại đáp lại qua việc đón nhận sự ban phát tình yêu của Thiên Chúa, và rộng lòng chia sẻ tình yêu ấy cho tất cả những ai bước vào cuộc đời của Mẹ.

Những phẩm chất mà Chúa Cha tuôn đổ xuống trên Mẹ Maria không khác gì những phẩm chất mà mỗi con người được trao tặng. Thánh vịnh 8 nói ‘ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài muôn sự dưới chân’ (8,5-6). Và Thiên Chúa tiếp tục thi ân giáng phúc cho chúng ta bằng mọi ơn phúc thiêng liêng trên quê trời, và nhờ Đức Giê-su Ki-tô (Ep 1,3-10). Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng chúng ta chẳng thiếu thốn hơn bao nhiêu so với những gì Mẹ Maria được trao phó- điểm khác biệt chính yếu giữa Mẹ Maria và chúng ta chính là: Mẹ đã quảng đại và liên lỉ đáp trả, trong khi chúng ta lại chọn lựa và chần chừ trong lời đáp trả của mình. Mỗi lần chúng ta chọn lựa Cái Tôi hơn là Thiên Chúa, thì chúng ta làm thay đổi và bóp méo hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta, xóa bỏ vinh quang được trao ban cho chúng ta.

Tuy nhiên, từ thời nọ tới thời kia và qua mọi thời đại, Thiên Chúa nâng cao những con người anh dũng biết đáp trả lời mời gọi của Ngài cách quảng đại và thông suốt như Mẹ Maria vậy. Cha Eymard là một con người như vậy, cha luôn cố gắng để hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa. Chắc chắn, cha cũng có những giới hạn trong thân phận con người, tuy nhiên, cha đã đáp trả một cách anh dũng, đặc biệt là mời gọi những anh em Thánh Thể cũng biết làm như cha. Cha cũng đã lôi kéo sự chú ý của chúng ta vào những phương thế cao siêu của việc hiến ban chính mình nơi Thánh Thể, và khuyến khích chúng ta gắn kết việc hiến mình nhỏ bé của chúng ta với việc hiến mình của Đức Giê-su và dâng lên Chúa Cha mỗi ngày.

Cha Eymard cũng để lại cho chúng ta mẫu gương về việc tôn sùng đậm tình con thảo và yêu thương của cha đối với Mẹ Maria. Khi còn là một linh mục trẻ, cha đã không làm gì mà không hỏi ý kiến Mẹ Maria. Cha đã viếng thăm nhiều Đền thờ kính Đức Maria không chỉ với tinh thần của lòng đạo đức bình dân, nhưng còn bằng tình con thảo và tôn kính đối với Mẹ Maria. Cha đã đặt cả trái tim và linh hồn mình vào Hội Dòng Ba Đức Mẹ mà cha được chỉ định làm Linh hướng, tìm cách lôi kéo càng nhiều người biết noi gương bắt chước Đức Mẹ càng tốt. Đối với cha Eymard, lòng tôn sùng đối với Mẹ Maria không phải là dùng những lời nguyện được trích dẫn, hay dùng những lời ngợi khen Mẹ Maria, nhưng là tìm cách đáp trả lời mời gọi của Chúa một cách thân mật và bằng cả tấm lòng như Mẹ Maria đã làm. Cũng thế, trong hoạt động tông đồ, cha khắc họa tinh thần và sự thúc giục đã khiến Mẹ Maria lên đường với tất cả những tất bật  để đến thành Giu-đa, trở thành người phục vụ cho người chị họ E-li-za-bét đang mang thai. Vả lại, cũng như Mẹ Maria ở Cana, cha đã tìm cách đến với những người đang cần giúp đỡ ở xung quanh mình, đặc biệt những người bị bỏ rơi nhất vào thời của cha, những con người sống ở khu ổ chuột của Paris, những tù nhân, … Trong mọi sự, cha chỉ ra cho chúng ta thấy rằng Mẹ Maria thực sự là kiệt tác của tình yêu Thiên Chúa.

