365 Ngày Với Cha Thánh Eymard – Tháng 9

365 NGÀY VỚI CHA THÁNH EYMARD – THÁNG 9

 

Ngày 1/9

… Hãy để cha nói cho con biết rằng ngọn lửa sẽ bùng cháy khi có một lò sưởi cung cấp cho nó. Hoạt động là yếu tố của nó, điều đó đúng, nhưng hoạt động đích thực của tình yêu thì chứa đựng trong đó”. [Gửi cho cô Virginie Danion, 2/1867]

Có một thực tế, đó là: tinh thần hăng hái của con người được biểu hiện chủ yếu qua cách hành xử bên ngoài của họ, sự say mê mà người ấy đang theo đuổi, cung điệu du dương của giọng nói, vẻ rạng ngời trong đôi mắt, nụ cười trên khuôn mặt,… Nhưng có thể xảy ra là tất cả những hành vi ấy được thể hiện ra bên ngoài, trong khi yếu tố thực sự của tình yêu thì lại hoàn toàn vắng bóng. Điều này có thể xảy ra vì một vài người thì rất hoạt bát và rất năng động, trong khi những người khác lại điềm đạm hơn và thư thả hơn. Vì thế, điều quan trọng cần đảm bảo đó là tình yêu đích thực phải là nguồn mạch cho mọi hành động hoạt bát của chúng ta, và những hành động ấy có thể được thực hiện nhờ việc chú ý hơn đến nội tâm.

Khi nói rằng hoạt động đích thực của tình yêu thì chứa đựng trong đó, điều mà cha Eymard có lẽ muốn nhắm đến đó là yếu tố then chốt của tình yêu được biểu hiện qua sự vâng phục, niềm trông cậy, sự trung thành bên trong đối với tất cả những gì thân thương được xem là sự chọn lựa của cha… Rõ ràng, sự vâng phục này phải được biểu lộ qua những hành động được thực hiện bằng sự dâng hiến đầy yêu thương-những hành vi tử tế nhỏ bé và việc phục vụ người khác vì Chúa Giê-su, tính kiên nhẫn, sự cam chịu, sự hy sinh,… tất cả đều phát xuất từ tình yêu. Thế nhưng khi những hành động bên ngoài này được nối kết với một cuộc “đối thoại” có ý thức và sống động với người mình yêu, chúng sẽ ngày càng trở nên cao quý và có giá trị.

Thật hữu ích nếu chúng ta đưa ra một ví dụ thực tiễn: hai người cùng dâng Thánh Lễ, cả hai đều có lòng hăng hái bên ngoài như nhau. Một trong hai người làm việc này với một sự nhận thức sống động về lòng biết ơn đối với Chúa, Đấng đã giải thoát người ấy khỏi hàng loạt tai ương vốn có thể khiến người ấy đánh mất mạng sống của mình! Người kia cũng thực hiện những hành vi này một cách sống động gần như là theo thói quen, vì người ấy được dạy làm như thế. Không nghi ngờ gì, nơi người thứ hai ít là có một kiểu “cảm xúc” chung chung nào đó của tình yêu hướng về Chúa, nhưng rõ ràng là nó thiếu đi sự tươi mới là điều làm nên cách cư xử của người thứ nhất! Cha Eymard dường như đề cập đến điều này qua thành ngữ “ngọn lửa bùng cháy khi có một lò sưởi cung cấp cho nó!” Vì vậy, trong trường hợp của chúng ta, lò sưởi (hay đúng hơn: tâm hồn) cần phải luôn nhận thức (ý thức, bao nhiêu có thể) về chiều sâu của tình yêu mà Chúa Giê-su dành cho chúng ta. Như trong trường hợp của thánh Phao-lô, cụm từ “Ngài đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,10) phải là nguồn gợi hứng cho tất cả những ý tưởng, lời nói và hành động của chúng ta. Và điều này không thể xảy ra nếu người ta không ý thức nuôi dưỡng nó và tiếp tục bổ sung nguồn cảm hứng tự ban đầu cho nó.

Việc nhớ lại tình yêu này và biến nó thành bàn đạp cho mọi hoạt động của chúng ta phải trở nên bản tính thứ hai đối với chúng ta, khi ấy chỉ một thói quen được trau dồi hay một cách làm quen thuộc mới khiến chúng ta đoan chắc rằng ngọn lửa tình yêu của chúng ta sẽ bùng cháy và kiên vững!

 

Ngày 2/9

“Dĩ nhiên, tôi đồng ý với vị giảng thuyết đó. Chúng ta phải tránh tình trạng căng thẳng của tâm trí và tránh xa đức tính tốt vốn chỉ là một sự hy sinh. Thay vào đó, chúng ta cần biết sống trong sự tạ ơn vốn đòi hỏi một tâm hồn cảm nhận được niềm vui về những ân huệ và phúc lành của Chúa.” [Gửi cho bà Lepage, tháng 3/1867]

          Cùng với sự giải thích được đưa ra trong bài suy niệm trước, những lời của cha Eymard nói với bà Lepage dường như là quá rõ. Tránh tình trạng căng thẳng của tâm trí và thực hành nhân đức, nhưng trên hết đó sẽ là một sự hy sinh theo nghĩa là một điều gì đó tiêu cực và được nghĩ ra. Tại sao người ta lại muốn tránh tình trạng căng thẳng này? Nó cũng có thể phát xuất từ một ước muốn mang tính cá nhân để loại bỏ sự căng thẳng do điều này gây nên. Dù đây là điều tốt, thế nhưng chưa đủ để cha Eymard dừng lại. Cha muốn người con linh hướng của mình tập trung vào tình yêu là thứ linh hứng cho mọi hoạt động của chúng ta, cụ thể trong trường hợp này chính là việc tạ ơn.

Vả lại, việc tạ ơn không thể có nếu người ta không đề cập đến sự đền đáp đối với người ban phát. Trong câu chuyện Mười Người Phong cùi (Lc 17,12-19), chúng ta thấy chỉ có một người, người Sa ma-ri, nghĩ đến Đức Giê-su và quay trở lại tạ ơn Người. Chín người kia đã biết ơn về ân huệ mà Đức Giê-su ban cho họ, nhưng quan trọng hơn là phải chứng minh bệnh tình của họ và được cộng đồng chấp nhận. Ở đây, chúng ta nhận ra chủ nghĩa cá nhân nơi họ, có một điều gì đó hơi chính đáng! Vì thế, điều họ đã làm không sai nhưng chưa tốt lắm khi suy nghĩ về ân huệ bao la mà Đức Giê-su đã đổ xuống trên họ, và thậm chí là ơn cứu độ vĩ đại mà Người đã ban cho họ!

Thật đáng để lưu ý rằng ở đây Đức Giê-su không than phiền vì Người cảm thấy bị tổn thương khi chín người kia không quay trở lại để tạ ơn Người. Sau hết, họ đã vội đến Đền Thờ và chắc chắn đã tạ ơn Thiên Chúa ở đó! Điều mà Đức Giê-su hối tiếc đó là họ đã không nhận ra một điều gì mới và khác biệt sau những gì Người đã làm, điều mà người Sa-ma-ri đã nhận được khi Đức Giê-su nói với anh ta “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” (Lc 17:19). Điều này sẽ giải thoát họ khỏi những gông cùm của chủ nghĩa nghi thức trong Cựu Ước và dẫn đưa họ vào một sự liên hệ cá nhân với con người của Đấng Cứu Chuộc được Chúa Cha sai đến.

Tại sao chín người kia lại vội đến Đền Thờ? Chúng ta có thể nói gì hơn. Người ta tranh luận rằng họ đã làm việc này vì Đức Giê-su bảo họ làm như vậy! Thế nhưng, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, họ đã vội đến Đền Thờ để nhận được ‘ơn cứu độ’ mà chỉ một mình Đức Giê-su mới có thể ban. Người Sa-ma-ri, không có Đền Thờ mà đến, đã quay trở lại nguồn mạch của ơn lành. Hơn nữa, chúng ta hiếm thấy một chủ nghĩa cá nhân nào nơi người Sa-ma-ri: thay vào đó, anh tập trung vào kho tàng quý báu của mình, anh nhớ đến Đấng ban phát và trở lại để dâng lời tạ ơn. Mỗi ân huệ đều là một bổn phận và có lẽ con người phải dừng lại để tự hỏi mình “Tất cả những điều này hàm ý gì? Cuộc sống nào tôi sẽ bước đi kể từ đây khi là một người đã được chữa lành?’ Một triết gia đã nói rằng “Một cuộc đời không phản tỉnh là một cuộc đời không đáng sống!” và chúng ta thấy rằng cách cư xử của chín người kia đối nghịch với cách cư xử của người phong cùi xứ Sa-ma-ri. Quả thực, điều cha Eymard khuyên nhủ đó là chúng ta chú ý đến sự nhân lành của Thiên Chúa dành cho chúng ta trong mọi ơn lành chúng ta nhận được. Mỗi cố gắng phải liên kết chúng ta với Đấng ban phát mọi ơn lành, chứ không chỉ đơn thuần với những ân huệ lãnh nhận được.

 

Ngày 3/9

(Bệnh tật) là một trở ngại có thể giúp con thực sự tin tưởng vào Sự quan phòng của Thiên Chúa, đặc biệt trong niềm tín thác của trẻ thơ vào lòng nhân từ vô biên và tình phụ tử của Thiên Chúa”. [Gửi cho bà Lepage, 4/1867]

Ở đây, lại một lần nữa chúng ta biết được một quan điểm rõ ràng khác của cha Eymard dựa trên chính kinh nghiệm bản thân của cha. Chúng ta biết rằng hầu như cha luôn luôn phải chịu đau khổ vì bệnh tật và vì thế, cha biết rất rõ những ngăn trở mà tình trạng sức khỏe yếu gây ra cho chúng ta, nhất là cho những ai muốn thực hiện một điều gì đó đặc biệt trong cuộc đời mình. Giả sử mọi thứ sẽ diễn ra tốt đẹp, người ta lên kế hoạch cho một ngày sống và kế hoạch ấy chỉ bị khựng lại vì chứng đau nửa đầu ngăn cản mọi hoạt động có giá trị trong toàn bộ ngày sống đó. Điều này có ý nói rằng người ta lệ thuộc vào lịch trình của mình và mọi thứ đã được hoạch định sẽ giảm đi hoặc tăng lên. Chúng ta biết nhiều lần cha Eymard tìm cách trả lời những lá thư mà những người con linh hướng của cha viết cho cha, họ mong chờ câu trả lời của cha biết chừng nào!

Loại thử thách muốn từ bỏ những gì xảy đến một cách không báo trước và có lẽ vào một thời điểm không thích hợp và khó khăn nhất là một cách từ bỏ cái tôi của mình thích hợp nhất mà người ta có thể dâng lên cho Thiên Chúa. Qua việc từ bỏ này, Chúa sẽ nói với chúng ta rằng Ngài chịu trách nhiệm hoàn toàn và sẽ làm mọi sự theo như ý định của Ngài chứ không phải của chúng ta! Khi người ta có thể dâng lên Chúa với một niềm tín thác của một trẻ thơ vào bàn tay của Chúa Cha và để cho Ngài trở thành tài xế lái xe của chúng ta, Ngài sẽ hoàn tất mọi sự trong cuộc đời chúng ta một cách tốt đẹp hơn những gì chúng ta có thể mong chờ mà không cần đưa ra bất kỳ một lời đề nghị cũng như một sự chọn lựa nào! Thế nhưng, đối với một người cứng đầu cứng cổ hay một người có khả năng tự quyết định, thì điều này có thể gây ra một sự đổ vỡ thực sự về ý định cũng như kế hoạch của người ấy để đổi lấy những dự định của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Thế nhưng, mức độ từ bỏ bản thân mình không diễn ra một cách dễ dàng và vì thế người ta sẽ chỉ đạt được điều đó qua việc thường xuyên khẩn nài, cụ thể là chú ý đến những lần mình phạm lỗi, cũng như học được bài học từ những sai lầm của mình. Thật ra, nếu chúng ta có thể cảm nhận được niềm vui khi Thiên Chúa phá vỡ mọi kế hoạch của chúng ta và chúng ta mau mắn tin tưởng nơi Chúa với một nụ cười nở trên môi và một bài hát từ tận đáy lòng của chúng ta, thì chúng ta có thể đoan chắc rằng những tiến bộ về đường thiêng liêng sẽ được thực hiện. Đau khổ, đặc biệt là đau khổ về thể xác, có thể là một tài sản quý giá trong những lúc như vậy, bởi vì nói theo cách tự nhiên, nó có khuynh hướng tập trung sự chú ý của chúng ta vào cơn đau đớn cũng như sự bất tiện của chính chúng ta. Do đó, tốt hơn hết là phải học cách để làm thế nào tiếp tục làm việc ở mức tốt nhất mà không phải lo lắng về sự bất tiện, cũng như việc đánh mất kế hoạch ban đầu của mình.