 

Ngày 25/5

“Sự Hiệp Thông giúp linh hồn nhận ra, hiểu biết, chiêm ngắm, và hưởng nếm được hương vị ngọt ngào.” [ ]

Điều mà cha Eymard muốn đề cập đến ở đây chính là việc Hiệp Lễ trong Thánh Lễ. Thế nhưng, chắc chắn cha không muốn thu hẹp ý nghĩa của việc Hiệp Lễ vào một mình hành động này, nhưng còn muốn mở rộng hành động ấy tới mọi thứ có liên quan, và đào sâu sự hiệp thông này giữa Chúa với chúng ta. Kinh nghiệm loài người cho chúng ta thấy tình yêu sâu đậm và chân thật dành cho người khác sẽ làm cho người ta nhạy bén với từng chi tiết trong cuộc đời của người mình yêu. Chính vì vậy, tình yêu ấy có một cách nhìn, cách cảm nhận, cách lắng nghe khác lạ, … tất cả được chi phối bởi sự gắn kết đầy yêu thương bên trong với người khác. Vì thế, nếu ai đó cảm nhận được tình yêu sâu đậm và riêng tư của Đức Giê-su, thì tự nhiên người ấy bắt đầu nhận ra, hiểu biết, chiêm ngắm và hưởng nếm Chúa theo một cách thức mới và khác lạ.

Trong Tin Mừng Mác-cô, khi các môn đệ đến xin Đức Giê-su giải thích dụ ngôn người gieo giống, Người nói với các ông rằng ‘Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn…’ (Mc 4,10-11). Vì vậy, đối với những ai muốn đáp lại lời mời gọi của Đức Ki-tô để trở thành những bạn hữu thân thiết của Người, thì việc hưởng nếm, chiêm ngắm này, … tất cả sẽ phải trở nên quan trọng hơn và đòi hỏi nỗ lực hơn hầu đạt được sự hiệp thông chân thật với Chúa.

Nếu sự Hiệp Thông có thể làm cho chúng ta hiểu biết Chúa nhiều hơn và sâu sắc hơn, bấy giờ nó sẽ trở nên quan trọng hơn để hiểu biết những gì mà sự hiệp thông muốn nhắm đến. Từ “Hiệp thông” có gốc từ tiếng Latinh và ám chỉ ‘một sự kết hiệp chung’. Để sự hiệp nhất này tồn tại và phát triển, rõ ràng là cả hai bên phải sẵn sàng cho đi mọi thứ, thậm chí là cả con người của họ. Về phần mình, Thiên Chúa đã từ bỏ mọi sự ngoại trừ địa vị Thiên Chúa khi Ngài đến với chúng ta dưới hình dạng một con người, Ngài không có thứ gì khác để có thể và cần cho đi. Vì thế, trái banh đang ở phần sân của chúng ta. Chúng ta càng tìm cách loại bỏ Cái Tôi nơi mình, thì càng dễ dàng để đạt đến chiều sâu của sự hiệp thông với Chúa.

Việc đánh mất chính mình cần được thực hiện không phải bằng bổn phận hay trách nhiệm nhưng là bằng tình yêu! Chỉ khi ấy nó mới thực sự trở nên hiệu quả. Khi chúng ta có thể không nhìn vào chính bản thân mình mà ngày càng quy hướng về Chúa hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta càng khám phá ra Ngài nhiều hơn. Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của chúng ta, vì thế mỗi lần chúng ta tìm đến với Ngài, chúng ta lại khám phá và học được một điều gì mới lạ. Do đó, mối tương quan của chúng ta với Ngài sẽ trở thành một cuộc phiêu lưu, một điều mới mẻ luôn xuất hiện ở phía chân trời. Nỗ lực của chúng ta trong việc loại bỏ Cái Tôi sẽ thanh luyện tầm nhìn của chúng ta, loại bỏ tất cả mọi rào cản mà chính chúng ta có khuynh hướng đặt ra trên con đường của chúng ta, nó sẽ nhổ tận gốc mọi thứ cỏ dại vốn làm suy yếu quyết tâm của chúng ta. Nói tóm lại, càng loại bớt Cái Tôi qua từng ngày sống, chúng ta lại càng tìm được ích lợi từ sự hiệp thông của mình.

Hơn thế nữa, mối dây hiệp thông của chúng ta với Chúa ngày càng sâu đậm, thì mối dây hiệp thông của chúng ta với nhau ở cấp độ loài người mới ngày càng thân thiết và sinh hoa trái. Có một điều gì đó rất tuyệt vời nơi mỗi con người, và nếu chúng ta có thể hiểu được điều này cũng như tương quan với người khác ở cấp độ này, thì mối dây hiệp thông của chúng ta sẽ mau chóng dẫn chúng ta đến một khám phá sâu xa hơn về những điều vĩ đại nơi con người ấy.

 

Ngày 26/5

“Hãy cầu xin sao cho có được một đức tin đơn sơ và tinh tuyền vào Thánh Thể.” [ ]

Lời khuyên đơn giản này của cha Eymard cho thấy đức tin là một hồng ân Chúa ban; đức tin không phải thứ chúng ta có thể có được bằng sự nỗ lực của bản thân. Đức tin, như thư gửi tín hữu Do Thái nhắc nhở chúng ta ‘là đảm bảo cho những điều chúng ta không thấy!’ (Dt 11,1). Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ có được cách nhìn của Thiên Chúa đối với mọi thực tại xung quanh chúng ta. Khi nói đến Thánh Thể, niềm tin mà chúng ta cần có chính là điều làm cho chúng ta chấp nhận khi chúng ta nhìn thấy một tấm bánh nhỏ được bẻ ra, chúng ta chấp nhận rằng đó không chỉ là tấm bánh nhưng là chính con người của Đức Giê-su. Chúng ta sẽ gặp rắc rối bao lâu chúng ta còn tìm cách hiểu việc này xảy ra như thế nào, và chúng ta biết rằng nhiều người trong nhiều thế kỷ qua đã tốn bao nhiêu thời gian để tranh luận hầu có thể tìm được lối giải thích ổn thỏa.

Đức tin đơn sơ và tinh tuyền mà cha Eymard mời gọi chúng ta cầu xin sẽ giúp chúng ta biết tương quan với Đức Giê-su nơi Bí Tích Thánh Thể như một nhân vị. Và khi Người trở thành tâm điểm của đời sống chúng ta, chúng ta sẽ chạy đến với Người và dâng lên Người tất cả mọi sự có liên quan đến cuộc đời chúng ta trên trần gian này. Chính Người đã phán bảo chúng ta rằng ‘Hãy đến cùng Tôi hỡi tất cả những ai đang mang gánh nặng nề, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng’. Đức tin của chúng ta vào Đức Giê-su hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể sẽ ngày càng lớn mạnh khi chúng ta ngày càng nhận ra rằng ngày nay Đức Giê-su không chỉ là ‘một người ở đâu đó’ nhưng ‘đang ở đây với chúng ta’. Chúng ta càng cảm nhận được sự đồng hành của Người trong những biến cố nhỏ bé nhất trong cuộc đời, trong tương quan của đời sống cộng đoàn thường ngày, thì sự hiện diện của Người ngày càng trở nên thực sự và sống động đối với chúng ta.

Hơn nữa, dần dần chúng ta sẽ nhận ra rằng Đức Giê-su ‘hiện diện vì chúng ta’ là Đấng duy nhất có thể đem đến cho chúng ta sự bình an và an vui đích thực chứ không phải người nào khác, cũng như không phải bất kỳ một thứ nào khác có thể thay thế vị trí của Người! Vì thế, khi cần, chúng ta trở về với Người bằng những thử thách nhỏ bé của chúng ta… và mau chóng nhận ra rằng Người lắng nghe chúng ta và sẽ đến trợ giúp chúng ta. Sau hết, chúng ta là của Người, chúng ta thuộc về Người, và nếu đây là những khó khăn của hoạt động tông đồ mà chúng ta gặp phải, thì bấy giờ chúng thực sự là khó khăn của Người, chứ không phải của chúng ta!

Mặc dù đức tin của chúng ta vào Đức Giê-su hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể phải là một phẩm chất lớn lên theo thời gian; nhưng đức tin ấy cần sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn ngày qua ngày. Một dấu hiệu của sự trưởng thành này đó là: trong suốt giai đoạn này, chúng ta không chỉ bắt đầu trò chuyện với Chúa hiện diện trong Nhà tạm, nhưng khám phá ra rằng cũng chính Đức Giê-su ấy đang hiện diện nơi con người của chúng ta! Bấy giờ chúng ta bắt đầu trò chuyện với Người là Đấng đang hiện diện với chúng ta cũng như nơi những người khác. Dĩ nhiên, điều này cũng muốn nói đến đức tin sâu đậm hơn, vì những lỗi lầm và thất bại của những người xung quanh chúng ta (cũng như những thất bại của chính chúng ta) thường ngăn cản chúng ta nhận ra Đức Giê-su đang hiện diện nơi mọi người. Nhận ra Đức Giê-su nơi họ cho phép chúng ta nhận ra điểm tốt nơi họ hơn là nhận ra điểm xấu nơi họ. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng chúng ta không phản ứng một cách tiêu cực với cái sai mà chúng ta có thể khám phá nơi người khác, chúng ta sẽ ngày càng trở nên cảm thông hơn, như Đức Giê-su vậy. Chúng ta có thể vui mừng vì điều tốt chúng ta nhận ra nơi mình cũng như nơi người khác, và cầu xin cho những điều không tốt nơi họ có thể được biến đổi nhờ tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa. Vì thế, đức tin của chúng ta vào sự hiện diện nơi Bí Tích Thánh Thể sẽ dẫn đến một cộng đoàn tốt hơn đó là Thân Mình Đức Ki-tô, đó là Hội Thánh và được xây dựng trên những nền tảng vững chắc, trên sự hiện diện thực sự của Đức Giê-su nơi mỗi tín hữu và nơi mỗi cộng đoàn quy tụ lại nhân danh Người.