Vì Chúa rất yêu thương mỗi người chúng ta, nên chúng ta có thể đoan chắc rằng Ngài sẽ ban cho chúng ta nhiều cơ hội để thăng tiến trong đường nhân đức qua việc gửi đến cho chúng ta bệnh tật vào thời điểm thích hợp. Chúng ta cần cầu xin cho mình đủ tỉnh táo để biết tận dụng mọi cơ hội mà Chúa ban cho, đặc biệt là để lớn lên trong tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Cũng có một phúc lành khác sinh ra trong những tình huống này đó là khi người khác thấy chúng ta đương đầu với căn bệnh của mình với niềm vui hơn là sự nóng giận hay oán trách, thì họ cũng sẽ tìm cách tự hỏi làm thế nào việc này có thể xảy ra. Suy nghĩ kỹ, họ có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa cũng như lòng nhân hậu của Ngài trong cuộc đời họ, và họ sẽ tiến bộ trong việc đáp trả lại những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi họ. Vì thế, chúng ta không chỉ trưởng thành, nhưng chúng ta còn trở nên chứng nhân trước mặt người khác khi lôi kéo họ cùng đi vào vòng tròn tình yêu vô biên của Thiên Chúa!

 

Ngày 4/9

“Thập giá thì nặng và dài nhưng nhớ rằng thập giá đến từ Trời, và Thánh Tâm Chúa Giê-su đã trao thập giá cho con như cho Người tôi tớ đau khổ của Người! Đừng chú tâm quá nhiều vào thập giá, nhưng thay vào đó hãy nhìn vào bàn tay đã gửi đến thập giá đó, thì bấy giờ tâm hồn con sẽ làm cho thập giá trổ bông.” [Gửi cho bà Cát minh Cha-nu-ê, 4/1867]

Lại một lần nữa, cha Eymard, khi đưa ra lời khuyên cho người con linh hướng của mình, đã tìm cách lôi kéo bà chuyển cái nhìn từ thập giá và đau khổ trong tầm tay sang Một Con Người đứng đằng sau những cái đó, để có thể cảm nếm được tình yêu chứa đựng trong đó. Nhìn thẳng vào chính thập giá sẽ không giúp ích được gì, đặc biệt khi đó là một thập giá nặng nề và mất nhiều thời gian.

Bản chất của con người là gì, chúng ta dễ có khuynh hướng bị đè nặng bởi bất kỳ khó khăn xảy ra trên con đường của chúng ta. Chúng ta thích mọi thứ luôn diễn ra một cách êm xuôi, dù biết rằng điều này thì không thể, và chúng ta nhận ra rằng mỗi ngày phải chia sẻ thập giá của chính mình, đôi lúc lớn, đôi lúc nhỏ.

Thật là một việc thực hành tốt, cụ thể là trong những lúc đau khổ để ngước nhìn lên Đức Giê-su, Đấng chịu đau khổ gấp ngàn lần chúng ta có thể chịu và cũng hoàn toàn vô tội trước những lời kết án chống lại Người! Điều gì thực sự có thể khiến Người chịu đựng những đau khổ ấy? Trước hết, đó là tình yêu vẹn tuyền đối với Cha Người, Đấng đã sai Người đến trần gian để thi hành sứ mạng vì Chúa Cha tin cậy Người và biết rằng Người sẽ không bao giờ từ bỏ dù cho có khó khăn thế nào đi chăng nữa! Bên cạnh đó, cũng có một tình yêu dành cho tất cả bạn hữu của Người, những người mà nếu không có Người thì sẽ bị hư mất, sẽ rơi vào đại dương của chủ nghĩa cá nhân mà không có lối thoát nào cả. Như vậy, Đức Giê-su hoàn toàn ý thức rằng không phải tất cả mọi người sẽ biết ơn tình yêu của Người và làm cho tình yêu ấy trở nên tốt nhất. Tuy nhiên, nếu chỉ có một vài người làm điều ấy, bao gồm cả những người ngoài cuộc như Phao-lô và nhiều vị thánh khác qua nhiều thế kỷ, thì những đau khổ của Người sẽ là một nỗ lực đáng giá!

Người nào càng có tình yêu cao cả, thì người ấy càng có thể nhận ra ý nghĩa lớn lao trong tình cảnh được đặt ra, càng dễ dàng để chấp nhận mọi trở ngại và đau khổ liên quan đến nó. Victor Frank đã chứng tỏ điều này một cách thuyết phục khi ông chịu đựng những đợt tra tấn ở Trại Tập Trung cùng với nhiều người khác để có thể thay đổi quan điểm của mình về ý nghĩa làm cho đau khổ có thể chịu đựng được. Hơn nữa, Frank còn đi xa hơn khi ông khẳng định rằng đó là “điều đáng kể được thực hiện trong tương lai’ đem lại cho người ta sức mạnh để vượt qua bất kỳ đau khổ nào. Vì thế, chỉ khi nào Ki-tô hữu nhận ra rằng họ đạt được một điều gì đó đáng giá qua đau khổ của mình, cũng như chính Đức Giê-su vậy, thì họ sẽ đủ mạnh mẽ để chấp nhận những thập giá của mình.

Đây là điều tương tự khi nhìn vào thập giá đến từ bàn tay yêu thương của Chúa Cha, vì Chúa Cha là nguồn mạch và cội nguồn của mọi sự trong thế gian này, và Ngài là Đấng sắp xếp mọi sự, Ngài để ý đến những chi tiết nhỏ nhất, để đem lại điều tốt cho mọi loài thụ tạo của Ngài. Do đó, không có gì đến từ bàn tay Thiên Chúa lại có thể đưa đến nguy hiểm hay lãng phí cả! “chúng ta biết rằng: mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa, tức là cho những kẻ được kêu gọi theo ý định của Người.” (Rm 8,28). Việc nhìn vào bàn tay của Thiên Chúa như nguồn mạch của đau khổ cho phép chúng ta làm nổi bật lên điều tốt nhất nơi mình, cũng như nơi người khác trong những khoảnh khắc cố gắng nhất.

 

Ngày 5/9

“Những cơn tức giận lên quá cao đến nỗi điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể gây ra một sự bùng nổ. Đơn giản là con phải hoàn tất toàn bộ công việc của mình và gác nó sang một bên, và khi con ra đi, hãy cầu nguyện cho tất cả những người nam và người nữ đã gây đau khổ cho con, thậm chí là xin lỗi họ theo gương Chúa chúng ta.” [Gửi cho bà Bê-noa Ri-sạc, 5/1867]

Trong lời khuyên này, cha Eymard cho thấy cha đã thực hành điều cha giảng dạy. Khi khuyên bảo những người con linh hướng của mình nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa trong những lúc đau khổ mà họ được kêu mời phải chịu đựng, chính cha cũng đã phải gánh chịu một thập giá quá nặng đến từ một hội dòng thiếu kinh nghiệm. Tại một trong số những cộng đoàn của các chị Nữ Tỳ vốn đã khởi đầu rất tốt, mọi thứ dường như đã đi chệch hướng chỉ sau một thời gian. Ngay cả Giám mục giáo phận cũng phản đối mẹ bề trên, và tất cả đã chấm dứt bằng một sự việc lộn xộn với những thái độ tranh cãi từ mọi phía. Khi nhận ra tình cảnh này ngày càng trở nên cảm tính và căng thẳng, cha Eymard đã khôn ngoan nhận ra rằng lựa chọn tốt nhất đối với họ chính là chấm dứt ngay việc thiết lập cộng đoàn tại nơi đó, và rời khỏi nơi đó càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, nói thì dễ hơn là làm, vì thế cha đã đề nghị cô Guillot rời bỏ nơi đó nhưng trước tiên là phải đối diện với tình huống khó khăn.

Chúng ta lưu ý rằng cha Eymard không bao giờ tìm cách báng bổ bất kỳ ai vì sự bế tắc theo cảm tính khó khăn này. Nhưng thay vào đó, nhìn trong kế hoạch của Thiên Chúa, cha nhận ra rằng họ không nên thiết lập một cộng đoàn tại giáo phận đó. Đã có những cảm nghiệm đau thương từ mọi phía, nhưng cha đề nghị điều quan trọng nhất là phải cầu nguyện cho tất cả mọi người theo cách mà chính Đức Giê-su đã cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ Người. Sau cùng, quả thực mỗi người đều có cái lý của mình khi đứng từ góc nhìn mà mình lựa chọn. Và trong ý nghĩa đó, mỗi người đều có lý do chính đáng trong việc biểu lộ sự nóng giận về sự bất công dường như do người khác phạm phải. Bầu khí này đưa đến kết quả là thật khó để người ta có thể thực sự lắng nghe người khác, và nhận ra những lời giải thích cho những gì đã xảy ra.

Phó thác trọn vẹn hoàn cảnh vào bàn tay quan phòng của Chúa dường như là hướng đi hợp lý nhất, và đó là điều họ thực sự đã làm và mọi thứ dần dần trở nên êm xuôi. Để bắt đầu một cuộc đối thoại hiệu quả trong những tình huống này cần phải có những con người có cái nhìn cụ thể; họ cần có quyết định táo bạo để tìm ra một giải pháp tất thắng để tất cả các bên đều có lợi từ việc giải quyết sự bế tắc. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu và chỉ khi mỗi bên đều quyết tâm từ bỏ những gì là của chính mình, gắn bó với sự an bình sâu thẳm và vững bền giống như là điều mong muốn sau cùng vậy. Ích lợi chi khi người ta giành chiến thắng trong cuộc tranh luận, nhưng thay vào đó là đánh mất đi sự an bình nội tâm? Khi đã cảm nếm được sự an bình nội tâm và sự tĩnh lặng đích thực, chúng ta sẽ không muốn đánh đổi nó với bất cứ điều gì khác trong thế gian này nữa!

Ở đây, chúng ta nhớ lại dụ ngôn mà Đức Giê-su đưa ra khi nói về người có một kho lẫm. Ông đã phá bỏ những kho lẫm của mình đi và xây những kho lẫm rộng hơn. Khi tất cả lúa thóc được cất vào đó một cách cẩn thận, ông cảm thấy mình có thể nghỉ ngơi và vui hưởng suốt cả cuộc đời. Nhưng thật không may, đêm đó ông bị gọi đến trước “Ngọc môn” (cổng thiên đường) và phải giao nộp mạng sống mình, bỏ lại tất cả của cải cho người khác hưởng dùng.

 
Ngày 6/9

“Đừng nhìn vào thập giá với những gai nhọn, cũng đừng nhìn vào những người lên án và miệt thị, nhưng hãy nhìn về Nước Trời sẽ đến, và vào Đức Giê-su, Đấng ao ước có một nơi an bình.” [Gửi cho bà Benoa Ri-sạc, 5/1867]

Người con linh hướng này là một trong số những người gây rối rắm trong “đống bề bộn” được đề cập đến trong bài suy niệm trước đây, và không ngạc nhiên lắm khi đối với bà, cha Eymard đưa ra những lời đề nghị là hãy quy hướng về Chúa chứ không phải là thập giá cụ thể hay những gai nhọn của thập giá ấy! Thật là ngạc nhiên biết bao khi một nỗi đau có thể dễ dàng “biến mất” khi sự chú ý của con người hướng về một nơi nào khác. Chẳng phải chúng ta đã không sử dụng cách này khi một đứa trẻ bị thương về thể lý và bắt đầu khóc? Chúng ta chỉ vào một con bướm màu sắc sặc sỡ hay một chiếc máy bay đang bay lượn trên bầu trời và ngay lập tức đứa trẻ nín khóc.