 

Ngày 27/5

“Thánh Thể là nguồn cảm hứng tuyệt diệu nhất của tâm hồn tôi” [ ]

Ngày nay, tâm lý học cho chúng ta biết rằng con người ta đạt được khả năng cao nhất không phải là khi họ hoàn thành được những ước nguyện hay mục tiêu của mình, nhưng là khi họ có thể biến đổi chính mình. Khi một ai đó có thể sống vì người khác hơn là vì chính mình, thì đó là dấu hiệu của sự trưởng thành tột đỉnh nơi con người! Lý do của điều này nằm ở chỗ chúng ta là những thụ tạo quy ngã chỉ tìm kiếm sự an toàn cho bản thân mình, thỉnh thoảng mới hướng đến người khác mà thôi. Dĩ nhiên, điều này xảy ra là vì những an toàn nội tại của chúng ta, vì thế nói chung trong cuộc sống, con người ta chỉ tìm kiếm điều gì là tốt nhất cho mình mà thôi. Nếu điều tốt này hay ơn phúc này cũng có lợi cho người khác, thì quả là rất tốt, thế nhưng trước hết nó phải phù hợp với bản thân mình đã.

Đức Giê-su đã chỉ ra cho chúng ta thấy con đường để hiện thực và kéo dài niềm hạnh phúc, và con đường mà Người chỉ ra đó chính là con đường Thập giá, con đường đánh mất mạng sống mình vì anh em. Đức Giê-su không chỉ dạy chân lý này một cách lý thuyết mà thôi, nhưng chính Người đã sống chân lý ấy. Vào đêm trước lúc Người chịu khổ nạn, khi Người tụ họp các môn đệ quanh bàn tiệc vào giờ sau hết để cử hành Bữa Tiệc Vượt Qua, Đức Giê-su đã cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, Người bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói ‘Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em’. Sau khi hiến ban chính mình cho anh em để cứu thoát họ khỏi chủ nghĩa cá nhân, Người đã bước vào cuộc Khổ nạn và chịu chết trên Thập giá trên đồi Can-va-ri-ô. Đức Giê-su đã chịu chết như Người đã sống vì người khác!

Khi cử hành Bữa ăn sau hết này với các môn đệ, Người đã ban cho các ông mệnh lệnh cử hành Thánh Thể ‘Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy!’ hay như thánh Phao-lô đã nói ‘Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này là anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người lại đến’ (1 Cr 11,26-32).

Ngày nay, Đức Giê-su mời gọi chúng ta làm việc này không chỉ như một nghi thức để tưởng nhớ Người. Mà hơn thế, Người ao ước các môn đệ của Người cũng sẵn sàng hy sinh sự sống mình vì anh em. Những gì họ làm trong suốt Thánh Lễ sẽ chỉ là một của lễ tượng trưng mà sau đó cần phải được biến đổi bản thể trong đời sống thường ngày. Cũng như Can-va-ri-ô đưa đến Phòng Tiệc Ly, thì việc chết đi thực sự của chúng ta vì anh em cũng phải đưa đến việc cử hành Thánh Thể!

Thật không may, đối với nhiều người, Thánh Lễ kết thúc ngay tại Nhà thờ; hiếm khi người ta đưa Thánh Lễ vào đời sống thường ngày. Lý do giải thích điều này quá rõ: ‘Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng’ (Rm 5,5-8). Hy sinh vì người khác quả là không dễ chút nào, cũng như đó không phải là sự lựa chọn tự phát của chúng ta vào bất cứ lúc nào! Chỉ khi nào chúng ta chiếm được tình yêu, một tình yêu đã bùng cháy lên nơi tâm hồn của Đức Ki-tô, thì khi ấy chúng ta mới sẵn sàng từ bỏ sự sống mình vì người khác. Tuy nhiên, cha Eymard nhắc nhở chúng ta rằng cảm hứng về một cuộc đời hy sinh bản thân vì lợi ích của người khác là nguồn cảm hứng tuyệt diệu nhất mà người ta có thể có được. Và đã có rất nhiều người đã thực sự chết đi vì lý tưởng này, đáng chú ý là thánh Maximillian Kolbe, người đã thế chỗ cho người bạn tù và đã chết thay cho anh ta. Thánh Thể đưa chúng ta đến những tầm cao phi thường.

 

Ngày 28/5

“Việc tôn thờ không thể đạt hiệu quả nếu thiếu hiệp lễ” [ ]

Việc cha Eymard đưa ra lời khuyên này trước Vaticano II 150 năm quả thực là đáng kể! Trước Vaticano II, truyền thống phân biệt rõ ràng giữa cử hành Thánh Thể với Cầu nguyện trước Thánh Thể mà ban đầu gọi là Chầu Thánh Thể. Thực ra, Chầu Thánh Thể được gán cho là quan trọng hơn việc Cử hành vốn chỉ được xem như một bình phông hay điều kiện tiên quyết để đạt đến sự hiện diện thực sự. Tuy nhiên, Vaticano II đã đặt mọi sự vào bối cảnh phù hợp. Điều diễn ra trước hết là việc Cử hành mà qua đó chúng ta kết hợp với Đức Giê-su qua việc tự hiến hoàn toàn, đầy yêu thương và vâng phục của Người. Nhưng vì Cử hành là một hành động theo dòng chảy và không thể dừng lại để chiêm ngắm, nên chúng ta phải tham dự một cách xuyên suốt. Thế nhưng, để tiêu hóa tốt hơn những gì chúng ta đã thực hiện cũng như để nhận ra những hàm ý của việc cử hành này một cách rõ ràng hơn và để sống việc cử hành này một cách mạnh mẽ hơn, thì ngoài việc cử hành, chúng ta còn dành thời giờ để cầu nguyện trước Thánh Thể.

Hơn nữa, Hội thánh đòi hỏi rằng việc chầu Thánh Thể nên được thực hiện tại cùng một bàn thờ nơi Lễ vật Hy sinh được dâng tiến, vì thế mới đem lại một sự nối kết giữa Cử hành và Cầu nguyện. Vả lại, khi chúng ta bắt đầu việc cầu nguyện trước Thánh Thể, điều trước tiên đánh động chúng ta khi nhìn vào Bánh Thánh trong Mặt Nhật, đó là: đây là ‘Bánh được bẻ ra’. Thứ chúng ta có trong Mặt Nhật không phải là một mẩu bánh, nhưng là bánh đã được bẻ ra trong suốt buổi Cử hành Thánh Thể. Tự nhiên, từ đây nảy ra những câu hỏi đại loại như sau: ‘Ai đã bẻ bánh này? Người ấy bé bánh này khi nào? Tại sao người ấy lại bẻ bánh và người ấy đã nói gì khi bẻ bánh? Chúng ta có sẵn sàng bẻ chính chúng ta như người ấy đã làm vì sự sống của thế gian không? Đây là cách duy nhất để chúng ta nối kết việc cầu nguyện với việc cử hành Thánh Thể.

Điều cha Eymard nhắm đến chính là khi Chầu Thánh Thể được tách ra khỏi việc cử hành thì nó thiếu đi điều cần thiết. Nó bỏ qua mục đích của việc Đức Giê-su ban Thánh Thể cho chúng ta. Ý định chính yếu của Người khi ban Thánh Thể cho chúng ta không nhất thiết là chúng ta có thể tôn thờ Người đang hiện diện giữa chúng ta, nhưng là chúng ta có thể ‘làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy!’ Mong ước của Người là chúng ta cùng cộng tác với Người để tiếp tục công trình cứu độ qua việc kết hợp sự hiến mình nhỏ bé của chúng ta với hành động hiến ban chính mình vĩ đại của Người. Tách mình khỏi Đức Giê-su, hành vi hiến mình của chúng ta chỉ mang giá trị nhỏ nhoi. Nhưng khi chúng ta kết hợp việc hiến mình của chính chúng ta với việc hiến mình của Người, điều đó sẽ đem đến giá trị vô biên của Hy tế của chính Đức Ki-tô.

Chắc chắn chúng ta cần tỏ lòng biết ơn và tôn kính Đức Giê-su, nhưng điều này không thể tách rời khỏi hành vi tự hiến cốt yếu của Người dành cho chúng ta. Bên cạnh đó, Hy tế của Đức Giê-su trong Bữa Tiệc Ly đơn giản là cao điểm của toàn bộ đời sống vâng phục Chúa Cha và đây là điều mà Đức Giê-su muốn chúng ta tiếp diễn trong cuộc đời mình. Vì thế, Việc Cử hành phải đến trước trong tâm trí và tâm hồn của chúng ta, rồi sau đó mới chuyền thành lời cầu nguyện tha thiết trước Thánh Thể. Việc cầu nguyện này cũng được xem là để chúng ta chú ý đến sứ điệp của Đức Ki-tô dành cho chúng ta trong ngày sống (đọc ra những dấu chỉ) hơn là để dâng lời ngợi khen, tôn thờ và tạ ơn Đức Giê-su hiện diện ở đó. Mục đích sau cùng của Đức Giê-su khi ban Thánh Thể cho chúng ta, đó là: chúng ta có thể tiếp tục công trình cứu độ nhờ danh của Người.