Tuy nhiên, thật đáng để lưu ý rằng cha Eymard không đơn thuần đề nghị chúng ta làm cho mình sao lãng đi nỗi đau để rồi có thể quên nó đi một lúc. Thay vào đó, cha đề nghị chúng ta nên hướng sự chú ý của mình vào nguồn mạch hay cội nguồn từ một người nào đó mà chúng ta nghĩ rằng đang hành động một cách bất hợp lý, đến Chúa Cha đầy lòng yêu thương, Đấng có một kế hoạch tuyệt vời vì lợi ích của mọi người! Hơn nữa, cha khuyên chúng ta nhìn vào thập giá được ban cho chúng ta như một ân huệ đặc biệt từ Chúa, Đấng tìm kiếm một nơi để cư ngụ trong cuộc đời chúng ta một cách an bình. Thường thì chính lúc chúng ta gặp đau khổ, chúng ta ngày càng để ý hơn đến sự hiện diện của Đức Giê-su nơi mình. Cũng thế, khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta được vinh dự để chịu đau khổ cùng với Đức Ki-tô trong tình cảnh này, thì bấy giờ thập giá sẽ hoàn toàn trở nên một ân huệ đáng quý.

Dù có cân nhắc đến mấy đi nữa, chúng ta thấy đau khổ là một thực tại mà chúng ta phải đương đầu, bằng cách này hay cách khác. Thế nhưng, lợi ích hơn khi biết dùng những nhận xét vốn là chân lý hay thậm chí gần gũi với nó. Người ta sẽ không muốn đối diện với đau khổ dựa trên chân lý nửa vời và chấm dứt một ngày khi nhận ra rằng chúng ta đang tự lừa dối chính mình bằng những điều xoa dịu thay vì phải giải quyết tình huống một cách tốt nhất.

Trải qua lịch sử nhân loại, con người đang tìm kiếm một lời giải thích có thể chấp nhận được về sự hiện diện của đau khổ trong cuộc đời chúng ta, vì đó là một thực tại hiển nhiên trong đời sống của con người. Có lẽ, lời giải thích hay nhất mà chúng ta có đó là nói rằng đau khổ là điều chấp nhận được vì đó là ý muốn của Thiên Chúa, nhưng lúc ấy chúng ta vẫn có thể thắc mắc “Vì sao Thiên Chúa muốn con cái mình chịu đau khổ? Tại sao Ngài lại để cho đau khổ diễn ra trong cuộc đời của chúng ta nơi dương thế này, trong khi Ngài hứa ban cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc vĩnh cửu?

Khi ông Gióp thắc mắc những câu hỏi này với Thiên Chúa, Thiên Chúa thực sự không trực tiếp trả lời những câu hỏi này. Việc ấy xem như thể là Thiên Chúa bất lực trước thực tại đau khổ của con người. Theo một nghĩa nào đó, điều này cũng đúng, vì đau khổ không phát xuất từ Thiên Chúa nhưng từ việc sử dụng sai ý chí tự do mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Tuy nhiên, Thiên Chúa đảm bảo cho chúng ta rằng bất kể đau khổ phát xuất từ đâu, đó chính là thời điểm mà Ngài, Thiên Chúa vĩnh hằng, sẽ chia sẻ một cách gần gũi nhất với đau khổ của các thụ tạo. Vậy, có lẽ chúng ta sẽ hiểu rõ giá trị của sự bi ai và sự phi lý trong quang cảnh của vườn Giệt-si-ma-ni, nơi mà chính Con Thiên Chúa tìm kiếm những người bạn và mời họ “thức với Thầy một giờ!’ (Mt 26,38). Cũng thế, đau khổ là một thời điểm khi những người khác tự ý đến cứu giúp chúng ta với lòng quảng đại lớn lao, có lẽ vì họ nhớ lại những ngày họ phải chịu đau khổ một mình!

 

Ngày 7/9

“Chết khi đang phụng sự Chúa Giê-su Thánh Thể thì quả là tốt! Xin cho cái chết của chúng ta trở nên cái chết của một người đầy tớ tốt lành.” [Gửi cho cô Ma-gơ-rít Gui-lốt, tháng 5/1867]

Giống như đau khổ, sự chết là một thực tại khác mà chúng ta phải chiến đấu và tìm được một lời giải thích xem ra có vẻ hợp lý. Và thật dễ hiểu vì sự chết được chấp nhận như hậu quả tất yếu của tội lỗi! Trở lại với thời Cựu Ước, Mô-sê đã đưa ra câu hỏi tương tự và trả lời cho dân chúng rằng: “Hãy xem, hôm nay tôi đặt trước mặt anh em: sự sống và hạnh phúc, hoặc cái chết và tai họa. Điều hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lối của Người, va tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ giáng phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm hữu. Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp lạy các thần khác và làm tôi chúng, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để vào chiếm hữu. Hôm nay, tôi lấy trời đất chứng cáo tội anh em: tôi đã đặt trước mặt anh em: sự sống hay cái chết, lời chúc phúc lành hay lời nguyền rủa. Anh em hãy chọn sống để anh em và dòng dõi anh em được sống, nghĩa là hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh em sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Đức Chúa đã thề với cha ông anh em, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho các ngài.” (Đnl 30,15-20).

Cái chết sẽ ích lợi nhất nếu nó ghé thăm chúng ta khi chúng ta hết lòng trong việc phụng sự Chúa, cụ thể là trong việc tôn thờ Thánh Thể. Tuy nhiên, cái chết cũng sẽ đẹp biết bao nếu nó xảy ra vào lúc chúng ta bận tâm đến việc làm theo ý muốn của Thiên Chúa, vì đó là điều duy nhất đem lại giá trị cho bất cứ hành động nào của chúng ta! Luca đã đưa ra lời đề nghị này đối với cộng đoàn của ngài, “Anh em hãy thắt lưng cho gọn và thắp sẵn đèn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang canh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên họ mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba chủ trở về, mà thấy họ còn như vậy, thì thật là phúc cho họ.” (Lc 12,35- 38).

Thế nhưng, chúng ta đừng bao giờ quên rằng một người chết giống như họ đang sống vậy. Vì thế, nếu chúng ta biết sống từng giây phút trong cuộc đời mình trước Nhan Thiên Chúa để trung thành làm theo ý muốn của Ngài, thì bấy giờ chúng ta không cần phải lo sợ xem khi nào sự chết sẽ ghé thăm chúng ta, hay định mệnh của chúng ta sẽ như thế nào sau khi chết! Nếu ước muốn vĩ đại nhất và kiên định nhất của chúng ta là sống trước Tôn Nhan Chúa, hiệp thông gần gũi với Ngài, thì chúng ta có thể đoan chắc rằng Thiên Chúa cũng sẽ đảm bảo cho chúng ta tiếp tục có được điều này ngay cả sau khi kết thúc cuộc sống ở đời này. Những sự hoán cải vào giờ phút cuối cùng cũng là cách khả thi, nhưng xem ra không thích hợp lắm. Nhưng có một điều chắc chắn là chúng ta hoàn toàn xứng đáng trước mắt Thiên Chúa và Ngài sẽ ra sức đem chúng ta trở về qua chính cuộc sống của chúng ta. Giây phút chúng ta bày tỏ sự khiêm cung để trở về với Thiên Chúa, Ngài sẽ nắm lấy cơ hội và gặp gỡ chúng ta nhiều hơn!

 

Ngày 8/9

“Điều làm cha đau đớn đó là nghĩ rằng Chúa chúng ta sẽ đánh mất một ngai tòa tôn thờ. Cha không thể chấp nhận sự mất mát Thánh Thể này vì việc phụng sự Người.” [Gửi cho cô Ma-gơ rít Gui-lốt, tháng 5/1867]

Cha Eymard hoàn toàn bị ràng buộc vào nhiệm vụ được giao đến nỗi đối với cha, điều đó còn có ý nghĩa hơn là chính cuộc sống. Cha ao ước ngày càng có thêm nhiều người được đến trước Thánh Thể để trước hết cảm nghiệm được bàn tay yêu thương của Đức Giê-su dành cho họ. Bấy giờ, mọi sự có thể được phó thác cho Đức Giê-su để hoàn tất. Dường như cha tin rằng nếu một ai đó rời khỏi Hội dòng mà người ấy đã thiết lập, thì ngay sau đó người ấy sẽ tự động từ bỏ luôn việc tôn thờ Thánh Thể. Dĩ nhiên, không cần đúng lắm, mặc dù phải thừa nhận rằng nhìn chung điều này sẽ khó khăn hơn đối với các tín hữu, để tìm thời giờ cũng như những cơ hội cho việc cầu nguyện trước Thánh Thể.

Vào thời đại của chúng ta, chúng ta thấy hàng trăm nhà chầu Thánh Thể mọc lên trong giáo phận này đến giáo phận khác với một số lượng người kha khá đến cầu nguyện. Biết rằng việc cầu nguyện này dường như không phải lúc nào cũng đem lại nhiều hoa trái như chúng ta mong đợi, đánh giá từ những kết quả bên ngoài, nhưng Ông Chủ rất cẩn trọng và sẽ đụng chạm đến từng người vào lúc thích hợp nhất. Cũng thế, cách chinh phục con người của Ông Chủ quả thật là tuyệt vời. Giống như người gieo giống, Ông Chủ sẽ tiếp tục gieo ngay cả khi những nỗ lực trước đó bị xem là hoàn toàn không hiệu quả. Thế nhưng, tình yêu vô biên của Ông Chủ dành cho mỗi người khiến Ông tin rằng có một mảnh đất tốt nơi cuộc sống của mỗi người và một ngày nào đó, hạt giống Lời của Ông sẽ rơi vào mảnh đất tốt và bấy giờ vụ mùa có thể là 30%, hoặc 60% hoặc thậm chí là 100%.

Ngày nay cũng vậy, tuy nhiên, chúng ta cần đem càng nhiều người hơn vào trong vòng tay yêu thương của Đức Giê-su khi Người còn ở giữa chúng ta. Mặc dầu, hầu hết các Nhà Nguyện trong các giáo xứ của chúng ta vẫn có rất nhiều người đến chầu trong suốt cả ngày, thế nhưng tỉ lệ % số tín hữu thường xuyên đến Nhà Nguyện chỉ dưới 2%. Chính xác là khi người ta cần giúp đỡ thì họ sẽ được liên hệ và được đưa đến với Chúa, Đấng đang đợi chờ họ để tuôn đổ những ân huệ trên họ. Khi đã kêu mời được nhiều người đến, giai đoạn kế tiếp sẽ là để cho họ cầu nguyện một cách hiệu quả hơn. Họ phải được dẫn đến sự hiểu biết rằng cốt yếu của tất cả việc cầu nguyện của Ki-tô giáo chính là dâng hiến cuộc đời mình để thi hành ý Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta phải giống như lời cầu nguyện của Đức Giê-su trong vườn Giệt-si-ma-ni ‘Lạy Cha! xin đừng làm theo ý Con, nhưng theo ý Cha!’ Đây là điều mà hầu hết các Ki-tô hữu đều gặp khó khăn và cần rất nhiều lời động viên để có thể tiếp tục kiên vững.

Khi việc làm theo ý muốn của Thiên Chúa trở thành thói quen trong đời sống của một người nào đó, bước tiếp theo sẽ là giúp người ấy biến lời cầu nguyện của mình trở thành hành động qua việc đáp cứu những người lân cận đang cần giúp đỡ. Thái độ vị tha trổi lên trong suốt việc cầu nguyện phải lan tỏa khắp toàn bộ đời sống đối với một người Ki-tô hữu, người không còn sống cho chính mình nhưng cho người khác! Khi hiểu được điều này, người ta sẽ khám phá ra hàng trăm cách khác nhau để thực hiện điều này trong suốt ngày sống. Và ân phúc lớn nhất mà người ta nhận được dĩ nhiên là sự an bình và niềm vui sâu thẳm nơi Chúa. Chúa sẽ không bao giờ chịu thua lòng quảng đại!

 

Ngày 9/9

 “Những gì đang diễn ra quả là một ân sủng, tình huống thì sai lầm. Chính từ lòng thương xót của Thiên Chúa mà chúng ta phải tôn thờ và chúc tụng. Vì trong mọi sự, Thầy nhân lành luôn ở với chúng ta. Con phải luôn cầu nguyện và bình tĩnh tha thứ… Không trả đũa; chúng ta phải tôn vinh Thầy nhân lành trên đồi Can-vê, nơi Người đã nâng chúng ta lên.” [Gửi cho cô Phi-lô-mê Cu-chi-ê, 5/1867]

Lời khuyên này được dành cho người con linh hướng khác của cha Eymard, và có thể được nối kết với thảm họa ghê gớm xảy ra tại một trong số những cộng đoàn của họ. Trong lúc hoàn cảnh này đưa đến nhiều đau khổ từ mọi phía, cha Eymard cương quyết nhìn nó dưới một tia sáng tích cực hơn, như một ân sủng mà Chúa ban cho họ. Và thực tế điều đó là gì! Mỗi thử thách có thể giúp chúng ta vượt lên tính hẹp hòi của bản thân, đối diện với hoàn cảnh cùng với Đức Giê-su và chúc tụng Thiên Chúa cũng như chúc lành cho người khác hơn là than khóc và rên rỉ về những điều không hài lòng.