 

Ngày 29/5

“Tôi ao ước làm một điều vĩ đại cho vinh quang Thiên Chúa và cho ơn cứu độ của anh em tôi” [ ]

Ngay từ thời niên thiếu, cha Eymard đã nuôi dưỡng ước mơ vĩ đại của mình, ‘Tôi ao ước làm một điều vĩ đại cho vinh quang Thiên Chúa’. Với một tham vọng đang bừng cháy trong tâm trí như thế, thì chẳng lấy gì làm lạ khi cha luôn luôn thao thức, tìm cách cho đi càng nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, điều này nhắc nhở chúng ta rằng ơn gọi thực sự của chúng ta hiếm khi tỏ lộ ra ngay từ lúc ban đầu của hành trình thiêng liêng. Nhìn chung ơn gọi ấy chỉ tỏ lộ ra khi chúng ta tiếp tục theo đuổi nó, và một cách nào đó, ơn gọi ấy được nối kết với sự quảng đại cũng như sự từ bỏ những gì chúng ta đã thực hiện ở những bước đầu tiên. Như Chúa Giêsu đã nói: ‘Ðầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.” Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”’ (Lc 12,47-50).

Khi Thiên Chúa muốn trao phó một dự án cho chúng ta, trước tiên Ngài trang bị cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần để hoàn thành nhiệm vụ ấy. Mỗi một chi tiết đều được chuẩn bị hết sức chu đáo: gia đình mà chúng ta được sinh ra trong đó, sự giáo dục chúng ta lĩnh hội, bạn bè, thầy dạy, và những điều kiện khác, thậm chí là cả đau khổ và những thử thách chúng ta gặp phải, tất cả đều được tính toán để trang bị cho chúng ta thực hiện nhiệm vụ này. Vì thế, lỗi lầm của Môsê khi giết một người Ai Cập là sai, chắc chắn rồi, thế nhưng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, điều đó đưa đến việc chạy chốn của ông vào sa mạc cho tới khi ông đến được Mađian. Lộ trình ông đã thực hiện để đến đó cũng chính là lộ trình mà sau này ông sử dụng để dẫn dắt dân Ít-ra-en đạt được tự do. Bên cạnh đó, khi ông băng qua sa mạc trong lần đầu tiên này, ông đã có được kinh nghiệm đầu tay về ý nghĩa của việc vượt qua vùng đất sa mạc… đó là tất cả những gì giúp ông đứng vững sau này.

Hơn nữa, Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta những cơ hội và sự trợ giúp cần thiết để thực hiện kế hoạch mà Thiên Chúa trao phó cho chúng ta. Khi nhìn vào cuộc đời của cha Eymard, chúng ta thấy rằng cha đã khám phá ra ơn gọi Thánh Thể này sau khi trải qua đau khổ trong nhiều năm và bằng nhiều con đường đan chéo nhau. Sợi chỉ vàng liên kết mọi bước đi này chính là khát vọng bừng cháy của cha để làm một điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Bên cạnh đó, lý do khiến cha Eymard ao ước làm một điều gì đó vĩ đại không phải vì cha muốn nổi tiếng và có tiếng tăm, nhưng là để cho Nước Chúa có thể hiển trị ngày càng rõ nét hơn. Cha rất thận trọng khi đoan chắc rằng Thiên Chúa muốn cha loại bỏ khỏi mình dù chỉ là một dấu vết nhỏ của Cái Tôi vốn làm cho cha rời xa chính lộ mà Thiên Chúa đã chọn lựa cho cha.

Khi nhìn lại, chúng ta có thể nói rằng cha Eymard đã thực sự làm một việc vĩ đại cho Thiên Chúa. Ngày nay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội”. Thánh Thể chiếm vị trí trung tâm trong đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Đặc tính của Thánh Lễ mà chúng ta cử hành phản ảnh Giáo Hội là một Giáo Hội cụ thể! Và Hội dòng Thánh Thể là Hội dòng duy nhất (dĩ nhiên là bao gồm cả các chị Nữ tỳ) quy hướng về Thánh Thể. Hầu hết các Hội dòng khác xem Thánh Thể như phương tiện (tăng thêm sức mạnh) để đạt đến một kết cục nằm ngoài điều họ mong chờ. Nhưng đối với Hội dòng Thánh Thể, đó chính là toàn bộ mầu nhiệm Thánh Thể, trong tất cả các khía cạnh mà nó thể hiện.