Thế nhưng, điều này nói thì dễ hơn là làm vì trong những lúc khủng hoảng như thế, nói chung chúng ta có khuynh hướng nhìn vào bản thân mình một cách tiêu cực, hay phản ứng để tự vệ. Chúng ta có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác, và tìm cách sửa dạy, có lẽ chỉ để cảm thấy rằng không phải chúng ta là người chịu trách nhiệm về tất cả mọi chuyện! Tuy nhiên, chứng tỏ mình đúng hay sai chỉ là một khía cạnh trong hầu hết các trường hợp. Điều quan trọng hơn là chúng ta vẫn đủ bình tĩnh để khám phá ra phần gánh vác của chúng ta là gì trong hoàn cảnh ấy và tìm cách sửa đổi chúng, để học được từ những lỗi lầm của mình. Cách làm này cho phép chúng ta trưởng thành trong sự khiêm tốn (vốn là chân lý của trường hợp này), trong việc đối xử tốt và biết ơn người khác, chứ không nhìn họ một cách quá nghiêm khắc hay tiêu cực. Trên hết, điều này đem lại cho chúng ta cơ hội để tha thứ như Chúa đã tha thứ.

Thật đáng để nhớ lại rằng khi Thiên Chúa tha thứ, tội lỗi có thể đang ở số 1 (hay dù ở số nào đi nữa) sẽ trở về số 0 vì sự tha thứ của Thiên Chúa đơn giản sẽ diệt trừ tội lỗi ra khỏi cuộc đời chúng ta. Thậm chí vết sẹo của lỗi lầm sẽ tan biến, hay dùng cách diễn tả của Thiên Chúa trong Kinh Thánh ‘vất bỏ sau lưng mọi lỗi lầm con phạm’ (Is 38,17). Khi chúng ta tha thứ, đó là ý tưởng được đặt trước mặt chúng ta, không phải theo nghĩa là chúng ta mong chờ vươn đến tầm mức ấy bằng chính sức lực của mình, nhưng chúng ta được kêu mời để chia sẻ ơn tha thứ của chính Thiên Chúa được ban cho chúng ta một cách nhưng không với anh em mình: “xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con.” (Lc 11,2-4).

Chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể quảng đại để cho Chúa đưa chúng ta lên tầm cao này, nơi đó vinh quang được dành cho Thiên Chúa. Vì bất kỳ ai chứng kiến biến cố này sẽ phải thừa nhận rằng không phải nhờ sức riêng của con người mà chiều sâu của ơn tha thứ được phân phát, nhưng là chính quyền năng của Thiên Chúa hoạt động nơi cuộc đời chúng ta! Phần chúng ta chỉ là nỗ lực để không đặt bất kỳ một chướng ngại nào trên con đường ấy. Điều này dường như là khó khăn, nhưng thực tế, đó là cách tốt nhất để kiểm soát tình huống này vì tìm cách khiển trách và đổ trách nhiệm thực sự chẳng đưa chúng ta đến đâu cả. Thừa nhận sự chia sẻ của mình trong tình huống này sẽ làm lan rộng tính tiêu cực và để cho ân sủng của Thiên Chúa chữa lành chúng ta từ bên trong! Việc tiến lại gần Chúa, Đấng luôn dang rộng bàn tay yêu thương, để thoát khỏi thảm họa này xuất hiện trước tiên, chính là chìa khóa để đi tới thành công và là giải pháp cho người Ki-tô hữu trước mọi vấn đề.

 

Ngày 10/9

“Bấy giờ, chúng ta phải cầu nguyện và xưng tội. Cha nói xưng tội vì chắc chắn tất cả chúng ta đều có một điều gì đó để tự trách mình.” [Gửi cho cô Maguerite Guillot, 5/1867]

Nếu quả thực lời khiển trách là sự đổ lỗi trong trường hợp của lời khuyên này (xem bài suy niệm trước), thì lời khiển trách ấy phải hướng đến chính mình, thậm chí nếu chúng ta không phải là những người thực sự làm bùng phát lên! Tình yêu là thứ duy nhất trong thế gian này không làm tổn hại đến người khác. Vì thế, nếu người ta hành động một cách chân thật và trong sạch bằng tình yêu, thì cách làm của người ta sẽ ít gây đau đớn cho người khác, thậm chí còn sẵn sàng mang gánh nặng nề hơn cho nhau hay chia sẻ cho nhau nữa. Việc xưng tội mà cha Eymard đề cập đến ở đây không có nghĩa là sự trừng phạt vì tội lỗi, nhưng hơn thế đó là sự sẵn sàng bên trong để trả giá cho sự hòa giải và chữa lành. Thay vì trút bỏ điều này lên người khác, một người quảng đại và có lòng yêu thương sẽ chuẩn bị để chịu đựng nó một mình.

Một kết quả tích cực khác của cách làm này đó là có một điều gì đó tương tự xuất hiện trong tương lai, người nào đã xưng tội và cầu nguyện trước đó sẽ ngày càng cảnh giác hơn để ngăn chặn bất cứ sự hiểu lầm nào. Do đó, những mối tương quan sẽ cải thiện mọi thứ, tạo ra một bầu khí thoải mái và dễ chịu cho mọi người sống trong an bình. Bên cạnh đó, nhìn chung người ta chỉ tấn công nhau khi chính họ cảm thấy bị tấn công. Khi họ nhận ra rằng người khác không hủy hoại hay làm tổn thương họ, nhìn chung họ sẽ có khuynh hướng nhìn tình huống ấy dưới một cái nhìn khác, thậm chí có thể nhìn tình huống ấy một cách rõ ràng hơn và sáng tỏ hơn!

Cách làm này sẽ là một áp dụng cụ thể về những gì mà chính Đức Giê-su nói với chúng ta “Vậy, khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy, kẻo đối phương nộp anh cho quan tòa, quan tòa lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật anh, anh sẽ không ra khỏi đó, trước khia trả hết đồng xu cuối cùng.” (Mt 5,23-26). Ở đây, chúng ta lưu ý rằng chính “người anh em” có điều gì đó chống lại chúng ta, thế nhưng chúng ta là những người được mời gọi để khởi xướng giải quyết sự khác biệt về quan điểm, nếu không của lễ của chúng ta sẽ không được Chúa chấp nhận!

Luật sống của chúng ta có một đoạn cảm hứng liên hệ đến tình huống này khi nói: “Cộng đoàn tu được mời gọi liên tục đổi mới qua những thử thách và yếu đuối, dưới ánh sáng của Lời Chúa và trong bầu khí lắng nghe nhau… Ơn tha thứ biến tình cảnh tội lỗi thành… Mỗi người sẽ thường xuyên đến với bí tích hòa giải, và cộng đoàn sẽ thỉnh thoảng cử hành phụng vụ thống hối. Bằng cách này, cộng đoàn sẽ tạo điều kiện cho mỗi người được triển nở trong việc chia sẻ đức tin, tình bạn và cuộc sống.”

 

Ngày 11/9

“Những gì đã xảy ra đều là vì lợi ích của Công Trình. Hiện tại, tất cả những gì chúng ta có thể xem thấy đều là thử thách và thập giá; sau này chúng ta sẽ xem thấy lòng thương xót và ân sủng.” [Gửi cho bà Bê-noa Ri-sạc, 5/1867]

          Tiếp tục với dòng tư tưởng trên, ở đây cha Eymard cố gắng tập trung nhiều hơn vào kết quả khả quan của việc sửa đổi chính mình trước tiên. Tin rằng trong tình yêu, Chúa Cha sẽ không gửi đến cho chúng ta bất cứ thứ gì ngoại trừ điều tốt mà thôi. Cha Eymard xem những khủng hoảng, sự đau đớn mà mọi người đang bận tâm đến như một phúc lành chứ không phải là một rắc rối. Là một con người thực tế, cha đã nhận thức được rằng điều khó khăn nhất trong tâm tưởng của mọi người ở giây phút hiện tại chính là sự đau khổ và sự rối loạn. Thế nhưng, đây không phải là tất cả sự thật, cũng có một khía cạnh khác chưa được tỏ lộ trong lúc này. Chính đức tin cho phép con người nhìn mọi sự như chúng thực sự là và thúc giục người ta làm theo.

Dân Do Thái đã thông thạo thái độ tin tưởng này khi học được nó từ kinh nghiệm Xuất Hành. Trong những biến cố vĩ đại của lịch sử dân tộc, họ nhận ra rằng khi Thiên Chúa quyết định chúc phúc cho người nào đó, không một ai hay bất cứ thứ gì trên trần gian này có thể ngăn cản nổi. Người ta có thể trì hoãn hậu quả của nó, cản trở nó trong một khoảng thời gian, nhưng cuối cùng kế hoạch của Thiên Chúa sẽ được hoàn thành. Vì thế, Pha-ra-ô đã chống lại mệnh lệnh của Thiên Chúa để đưa dân Người đi, ông đã từ chối hết lần này đến lần nọ, nhưng cuối cùng ông phải để họ đi khi con đầu lòng của tất cả các sinh vật đều bị chết yểu dưới bàn tay của Thiên Chúa. Từ lúc đó, dân Do Thái luôn nhớ rằng những thử thách không phải là lời sau cùng trong sứ điệp của Thiên Chúa dành cho họ. Mà là chính tình yêu và sự chăm sóc của Ngài dành cho từng người.

Bên cạnh đó, có một kinh nghiệm Giao ước đằng sau kinh nghiệm Xuất hành, nơi đó họ ngạc nhiên về sự kiện là: dù là một dân tộc nhỏ bé, nhưng Thiên Chúa đã chọn để ký kết Giao ước với họ ngay từ đầu. Ngài là Thiên Chúa của họ, trong khi họ là dân của Ngài! Bước vào tương quan mật thiết với dân Ngài, Thiên Chúa sẽ không bao giờ để họ chịu đau khổ nữa. Ngài sẽ đến giúp đỡ họ, vì Ngài là “goel” của họ, thân bằng máu mủ gánh trách nhiệm giải thoát những người thân đang chịu đau khổ! Đối với Ki-tô hữu, bên cạnh hai điều này, còn có kinh nghiệm về Đức Ki-tô, nơi đó chúng ta thấy rằng “chính Con của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta; lẽ nào, cùng với người Con ấy, Người lại chẳng rộng ban mọi sự cho chúng ta?” (Rm 8,32). Chẳng lẽ Thiên Chúa sẽ không ban ơn nhiều cho chúng ta, sau khi ban cho chúng ta Đức Giê-su, quà tặng lớn nhất của Ngài?! Vì thế, nhìn một cách tích cực kể cả khi tất cả những gì chúng ta có thể thấy đều là tiêu cực không phải là ý nghĩ ngớ ngẩn, nhưng là một kinh nghiệm xác thực về tình yêu và đức tin.

Chúng ta càng đào luyện mình để chú ý đến điểm tích cực trong những tình cảnh ấy, thì điều đó sẽ ngày càng trở nên dễ dàng hơn khi tai họa kế tiếp xảy ra. Dần dần, chúng ta sẽ phát huy được cách nhìn này, nói một cách văn chương thì đó là “ngắm nhìn” dung nhan và tình yêu của Thiên Chúa trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời mình. Như Thánh vịnh 32 đã nói ‘Kẻ trung thành lẫn kẻ bất trung đều gánh chịu những bấp bênh và bất an của cuộc đời này, nhưng con cái Thiên Chúa luôn luôn cậy dựa vào tình yêu của Chúa Cha. Chính vì lý do này mà sẽ có ánh sáng ngay giữa bóng tối, niềm vui không thể hiểu nổi ngay giữa nỗi buồn, và chúng ta có thể tìm kiếm được hạnh phúc và sự thịnh vượng bất chấp những tình cảnh xung quanh chúng ta!’

 

Ngày 12/9

“Cha e rằng chúng ta có thể phải ở lại nơi các tòa án. Đó phải chăng là một hình phạt hay một thử thách? Cha nghĩ là cả hai… Nguyện xin Thiên Chúa được ca ngợi và tôn vinh vì mọi sự.” [Gửi cho cô Maguerite Guillot, 6/1867]

Trích đoạn này không kết thúc, vẫn còn những bài học có thể được rút ra từ đấy. Và cha Eymard vẫn tiếp tục theo đuổi điều đó cho đến cùng. Khi đưa ra câu hỏi xem sự khủng hoảng về vấn đề tài chính có phải là một sự trừng phạt hay một thử thách, cha thừa nhận rằng là cả hai. Có lẽ đó là một sự trừng phạt vì họ đã không đầu tư một cách hiệu quả, hay họ đã biến lòng tốt của người khác thành giá trị bề ngoài, hay có lẽ chính họ đã thất bại trong việc tiếp tục đầu tư vào tài khoản ngân hàng cảm xúc của con người qua việc làm điều tốt mà mình có thể. Có vô số lĩnh vực mà họ có thể làm tốt hơn hay khác lạ hơn.

Nhưng bên cạnh góc độ này, cũng có một góc độ khác cho rằng mọi rắc rối đều là một cơ hội để học hỏi, trưởng thành và khác biệt cũng như mới lạ. Thử thách đẩy chúng ta đến những giới hạn và thường thì chính khía cạnh “làm hoặc chết” này khiến chúng ta trở nên năng động và sáng tạo. Người ta nói: sự cần thiết là mẹ của óc sáng tạo. Thế nhưng, để thu lợi được từ một thảm họa theo cách tích cực này, trước hết, chúng ta cần tin rằng Thiên Chúa chi phối mọi sự và không bao giờ để cho bất cứ thứ gì xảy ra mà không (ít nhất) nhắm đến lợi ích của chúng ta. Ơn phúc bị che khuất ở một nơi nào đó trên đống rác rưởi nặng mùi. Nếu chúng ta kiên nhẫn để lội qua và khám phá nó, chúng ta sẽ giành được. Hơn nữa, khi chúng ta tự ràng buộc mình vào hoạt động tích cực này, chúng ta cũng có thể lôi kéo người khác tham gia vào, đem lại cho họ một cơ hội để học hỏi những bài học quan trọng của cuộc sống. Do đó, chúng ta cũng chuẩn bị cho tương lai, để trong thế giới này sẽ có một vài người, những người sẽ gìn giữ tinh thần phiêu lưu, còn sống giữa chúng ta.

Tuy nhiên, trong mọi tình cảnh, một bài học rất khó nhưng quan trọng cần phải học đó là chúc tụng Thiên Chúa và chúc lành cho người khác bất chấp tình cảnh đó là gì. Chúc lành cho người khác có nghĩa là nhận ra điều tốt đang thực sự hiện diện trong cuộc đời của người đó, dù cho khoảnh khắc ấy không xuất hiện. Điều này đòi hỏi một hệ thống niềm tin mạnh mẽ dựa trên Lời Chúa, cũng như trên kinh nghiệm cá nhân của con người. Thế nhưng, thật là hữu ích để nhớ rằng trong cuộc sống, nhìn chung, chúng ta sẽ bắt gặp những gì chúng ta đang tìm kiếm. Khi chúng ta phó thác chính mình theo “ý định” tích cực của Thiên Chúa dành cho Vũ trụ này, chúng ta bắt đầu khám phá ra những phương thế mà chúng ta sẽ không bao giờ dám mơ ước nằm trong tầm với của chúng ta! Bấy giờ, khi chúng ta bắt đầu tối ưu hóa những phương thế này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta ngày càng có nhiều hơn, những phương thế này tiếp tục tuôn tràn và thậm chí tình cảnh đau khổ nhất cũng sẽ trở thành một ơn phúc.

Dĩ nhiên, tất cả những nhu cầu này cần được cảm nghiệm, cần được tin thực sự và được ấp ủ như một chọn lựa đích thực của cuộc sống. Tuy nhiên, minh chứng vĩ đại nhất mà chúng ta có chính là cái chết của Đức Giê-su trên thập giá. Chính thái độ tin yêu không thay đổi của Người đã thay đổi mọi thứ xung quanh và biến sự xấu hổ cũng như sự ô nhục của Thập giá thành một bước đi vững chắc đến phục sinh vinh hiển. Và Người chia sẻ kinh nghiệm ấy cho những môn đệ yêu dấu của Người hết lần này đến lần nọ.

 

Ngày 13/9

“Chắc chắn chúng ta muốn anh ta sống sau cuộc hoán cải của anh để khai mở tâm trí và tôn vinh Thiên Chúa; nhưng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa thì mạnh hơn sự nghi ngờ hay những công trạng không chắc chắn cần phải đạt được. Tiến về Nước Trời thì tốt hơn là liều mình đánh mất mọi thứ.” [Gửi cho cô Stephanie Gourd, 6/1867]

Không có điều gì lôi cuốn người ta cố gắng và ra sức làm như vậy trong chính cuộc đời mình, giống như một cuộc hoán cải lãng mạn vậy. Bên cạnh đó, điều này cũng cho thấy quyền năng của tình yêu Thiên Chúa đang chiếu rọi trên cuộc đời của “người con hoang đàng” trở về. Đây chính là điều cha Eymard đề cập đến ở trích đoạn ngắn này trong những bài viết của cha. Nếu biết bản chất của con người là gì, thì cũng có khả năng và có lẽ mạo hiểm cho rằng người ta có thể rơi vào tình cảnh trầm trọng hơn, trong đó tất cả mọi thứ sẽ tan biến. Tuy nhiên, nếu khả năng là có thực, chúng ta không được quên rằng Chúa sẽ không dễ gì đánh mất những gia tài quý báu mà Ngài có được sau nhiều cuộc thử thách. Mỗi tội nhân trở về với tình yêu của Chúa Cha không chỉ là một chiến thắng của ân sủng Thiên Chúa, nhưng còn là một điều gì đó làm vui lòng Đấng Cứu Độ và làm cho người ấy cảm thấy tất cả những đau khổ mà anh ta chịu một cách yêu mến và với một niềm hy vọng lớn lao, thực sự đáng giá.

Sự cô quạnh và ruồng bỏ nhục nhã mà Đức Giê-su chịu khi Người bị treo trên Thập giá quả thực lớn và là niềm an ủi duy nhất để Người chứng minh rằng những đau khổ của Người sẽ có ích cho những tội nhân để họ có thể quay trở về vào một ngày nào đó! Vì thế, nếu sự hoán cải đem lại vinh quang lớn lao cho Thiên Chúa, thì sự kiên trì cũng đóng góp nhiều vào vinh quang của Thiên Chúa. Không ai đã thực sự cảm nếm được tình yêu riêng tư của Chúa Cha cũng như của Đức Giê-su dành cho họ mà lại dễ dàng trở về với bóng đêm của tội lỗi. Tuy nhiên, về vấn đề kiên trì, cộng đoàn cũng giữ một vai trò. Phải dùng biện pháp nào để hối nhân quay trở về với Chúa, nếu như cộng đoàn cứ tiếp tục đối xử với người ấy như một kẻ ngoài cuộc, khinh miệt người ấy, từ chối tha thứ và đón nhận người ấy, luôn luôn lập lại những lỗi lầm trong quá khứ của người ấy. Sự chối bỏ này có lẽ sẽ đẩy người ấy trở lại với cuộc đời tội lỗi của mình.

Thánh Luca trình bày quan điểm mạnh mẽ trong câu chuyện nói về người phụ nữ tội lỗi đã đến gặp Đức Giê-su khi Người dùng bữa tối tại nhà của ông Simon thuộc phái Pha-ri-sêu. Bà đã tiến lại để rửa chân Đức Giê-su bằng nước mắt và xức dầu thơm lên chân Người trong khi dùng tóc mà lau! Ông Simon thuộc phái Pha-ri-sêu cũng như những người khác đồng bàn đã nhìn bà với vẻ nghi ngờ khi bà bày tỏ tình yêu và lòng biết ơn đối với Đức Giê-su. Thế nhưng Đức Giê-su đã đứng dậy: Bà ấy có thể là người đàn bà tai tiếng nhất trong thành, nhưng bà đã biết trở về với Người, và Người sẽ không để mất bà một cách dễ dàng. Người đã nâng bà dậy trước mặt những vị khách và phán rằng bà được tha nhiều vì bà đã yêu mến nhiều và đức tin của bà đã đem lại cho bà ơn cứu độ (Lc 7,36-50).

Một tình huống tương tự với tình huống đã được đề cập đến ở đây cho phép chúng ta đánh giá đúng hơn về ân huệ cao quý mà Đức Giê-su đã ban cho chúng ta nhờ sự đau khổ và cái chết của Người trên Thập giá. Mỗi cuộc hoán cải phải bao gồm một sự khám phá cá nhân về Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ và một sự đánh giá về ân huệ lớn lao mà Đức Giê-su ban cho chúng ta khi Người chào đón chúng ta trở về nhà Cha, nơi Người đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14,2)

 

Ngày 14/9

…Con có được mọi sự cho phép liên quan đến lời khấn khó nghèo…Đúng hơn là rất rộng. Về điểm này, con hãy tự xem mình như người chủ nhà bị thôi thúc để làm bất kỳ công việc gì được xem là thích hợp, và trong trường hợp nghi ngờ, hãy nghiêng về sự tự do”. [Gửi cho bà Josephine Gourd, 6/1867]

Ở đây, cha Eymard đưa ra lời khuyên thực tế cho người con linh hướng của cha liên quan đến vấn đề thủ tục. Bắt đầu với một người đã tìm kiếm và nhận được sự cho phép liên quan đến sự khó nghèo cũng như đang ở trong khuôn khổ làm theo ý định của Thiên Chúa. Thế nhưng, sẽ không có gì đáng chú ý đối với một ý nghĩ hẹp hòi hay hà tiện, có thể vì sợ hãi. Toàn bộ mấu chốt của việc giữ những lời khấn trong đời tu trì nằm ở chỗ việc tuân giữ các lời khấn một cách chân thành và hết lòng sẽ dẫn người ta đến chỗ tự do và vui vẻ phụng sự Chúa. Nếu việc tuân giữ các lời khấn khiến người ta càng thêm sợ hãi hay quá cầu kì, thì điều đó chống lại mục đích của những lời khấn. Do vậy, mục tiêu của lời khấn khó nghèo không phải là chúng ta bị ngăn cản trong việc sử dụng của cải vật chất nhưng ở chỗ chúng ta sẽ đủ tự do để sử dụng những gì là cần thiết cho việc loan báo Nước Thiên Chúa mà không cậy dựa hoàn toàn vào mọi sự trên trần gian này. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự Người sẽ thêm cho sau!

Cũng thế, đời sống khiết tịnh không ngăn cấm tu sĩ yêu thương người khác, nhưng hơn thế nó khuyến khích người ta yêu mến mọi người mà không phân biệt ai như Đức Giê-su đã yêu thương họ. Đời sống khiết tịnh làm cho trái tim rộng mở hơn và tự do hơn trong việc chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa với mọi người mà Chúa gửi đến trên hành trình cuộc sống của họ, không tìm kiếm bất kỳ một đặc quyền nào hay một sự đáp trả tình yêu cụ thể nào cho bản thân mình. Đời sống khiết tịnh phát xuất từ một tâm hồn tràn đầy tình yêu chứ không phải từ một tâm hồn đói khát tình yêu. Đời sống này có ý nghĩa cho một con người mạnh mẽ và ổn định về mặt cảm xúc chứ không phải cho có người lòng tự tôn thấp hèn.

Vâng phục là lời khấn chính yếu nhắm đến nguồn gốc của mọi vấn đề của chúng ta, tức là Cái tôi, và mời gọi một sự quảng đại đặt tất cả khả năng của chúng ta vào trong tay Chúa, hoàn toàn để Ngài chi phối bất cứ khi nào Ngài muốn chọn lựa để sử dụng chúng. Tất cả mọi lời khấn đều nhắm đến việc làm cho người ta ngày càng trở nên giống Đức Ki-tô hơn, vui vẻ trong việc phụng sự Chúa và anh em cũng như cảm thấy bình an trong việc hoàn toàn dâng hiến chính mình vào tay Thiên Chúa vì Nước Trời. Nếu như có bất kỳ sự thổi phồng nào được thực hiện, thì nó cần phải được thực hiện theo hướng của tính nhân hậu hơn là của sự nghiêm khắc. Khi một ai đó đã cảm nếm được sự ngọt ngào của Chúa, người ấy sẽ tự xác định được phạm vi của sự nghiêm khắc để thích ứng với nó và tốt hơn hết là hãy bắt đầu với điều đó. Sau này, những điều chỉnh có thể được thực hiện theo sự trưởng thành của người ấy. Vì người ta khác nhau về sự quảng đại mà họ đặt vào công việc được giao phó, cho nên luôn luôn cần phải suy xét xem cái gì là phù hợp với hiện tại, cho phép những thay đổi khi người ta tiến hành. Sau hết, tình yêu không thể bị ép buộc, và nếu như tình yêu bị ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào, nó sẽ đánh mất đi giá trị của mình! Bấy giờ nó sẽ giống như muối đã bị nhạt đi và chỉ còn cách để cho người ta chà đạp lên (Mt 5,13).