 

Ngày 30/5

“Trong mọi sự, chúng ta chỉ nên suy nghĩ đến việc phụng sự Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể và chỉ kính mến, yêu mến, cũng như ao ước những gì liên hệ trực tiếp đến Bí Tích Thánh Thể mà thôi.” [Gửi cho cô Ma-gơ-rít Gui-lốt, tháng 12/1866]

Trong lời khuyên này, cũng như ở những chỗ khác trong các tác phẩm của cha Eymard, chúng ta thấy cha lại quay trở lại với điểm chính yếu của dự án phụng sự Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể của cha. Mọi sự khác chỉ chiếm tầm quan trọng thứ yếu trong mối bận tâm của cha. Cha nhận thấy rằng Chúa Nhân Lành sẽ sắp đặt những người khác để chăm lo cho mọi khía cạnh khác của đức tin và lòng sùng kính của chúng ta. Cha được trao trọng trách là làm cho Chúa hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể được mọi người biết đến và yêu mến. Chỉ cần làm việc đó thôi cũng đã đủ khiến cho cha cùng tất cả các cộng sự của cha, những người đã gia nhập vào Hội dòng mới do cha sáng lập, trở nên bận rộn rồi, tất cả là ngang qua đời sống của họ. Bí Tích Thánh Thể là mầu nhiệm trung tâm và thâm sâu nhất về tình yêu của Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta, và không ai có thể nói rằng họ đã nắm bắt được toàn bộ sự sung mãn và ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể!

Là một người khôn ngoan và thực tế, cha Eymard nhận thức đầy đủ về khuynh hướng nơi con người chúng ta, đó là: bỏ qua công việc được trao phó cho mình, và thích xen vào những công việc được giao phó cho người khác. Sở dĩ có điều này là vì cỏ trong bãi của người hàng xóm dường như luôn xanh tươi hơn! Nhưng bi kịch ở chỗ: chúng ta không làm những công việc được trao phó cho mình cũng như không hoàn thành những công việc khác mà chúng ta có bổn phận phải làm, chúng ta bỏ lỡ cả hai, và làm tổn hại đến mọi người. Bên cạnh đó, Bí Tích Thánh Thể là mầu nhiệm trung tâm của tình yêu chứa đựng những chân lý quan trọng, hấp dẫn và lôi cuốn nhất. Do đó, những ai được giao phó công việc này sẽ phải đương đầu với nhiều thử thách hơn những gì họ có thể gặp phải trong thực tế. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực cụ thể này vì tầm quan trọng của nó, có nhiều điều phức tạp mà người ta cần phải đặc biệt chú ý tới vì sợ rằng nó sẽ đưa đến những kết quả hời hợt.

Hơn nữa, vào thời cha Eymard, tình yêu là điều bị khước từ nhất, thực ra tình yêu không được mọi người biết đến và do đó cần phải được chú ý nhiều hơn. Không ngạc nhiên lắm khi cha đề nghị cô Gui-lốt nói với các chị em Nữ Tỳ Thánh Thể rằng họ chỉ nên chú ý đến một mình Thánh Thể mà thôi. Vì khi quan tâm đến Thánh Thể thì có ít nhất là ba việc cần phải làm. Thứ nhất, mọi người cần phải biết Thánh Thể là toàn bộ mầu nhiệm về tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho mỗi con người. Cần phải hiểu về tất cả những hệ quả của Bí Tích này ở cấp độ tâm linh, tâm lý, tín điều, xã hội và cảm xúc. Cha Eymard cho rằng Thánh Thể chứa đựng lời giải đáp cho những vấn nạn của con người và nếu đúng như vậy, thì người ta cần phải ‘đào sâu’ hay khám phá những khía cạnh chữa trị này với một khối lượng công việc cá nhân tương đối lớn.

Điều này đòi hỏi một sự nỗ lực nghiêm túc đối với bản thân để sống những đòi hỏi trong việc cử hành Thánh Thể của chúng ta, trưởng thành mỗi ngày về kỹ năng và sự khéo léo trong việc bẻ cuộc đời mình ra cho người khác. Vì Đức Giê-su phán bảo chúng ta rằng không phải những ai nói ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha! (Mt 7,21). Sau cùng, người ta chia sẻ những sự sung mãn này với người khác. Ba cấp độ này làm nên một chương trình tổng hợp cho toàn bộ đời sống của con người!