Trong những vấn đề này, người ta có thể có một tiêu chuẩn nghiêm khắc hơn dành cho chính mình trong khi lại có những tiêu chuẩn nhẹ nhàng và khoan dung hơn đối với người khác, đặc biệt là đối với những người mới bắt đầu hành trình thiêng liêng của mình. Điều tốt hơn hết trong cuộc chạy đua đường dài này là kêu gọi lòng quảng đại cũng như lương tri của chủ thể hơn là áp đặt một kỷ luật khắt khe lên người khác, để không làm hỏng con người cũng như tạo ra một sự thù ghét đối với những vấn đề tâm linh!

 

Ngày 15/9

Cha sẽ cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mà các chị sẽ nhận được từ Đức Giám Mục… các chị sẽ thuộc thẩm quyền của Giám Mục… Các chị cần Đức Giám Mục hơn là cần cha. Các chị phải đặt mình vào tay ngài; đó là cách làm khôn ngoan và sáng suốt. Hãy xin ngài trở thành Bề Trên của các chị… Đức Giám Mục sẽ hài lòng vì điều đó, vì một người cha luôn luôn yêu thương những đứa con thơ của mình”. [Gửi cho cô Maguerite Guillot, 7/1867]

Lại một lần nữa, chúng ta thấy sự khôn ngoan tinh tế của cha Eymard trong việc tìm cách giải quyết sự bế tắc về vấn đề thẩm quyền. Luôn luôn tìm kiếm những gì là tốt nhất cho người con linh hướng cũng như vấn đề của cô là gì trong suốt một chặng đường dài, cha Eymard đề nghị rằng điều thực tế hơn cả là chính cô cũng như cộng đoàn của cô phải qui phục sự hướng dẫn của Đức Giám mục địa phương. Trong bất kỳ trường hợp nào, dưới cái nhìn của Hội thánh, Đức Giám mục là người chịu trách nhiệm trực tiếp đến tài sản thiêng liêng của tất cả các tu sỹ trong Giáo phận của ngài. Bên cạnh đó, việc đặt tu viện dưới quyền cai quản của Đức Giám mục sẽ khuyến khích ngài quan tâm hơn đến những vấn đề của họ, đặc biệt những khó khăn đang gia tăng vào thời điểm đó.

Khi nhận ra rằng tốt hơn là luôn luôn phải làm việc với một người nào đó bên cạnh mình, cha Eymard khuyên các nữ tu cần chọn lựa điều gì làm hài lòng Đức Giám mục là người đứng đầu Giáo phận. Hơn nữa, chính cha cũng đã gặp phải nhiều vấn đề khác, cha cảm thấy khó khi muốn giải quyết tất cả những nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả. Do đó, chúng ta cũng nhận thấy sự khiêm tốn của cha trong việc chấp nhận những giới hạn của chính mình và chân thành tìm kiếm điều tốt cho Hội dòng của các chị. Thực ra, khi người ta già đi, thì thật là khó để kiểm soát được nhiều dự án. Người ta cần có cái nhìn sáng suốt, tinh thần cũng như cảm xúc mạnh mẽ để ngăn cản cơn cám dỗ muốn đo lường giá trị của mình theo số lượng công việc mà mình giải quyết. Cũng cần phải có sức mạnh nội tâm to lớn để có thể sống với những điều không phải là tốt nhất, nhưng tiếp tục làm việc để hướng đến những điều lớn hơn. Nếu ngay từ đầu, người ta tìm kiếm sự hoàn thiện, thì dự án có thể nổi bật đấy nhưng nói theo thuật ngữ của con người thì cái giá phải trả là rất lớn, một cái giá rất cao phải trả đối với bất kỳ một dự án nào!

Có một điểm khác cũng đáng lưu ý ở đây. Khi xơ Maguerite chịu trách nhiệm về ngành nữ của Dòng Thánh Thể, xơ cũng cần được huấn luyện để tự giải quyết những vấn đề của chính mình hơn là hỏi ý kiến cha Eymard về những chuyện lẻ tẻ, vì cha cũng bị đè nặng bởi nhiều nhiệm vụ. Người ta sẽ phải học hỏi từ chính những sai lầm của mình, lẽ dĩ nhiên, những quyết định được đưa ra sẽ không quá nặng nề và sẽ không ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc đời của người khác.

Khi mọi sự được giải quyết, cha Eymard vẫn duy trì vai trò cộng tác với các chị Nữ Tỳ, thường xuyên thăm viếng hầu hết các cộng đoàn của các chị để nói chuyện và giảng tĩnh tâm ngắn cũng như dài khi cần. Nhưng trong vấn đề quản trị, cha có thể giữ một khoảng cách thích hợp khi luôn luôn ở vị thế phục vụ mỗi khi họ cần. Trong khi chăm lo cho họ, cha hoàn toàn không sở hữu bất cứ điều gì thuộc về họ như đã thấy trong lời khuyên được đưa ra trong đoạn trích ngắn này.


Ngày 16/9

Bất kể điều đó có thể là gì đi nữa, chúng ta luôn phải trình bày mọi sự với Vị linh hướng của chúng ta; đó là luật của Chúa dành cho các tâm hồn.”. [Bà Josephine Gourd, 7/1867]

Một trong những tình huống khó khăn nhất trong bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống chính là tìm được một người có thiện chí để giao phó một nhiệm vụ! Nơi đâu Cái Tôi cai trị, thì người ta chỉ có thể chờ đợi sự lộn xộn và hỗn loạn, đặc biệt là khi bắt đầu một dự án khó khăn chẳng hạn như thiết lập một Hội dòng mới. Nhưng ở đâu có một người khiêm tốn và dễ phục tùng, thì mọi thứ có thể được giải quyết bằng cách chia sẻ quan điểm và cách làm của mình. Tuy nhiên, sự phục tùng đối với một vị linh hướng phải là một đòi hỏi cho bất cứ ai muốn vượt ra khỏi tình thế khó khăn trong hành trình thiêng liêng. Vì một điều, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của chúng ta. Vì thế, trên hành trình thiêng liêng, người ta thường cần đến sự hướng dẫn và chỉ bảo. Thật là dễ hiểu lầm những đòi hỏi của Cái Tôi với tiếng gọi của Thần Khí!

Những bậc thầy tâm linh vĩ đại chẳng hạn như thánh Tê-rê-sa Avila, Gioan Thánh giá, Phan-xi cô đờ Sale và những vị thánh khác đã thực sự vạch ra con đường mà người ta thường bước qua trên cuộc hành trình thiêng liêng để trở về với Cha. Tuy nhiên, cùng với việc nghiên cứu về những tác phẩm của các chuyên gia này, người ta cũng sẽ cần đến kinh nghiệm cá nhân thực tế trong đường thiêng liêng trước khi có thể hướng dẫn người khác. Bên cạnh đó, Thiên Chúa đã ban cho một số người không những kiến thức và sự khôn ngoan, mà còn cảm quan thực tế, để họ trở thành những người hướng dẫn đáng tin cậy cho những ai quan tâm đến sự trưởng thành tâm linh của mình.

Tuy vậy, khi tất cả mọi thứ được nói và làm, trong vấn đề của một người đồng hành thiêng liêng trên hành trình về với Chúa, gánh nặng sẽ luôn luôn đặt lên người được linh hướng. Nếu người ấy không làm theo những chỉ dẫn được đề ra, thì dù cho người hướng dẫn có kinh nghiệm đến mấy đi nữa cũng sẽ không thể đạt được kết quả gì. Trong vấn đề này, chính xác cũng giống như khi đi khám bệnh vậy. Nếu bệnh nhân không theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc, thì cho dù bác sĩ có giỏi mấy đi chăng nữa cũng không thể phục hồi sức khỏe cho người ấy. Nếu bệnh nhân cảm thấy mình biết rõ hơn là bác sĩ, người ấy sẽ không làm những gì người ấy nghĩ là tốt nhất và nếu cách làm này có thể hữu ích đi nữa, thì nó không thể đảm bảo là lúc nào cũng thành công.

Vì thế, những phẩm chất lý tưởng của một người được linh hướng sẽ là: sẵn sàng tùng phục và vâng theo vị hướng dẫn đường thiêng liêng trong mọi lúc, mạnh dạn và hết sức làm theo những đơn thuốc được yêu cầu. Hơn nữa, trong vấn đề tùng phục, cũng cần nhấn mạnh rằng người ta cần phải thật thà và minh bạch trong việc chia sẻ sự thăng tiến về đường thiêng liêng của mình. Nhiều lúc, người được linh hướng bị cám dỗ là muốn xuất hiện trước mặt vị linh hướng với một cái nhìn tốt hơn, vì thế người ấy chỉ làm nổi bật những gì người ấy nghĩ là sẽ tạo ra một ấn tượng đáng kể. Sau hết, vị linh hướng chỉ có thể hướng dẫn dựa trên thông tin mà người được linh hướng trình bày với họ. Nếu những triệu chứng và những dấu hiệu quan trọng bị loại bỏ đi hoặc quá nhấn mạnh thì có thể dẫn đến sự chẩn đoán sai lầm và vì thế cũng đưa đến một đơn thuốc sai lầm!

Việc hướng dẫn đường thiêng liêng sẽ diễn ra một cách tốt nhất khi chính người được linh hướng tìm kiếm một cách tự do và mong muốn tiến bộ thực sự trong đời sống tâm linh. Ở đâu việc linh hướng bị ép buộc, như đã xảy ra trong những chủng viện và các nhà đào tạo thuộc thời đại chúng ta, thì kết quả có thể rất tai hại hoặc gây nguy hiểm nghiêm trọng!

 

Ngày 17/9

Đây là đơn thuốc của cha: Một cái đầu tự do thoát khỏi mọi lo lắng, hoàn toàn theo Ý muốn của Thiên Chúa trong mọi lúc.”. [Gửi bà Josephine Gourd, 8/1867]

Lại một lần nữa, chúng ta thấy cha Eymard hay như thế nào trong việc hướng dẫn những người con linh hướng của mình. Tiếp theo lời khuyên trước, giờ đây cha đề nghị rằng để tiến bộ thực sự, người được linh hướng phải thoát khỏi tất cả những mối bận tâm, đặc biệt với sự tiến bộ. Nếu người ta bận tâm về hàng loạt những tiến bộ cần làm và luôn rà soát xem mình có tiến bộ hay không kể từ lần gặp gỡ sau cùng với vị linh hướng, rõ ràng là không nhiều những tiến bộ sẽ được ghi lại!

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su ví Nước Trời với hạt giống được gieo trong ruộng. Thừa nhận rằng đất được chuẩn bị một cách hiệu quả, được cày xới, tưới tiêu và bón phân, khi hạt giống được gieo, người ta phải làm cho nó phát triển theo đúng nhịp độ của nó và theo sức năng động nội tại của nó. Có hai nguyên tắc hướng dẫn quan trọng cần thiết trong giai đoạn này là: Vâng phục ý định của Thiên Chúa và nỗ lực để loại bỏ Cái Tôi! Lưu ý rằng cả hai điều này đòi hỏi chúng ta để cho người khác dẫn dắt và hướng dẫn mình. Chúng ta phải nhận ra rằng những kết quả không phải do chính chúng ta tạo ra, nhưng xuất phát từ chỗ khác. Nơi nào cái tôi tìm cách thể hiện mình, thì chỉ có thể nhận được những kết quả thảm hại. Nhưng nơi nào người được linh hướng có thể cậy trông vào tình yêu Thiên Chúa để dẫn dắt và hướng dẫn họ cũng như dâng hiến một cách tự nguyện và bằng cả tấm lòng, thì có thể mong chờ sự tiến bộ lớn lao.

Sau hết, Thiên Chúa muốn điều tốt cho chúng ta và sẽ trang bị cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần để thăng tiến. Tình yêu của Ngài sẽ không cho phép Ngài lấy khỏi chúng ta bất cứ điều gì là tốt cho chúng ta, hay cho sự thăng tiến của chúng ta. Thế nhưng, trong mọi sự Ngài làm, Thiên Chúa đã ghi khắc một quy luật hiển nhiên vào những thụ tạo của Ngài, một quy luật cần thiết để được coi trọng và làm theo nếu muốn có những kết quả tốt nhất. Vì thế, trong trường hợp hạt giống, người ta nên nhổ nó 3 hay 4 ngày chỉ vì để làm thỏa mãn tính tò mò của mình muốn biết được đã thăng tiến được bao xa trong giai đoạn đó, cây đó sẽ không sống lâu! Vì thế, mọi lo lắng và băn khoăn, hay thậm chí tính tò mò và lòng hăng hái về sự trưởng thành nên được đặt vào bàn tay của Đấng Sáng Tạo. Vì tất cả những gì chúng ta có thể làm là gieo hạt giống và chăm sóc cho nó bằng ánh nắng, và đại loại như thế. Chính Chúa là Đấng đem lại sự thăng tiến thực sự.

Những nỗ lực của chúng ta là tốt nhất khi hướng đến một sự vâng phục hăng hái ở mỗi giai đoạn, đặc biệt nhiều lúc đường đi quá gồ ghề hay chúng ta không hiểu được những tiến trình do Ông Chủ thực hiện. Đó là lúc tình yêu và niềm cậy trông của chúng ta vào Ngài cần phải nổi bật, để cho Ngài tự do trong mọi sự Ngài biết là cần thiết. Niềm tin của chúng ta vào tình yêu và sự quan tâm của Ngài dành cho chúng ta sẽ làm cho chúng ta muốn dâng điều tốt nhất bằng bất cứ giá nào. Nhiều người khác xung quanh chúng ta có thể đề nghị những cách làm khác, nhưng chúng ta sẽ an toàn nhất khi biết cậy dựa vào Chúa. Chính niềm tin và tình yêu của chúng ta sẽ là những chỉ dẫn tốt nhất cho chúng ta trong thời kỳ đen tối này.

 

Ngày 18/9

Một tâm hồn thuộc trọn về Chúa, tôn thờ, yêu mến và phụng sự Người như Người muốn.” [Gửi bà Josephine Gourd, 8/1867]

Bản chất con người là gì, chúng ta thường thấy rằng mình bị chia cắt ngay trong chính bản thân mình, một phần chúng ta mong ước điều này, trong khi phần kia lại mong ước đi theo hướng khác. Nhiều lúc, chúng ta tin rằng chúng ta được dâng hiến hoàn toàn cho Chúa, nhưng lại buồn bã khám phá ra rằng không phải như vậy. Nhận ra tầm quan trọng của việc này, chính Đức Giê-su đã khuyên các môn đệ sau này rằng: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chế giễu mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây mà chẳng có khả năng hoàn tất!’ Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với người dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi người ấy còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi.” (Lc 14,28-33)

Khi đã làm việc này bằng khả năng tốt nhất của mình, chúng ta có thể tin tưởng trao phó cuộc đời mình vào tay Thiên Chúa và nói với Ngài rằng chúng ta thực sự mong muốn dâng hiến mình hoàn toàn cho Ngài để tôn thờ, yêu mến và phụng sự Ngài như Ngài muốn. Mặc dầu vậy, hết lần này đến lần khác, chúng ta có thể nhận thấy một sự dao động giữa ý muốn của Thiên Chúa với ý muốn của chính chúng ta. Nếu không sợ hãi tình huống này, đơn giản chúng ta có thể lập lại ước muốn thuộc trọn về Chúa của mình và sẵn sàng thực hiện những gì dường như là ý muốn của Ngài bằng khả năng tốt nhất của chúng ta. Thật là đúng khi nói rằng có lẽ cho đến cuối đời, chúng ta sẽ không bao giờ có được sự đảm bảo hoàn toàn rằng chúng ta đang làm theo ý muốn của Chúa, nhưng điều đó không nghiêm trọng lắm. Điều chúng ta cần cẩn trọng chính là bất kỳ sự từ chối có ý thức hay cố ý nào để chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta không ý thức về bất kỳ sự vi phạm cố ý đối với ý định đã được tỏ hiện của Thiên Chúa, thì chúng ta có thể tiếp tục dâng hiến điều tốt nhất của mình.

Nếu chúng ta hoàn toàn xa rời ý định của Ngài, Thiên Chúa, bằng tình yêu lớn lao dành cho chúng ta, sẽ chứng tỏ điều đó một cách rõ ràng, qua Thần Khí đang ngự trong tâm hồn chúng ta hay có thể là qua một người bạn hay một người khôn ngoan, một người nhiều kinh nghiệm hơn tìm kiếm điều tốt của chúng ta, hay qua những bài đọc chúng ta đọc. Ngài sẽ không để chúng ta đi lạc đường, Ngài sẽ săn đuổi chúng ta như Người săn lùng Nước Trời, hay như Vị Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên bị lạc. Ngài sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Ngài thành công trong việc đưa chúng ta quay trở về đàn! Nói tóm lại, mối bận tâm của chúng ta nên là dâng điều tốt nhất của mình trong mọi tình huống được đặt ra, không lo lắng quá nhiều về những chương trình không rõ ràng và còn ẩn giấu. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta sẽ tiếp tục thúc đẩy chúng ta làm với khả năng tốt nhất của mình, và nhắc nhở chúng ta hãy cẩn thận để lắng nghe tiếng gọi thân thương của Ngài cũng như sẵn sàng đi theo Ngài không cần do dự! Chúng ta sẽ làm tốt để giải quyết từng mục một khi nó diễn ra và sẵn sàng cho đi dù có đau đớn, không bao giờ chịu thua sự quảng đại và nhiệt tình! “Làm những gì bạn làm và làm tốt!” sẽ là khẩu hiệu trong mọi tình huống và chúng ta sẽ không đi sai đường!

 

Ngày 19/9

“Một ý chí ngây thơ như trẻ con” [Gửi cho bà Giô sê-phin Gourd, tháng 8/1867]

Chúng ta tiếp tục với danh sách những lời khuyên mà cha Eymard đưa ra cho người con linh hướng của mình. Sau khi xác định rõ những phẩm chất của tâm hồn mà cha muốn nhìn thấy nơi gia tài của bà, cha chuyển qua ý chí, vốn là khả năng quan trọng tiếp theo mà người ta có. Có lẽ nhiều tính từ được dùng để diễn tả về loại ý chí mà một con người nên có, cha Eymard dừng lại ở từ “ngây thơ như trẻ con” có ý nghĩa gần nhất với “ngoan ngoãn”. Đối lập với ngoan ngoãn chính là “bướng bỉnh”, tính từ này khẳng định rằng luôn luôn theo ý của mình. Chắc chắn chúng ta biết nhiều trẻ nhỏ có kiểu ý chí bướng bỉnh này, chúng sẽ nổi sùng nếu điều chúng muốn không được đáp ứng cho chúng và ngay lập tức. Thế nhưng, nói chung trẻ em thì ngoan ngoãn và dễ dàng chinh phục.

Một trong những lý do của sự ngoan ngoãn này là trẻ em không thể tự mình suy nghĩ và quyết định điều gì thực sự là tốt cho chúng. Chúng không biết một cách tường tận để quyết định một cách có suy nghĩ. Mặt khác, chúng cậy dựa hoàn toàn vào những người lớn thậm chí là đi đến chỗ dâng hiến hoàn toàn. Thế nhưng, đối với người nào bước theo Chúa, lý do của sự ngoan ngoãn sẽ không phải là sự hiểu biết thiếu tường tận cho bằng là một tình yêu mãnh liệt đối với Chúa Cha để cậy dựa hoàn toàn vào Ngài trong mọi sự. Mặc dù con người không thể biết đủ, nhưng chắc chắn Thiên Chúa biết; Ngài là Thiên Chúa thông suốt mọi sự, bên cạnh đó, Ngài muốn điều tốt nhất dành cho những đứa con yêu dấu của Ngài trong mọi tình huống. Vì thế, chính niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa cho phép chúng ta trở nên cục đất sét trong tay người thợ gốm.

Bên cạnh đó, niềm tin này sẽ giúp ý chí hoàn toàn quy phục trong việc vâng phục một cách yêu thương, những khả năng khác cũng cứu chữa chúng ta. Khi một người nào đó phân định được tình yêu của Thiên Chúa đang hoạt động ngay trong lần đầu tiên, người ấy không thể bị mê hoặc bởi mưu mẹo của tình yêu nơi mình. Chúa Cha xem xét từng chi tiết và làm mọi thứ theo cách thức vượt xa những ước mơ khờ dại nhất của chúng ta. Không người nào có thể đem lại cho chúng ta theo cách đó, vì thế đây là một lý do khác giải thích vì sao chúng ta muốn hoàn toàn mù lòa để bước theo Thiên Chúa, khi chúng ta cảm nếm được tình yêu của Ngài!

Ký ức cũng cho biết thêm rằng chúng ta thường được nhắc nhở về việc Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta thế nào và Ngài đã đến để giải cứu chúng ta trong quá khứ. Như những lời trong Thánh vịnh 62 nói rằng: “Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài. Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miện lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thỏa thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài… Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó. Giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì…”

Để có được một ý chí như vậy, việc chỉ ao ước một mình ý chí đó sẽ không trang bị gì cho chúng ta; chúng ta sẽ cần phải trau dồi sự ngoan ngoãn bằng việc dùng tất cả những sự trợ giúp mà những khả năng khác mang lại. Tình yêu Thiên Chúa chắc chắn cao hơn những kiểu tình yêu khác, nhưng từ kinh nghiệm, chúng ta biết rằng những ký ức của chúng ta thì rất ngắn ngủi và những yếu tố khác có khuynh hướng làm lung lạc những quyết định của chúng ta một cách dễ dàng. Khi tâm hồn chúng ta đặt Thiên Chúa là trung tâm, thì mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều!


Ngày 20/9

“Mối tương quan với anh em của chúng ta, bị giới hạn bởi hành vi đúng đắn và lòng khoan dung, đơn giản và nhân từ, sự yếu đuối và tử tế với những người đau khổ” [Gửi cho bà Giô-se-phin Gourd, tháng 8/1867]

Sau khi nhìn lại tất cả những khả năng nội tại có thể giúp cho một người nào đó đến gần với Thiên Chúa, bây giờ cha Eymard chuyển sang những yếu tố ngoại tại. Không một chút nghi ngờ, trong một công việc khó khăn như việc đi theo Chúa bằng sự trung tín và tình yêu, một nhóm hỗ trợ là một sự trợ giúp lớn lao. Rõ ràng đó là những thành tố mà nhóm này cần có ở trong đầu, cụ thể là gia tăng tình yêu nồng nàn của mình với Thiên Chúa và ước vọng lớn lao để hết lòng đáp trả lại Ngài. Nếu mỗi người trong nhóm càng yêu mến Thiên Chúa hơn mọi thứ khác, thì sự linh hứng trong nhóm lại càng vĩ đại. Thực tế, nếu họ biết chia sẻ kinh nghiệm của mình một cách thường xuyên và ngay thẳng, thì có lẽ không niềm khích lệ nào tốt hơn là tiếp tục kiên định để hướng đến mục tiêu hoàn toàn bị tiêu hao bởi tình yêu Thiên Chúa.

Bên cạnh nhóm hỗ trợ, cha Eymard đề nghị người con linh hướng phải chú ý đặc biệt đến những mối tương quan với người xung quanh. Những phẩm chất mà cha đưa ra là: những mối tương quan này bị giới hạn bởi hành vi đúng đắn, có nghĩa là chúng không được nhân rộng ra tới bất kỳ ai và mọi người mà chúng ta tình cờ gặp. Người ta cần phải chọn bạn một cách cẩn thận, vì không phải mọi người xung quanh chúng ta đều ảnh hưởng tốt trên cách đối xử của chúng ta, đặc biệt khi chúng ta ước muốn đạt đến một mục tiêu cụ thể! Nếu đúng là ‘những con chim có cùng bộ lông’, thì cũng vậy một quả táo thối đủ ảnh hưởng đến cả một rổ táo! Vả lại, nền tảng của những mối tương quan này là ‘tình yêu’, một ước muốn chân thật để chia sẻ những ơn lành của Thiên Chúa với những người mà Ngài đặt vào vòng ảnh hưởng của chúng ta. Nền tảng này không đơn thuần là một sự liên kết tự nhiên, hay gần gũi, hay liên hệ thường xuyên, nhưng là một ước muốn và nỗ lực chân thật để vượt lên chính mình vì ích lợi của người khác.