 

Ngày 31/5

“Những công trình vĩ đại luôn luôn đặt nền tảng trên đồi Can-va-ri-ô” [ ]

Chúng ta có thể nói rằng nếu bất kỳ người nào đó ước muốn tham gia vào dự án lớn mà Thiên Chúa đang thực hiện trong vũ trụ của chúng ta, người ấy cần phải thấm nhuần kế hoạch ban đầu trong ý định của Thiên Chúa. Đức Giê-su diễn tả kế hoạch này bằng những thuật ngữ sau: ‘lôi kéo mọi người vào Nước Trời- một đại gia đình của tình yêu!’ Để có thể quy tụ được mọi người thuộc mọi thời đại cũng như mọi nơi, đòi hỏi phải có nhiều con đường nhưng con đường mà Thiên Chúa ưa thích hơn cả dường như là con đường Can-va-ri-ô. Vì chính Đức Giê-su đã phán ‘Và một khi Tôi được kéo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi’ (Ga 12,32). Đối với Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ nhân loại, thì không có con đường nào khác. Chính Người đã cầu xin Chúa Cha cất khỏi chén này, nhưng cuối cùng Người lại đón nhận một cách vui vẻ và với lòng biết ơn ‘Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha!’ (Mt 26,39).

Nếu đây là tình cảnh dành cho chính Đức Giê-su, thì rõ ràng là mọi việc lớn lao khác cũng cần phải diễn ra y như vậy. Chúng không thể được thực hiện nếu không phù hợp với kế hoạch và mục đích của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta có thể nói khi Thomas Edison tuyên bố rằng ông đã không thất bại đến 5000 lần trong những nỗ lực của mình để phát minh ra bóng đèn điện, nhưng đúng hơn là ông đã khám phá ra 5000 cách không đưa đến thành công, ông đã liệt kê ra những nguyên lý tương tự. Chỉ khi nào chúng ta biết làm theo kế hoạch của Thiên Chúa, thì chúng ta mới hy vọng đạt được thành công. Vì thế, khi chúng ta thành công, chúng ta có thể thật thà mà nói rằng đó không phải là do tài năng hay kỹ năng của chúng ta đem đến những thành quả trong việc tìm kiếm của mình, nhưng đúng hơn chúng ta phải nói rằng cuối cùng chúng ta đã biết vâng theo ý định của Thiên Chúa và bấy giờ mọi sự sẽ bắt đầu diễn ra một cách hài hòa. Vì thế, kết quả sau cùng chính là thành công của Ngài chứ không phải của chúng ta; chúng ta chỉ là những dụng cụ trong tay Thiên Chúa, cũng như Tin Mừng đã nói với chúng ta rằng chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng mà thôi.

Vì thế, điều quan trọng liên quan đến sự thành công trong công việc của chúng ta, đó là lòng vị tha. Đồi Can-va-ri-ô cho thấy một sự bỏ mình tận căn vì khi Đức Giê-su bị treo trên đồi Can-va-ri-ô, hầu như là ít ai tỏ lòng biết ơn về những gì Người đã làm, ân huệ lớn lao Người dành cho chúng ta đã bị đánh mất hoàn toàn, không ai nói một lời cảm ơn, không người nào ở đó dám đảm bảo với Người rằng họ sẽ làm theo mẫu gương tuyệt vời mà Người đã để lại. Thế nhưng, Đức Giê-su biết rằng điều Người làm quả thực là theo ý muốn của Chúa Cha và một ngày nào đó sẽ sinh hoa trái. Ngày đó sẽ không quá xa vì vào sáng ngày Phục Sinh, toàn bộ Vũ trụ trở nên rạng rỡ với lời hứa về sự sống mới. Kể từ đó, tinh thần dám nghĩ dám làm cũng như tinh thần quảng đại từ bỏ cái tôi sẽ không bao giờ có thể bị dập tắt bởi tội ác xung quanh.

Đồi Can-va-ri-ô quả thực là câu trả lời cho mọi công trình vĩ đại được thực hiện trong thế gian, không quan trọng tác giả của những công trình ấy tuyên xưng niềm tin vào tôn giáo nào. Tôn giáo không phải là vấn đề ở đây, nhưng quan trọng là người ta có nắm bắt được bản chất của sự từ bỏ mình thực sự vốn gắn liền với mọi công trình vĩ đại được thực hiện không chỉ là một năm hoặc hai năm nhưng là cả hàng nhiều thế kỷ. Đền Taj Mahad, chứng tích về tình yêu, đã bất tử qua nhiều thế kỷ nhưng quả thực nó cũng được xem như đồi Can-va-ri-ô đối với nhiều công nhân! Chúng ta không biết họ có ý thức và vui vẻ đón nhận đau khổ và cái chết hay không, nhưng chúng ta có thể xem đó như là quà tặng mà họ dành cho thế gian và cho tình yêu!

Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, SSS

 

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.