Hơn nữa, cha đề nghị rằng mối tương quan này phải đơn giản và không giả bộ hay giả tạo dưới bất kỳ hình thức nào. Những biểu hiện của sự giả bộ này cho thấy trung tâm của sự chú ý chính là bản thân và nếu không được khống chế kịp thời, khuynh hướng này có thể dẫn đến nhiều điểm không thuận lợi. Người ta không thể quên rằng kẻ thù lớn nhất trong đời sống tâm linh chính là Cái Tôi vốn tìm cách biến mình thành trung tâm của vũ trụ. Tình yêu của người Ki-tô hữu luôn luôn là tình yêu quên mình, không diễn tả bằng lời quá nhiều, nhưng chủ yếu là bằng hành động. Người yêu luôn luôn tìm kiếm điều tốt cho người mình yêu và sẵn sàng vì bất cứ sự hy sinh nào đem lại ích lợi cho người khác. Những phẩm chất khác của tình yêu Ki-tô giáo đã được thánh Phao-lô làm cho trở nên bất tử trong chương 13 thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô: ‘Lòng yêu mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không kiêu ngạo, không làm điều khiếm nhã, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nghĩ điều xấu, không vui mừng trước sự bất chính, nhưng vui mừng vì điều chân thật. Lòng yêu mến dung thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1 Cr 13,4-7).

Trong khi thứ tình yêu này được biểu hiện ra cho tất cả mọi người, thì có một sự quan tâm đặc biệt dành cho những ai đau khổ, vì biết rằng họ đang gặp bất lợi. Liên hệ đến sự đau khổ, người yêu cần có thêm phẩm chất cảm thông và thấu cảm, một khả năng chịu đau khổ tuyệt vời và đi vào những nỗi khó nhọc của những người xung quanh. Khi một ai đó bày tỏ thứ tình yêu này, thì rõ ràng người đó cho thấy Thiên Chúa đang ở với chúng ta!

 

Ngày 21/9

“Hãy cầu nguyện như Chúa muốn; nền tảng của cầu nguyện chính là quà tặng bản thân và lời tạ ơn.” [Gửi cho bà Giô-sê-phin Gourd, tháng 8/1867]

Một điều khác mà cha Eymard mạnh mẽ khuyên cũng người con linh hướng đó trong cùng một lá thư đó là việc cầu nguyện, nhưng với điều kiện là cầu nguyện ‘như Thiên Chúa muốn!’ Một người nào đó bị cuốn hút mạnh mẽ về đời sống tâm linh chắc chắn sẽ mong muốn đạt được sự tiến bộ đến mức tối đa trong một thời gian ngắn nhất bao nhiêu có thể.

Thế nhưng, trong những lĩnh vực tâm linh, vấn đề sau cùng đó là ý muốn và sự hài lòng của Thiên Chúa. Nếu Ngài làm cho việc cầu nguyện của chúng ta trở nên khô khan và tiếp tục giữ chúng ta ở lại trong sự khô khan này một thời gian dài, chúng ta sẽ than phiền với ai? Ngài biết chính xác lý do Ngài gửi sự khó khăn này đến cho chúng ta cũng như những ích lợi cụ thể sẽ đổ dồn về chúng ta.

Bấy giờ, thái độ hoàn toàn phó thác vào tay Thiên Chúa cần được lan rộng đến mọi khía cạnh hay lĩnh vực trong đời sống chúng ta, chỉ khi đó chúng ta mới có thể nói rằng chúng ta đang đến gần tâm hồn thánh thiện của Ngài! Điều gì mà Thiên Chúa không thể làm với một người quảng đại phó thác vào tay Ngài? Một người như thế sẽ gần giống với những thái độ của Đức Maria và cũng như Mẹ, người ấy sẽ đóng góp một cách to lớn để loan báo Nước Thiên Chúa. Cũng như và cùng với Đức Maria, người ấy có thể ngợi khen Thiên Chúa “Linh hồn tán dương Đức Chúa, và thần trí tôi hoan hỷ vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Bởi Người đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn. Này từ đây, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc, bởi Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, và danh Người thật là thánh! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Người đã giơ tay biểu dương sức mạnh, phân tán phường lòng trí kiêu căng. Người đã hạ bệ những ai quyền thế, và nâng cao những kẻ khiêm nhườn. Ai đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, kẻ giàu có, Người đuổi về tay trắng. Chúa đã độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, vì nhớ lại lòng thương xót, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, dành cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông đến muôn đời.” (Lc 1,46-55).

Thái độ của Đức Maria chính là một bài ca tạ ơn ‘vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả!’ Lời tạ ơn chân thật của người nhận gây cảm tình cho người cho hơn là chính món quà, vì người ấy hiểu rằng quà tặng chẳng là gì khác ngoài một sự diễn tả hay lan tỏa của sự cho đi chính mình. Quà tặng sẽ chỉ trở nên công cụ nối kết người cho và người nhận, không chỉ tạm thời nhưng trong hữu thể của quà tặng ấy. Vì thế, khi quà tặng là chính bản thân mình, thì nó thường được gọi là Quà Tặng Bản Thân, người ta có thể tưởng tượng ra sự liên kết ấy gần gũi và thân mật thế nào. Đó là lý do vì sao lời tạ ơn chân thật không thể chỉ dừng lại ở lời nói, nhưng phải đi đến mức độ của hành động, của việc sống. Cũng vì lý do này mà điều đó không thể đơn thuần chỉ là một cử chỉ bị lãng quên nhanh chóng, nhưng đóng vai trò kết nối mối tương quan và xa hơn nữa đó là một sự biến đổi liên tục của những ân huệ.

Đức Maria đã nhận ra điều này khi Mẹ nói thêm rằng ‘từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc!’ Qua mọi thời, Đức Maria chính là người đẹp lòng Thiên Chúa và không ai có thể thay thế Mẹ. Như là người con gái của Chúa Cha; Mẹ Thiên Chúa và Hiền thê của Chúa Thánh Thần, Mẹ trở nên nữ hoàng tối cao!

 

Ngày 22/9

“Hiệp lễ, bánh đem lại sức mạnh và sự sống; - hãy đến để nhận lãnh bánh ấy như một người nghèo, một người yếu đuối, một người có lòng biết ơn và dễ thương.” [Gửi cho bà Josephine Gourd, 8/1867]

Lại thêm một lời khuyên nhủ nữa dành cho người con linh hướng! Dường như điều xuất hiện trong thứ tự của những lời khuyên này đó là cha Eymard càng ngày càng tiến gần đến mục tiêu kết hiệp hoàn toàn với Chúa Cha, vốn là mục tiêu được yêu thích nhất. Điều có sẵn trong việc hiệp lễ này thể hiện qua biểu tượng của Thánh Thể “cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy (chính Thầy) sẽ bị nộp vì anh em”. Được liên kết dưới bức màn của tấm bánh đã được bẻ ra và Chén rượu đã được sẻ chia, con người hướng đến sự tiêu hao cuối cùng của sự gần gũi này qua việc chiếm lấy bàn tiệc cánh chung Nước Trời. Ở đây, chúng ta sẽ không còn thấy như trong một tấm gương, những nhân vật và hình ảnh lờ mờ, nhưng chúng ta sẽ ‘diện đối diện’ với thực tại là chính sự hiện diện của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, cha Eymard rất cẩn thận khi nhấn mạnh đến phẩm chất chính yếu cần thiết để gìn giữ một ân huệ cao quý, một sự nhìn nhận khiêm tốn về sự hư không của chúng ta. Lại dùng lời diễn tả của Đức Maria ‘Người đã đoái đến phận nữ tỳ hèn mọn…’ Mối nguy hiểm đối với chúng ta, những con người hay phạm tội, đó là chẳng bao lâu khi Chúa nhân lành lôi kéo chúng ta về với Ngài, thì chính chúng ta lại tưởng tượng như mình đã đạt được một điều gì đó vĩ đại lắm, và bằng chính những nỗ lực của mình, ít nhất là bằng việc trung thành cộng tác của mình. Tuy nhiên, sự thật vẫn là bất kể điều gì chúng ta có thể lãnh nhận, thì luôn luôn là ân huệ tuyệt đối và không đòi hỏi công trạng!

Khi người thụ nhận dường như quên đi chân lý quan trọng này, Chúa sẽ phải nhắc nhở họ qua việc gửi đến một chướng ngại. Nếu người ấy không cảnh giác và cẩn trọng, một sự sa ngã xảy đến buộc người ấy phải quỳ gối để hoàn toàn trở về với Chúa. Với lòng nhân từ, Chúa sẽ thường xuyên cảnh báo người ấy theo cách này, điều đáng buồn là nhiều thời giờ quý báu bị trôi đi khi phải trở đi trở lại. Thế nhưng, khi người thụ nhận để ý đến việc thăng tiến cũng như nỗ lực để tìm lại thời giờ đã mất, Chúa sẽ đền bù và tuôn đổ những ân huệ cao quý hơn để bù đắp những gì đã mất, bằng chính lòng nhân hậu và tình yêu của Ngài! Khi con chiên đi lạc được tìm thấy, thì nó được vác lên vai và đem trở về nhà. Ít ra là con chiên đi lạc và được tìm thấy này có được sự quan tâm đặc biệt trong một khoảng thời gian, tất cả những điều đó có vai trò thắt chặt và bện chặt người ấy vào tình yêu của Chúa Cha!

Người ta càng học được từ những lỗi lầm và thất bại này, người ta càng đến gần với Chúa hơn. Chính sự thân thiện và chân thành của con người trong tương quan này sẽ được kể đến trong chặng đường dài. Chúng ta nhận ra điều này trong cách đối xử của Đức Giê-su với Phê-rô “còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự tòa xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. [Rồi Chúa nói:] “Simon, Simon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22,28-32)

Khi sống trên thế gian này, tất cả những gì chúng ta cần làm là cử hành Thánh Thể với một sự quan tâm và tình yêu lớn lao. Mọi sự sẽ diễn ra từng bước, phát xuất từ tình yêu khôn tả của Thiên Chúa dành cho chúng ta, những đứa con yêu dấu của Ngài!

 

Ngày 23/9

“Hãy duyệt xét lại những bổn phận của con.” [Gửi cho bà Josephine Gourd, 8/1867]

Đây là lời khuyên cuối cùng trong số những lời khuyên mà cha Eymard gửi cho người con linh hướng cụ thể này. Cuối cùng, lời khuyên này cho rằng từ thời điểm này tới thời điểm khác, việc đánh giá không chỉ được thực hiện bởi những lời đáp trả của người ta, nhưng chính yếu là bởi tất cả những ơn phúc cũng như những ân sủng mà người ấy đã nhận được. Nếu sự chú ý được dành cho tiến trình này, thì chính là để chúng ta có thể ngợi khen và cảm tạ Chúa chứ không phải là tôn vinh những gì chúng ta đã đạt được! Cách làm sau sẽ làm cho chúng ta lùi lại và không giúp ích gì nhiều. Mặc dù không đề cập đến điều này một cách rõ ràng, nhưng chúng ta có thể đoan chắc rằng cha Eymard muốn những người con linh hướng của mình duyệt xét lại việc họ đã đặt bao nhiêu tình yêu vào tất cả những hành động của họ, cụ thể là trong suốt thời gian cầu nguyện.

Tình yêu là một yếu tố mà chúng ta không thể bỏ qua. Khía cạnh đầu tiên mà chúng ta xem xét chính là chúng ta có mở lòng ra và đón nhận tất cả tình yêu mà Chúa Cha đã tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta nhờ Thần Khí của Người? Tình yêu ấy đến với chúng ta bằng nhiều con đường khác nhau, không phải tất cả những con đường ấy đều là những con đường dễ chịu. Đó chính là nơi mà chúng ta phải đào luyện chính mình để giành được tình yêu giữa tất cả những nỗi đau khổ khác. Và đây là điều mà chúng ta cần để ý mỗi ngày, nếu không chúng ta sẽ đánh mất kỹ năng tập trung vào những điều thiết yếu.

Một khía cạnh khác của tình yêu cần được xem xét đó là: chúng ta đã quảng đại đủ trong việc chia sẻ tình yêu ấy với tất cả những ai đã đi ngang qua cuộc đời chúng ta chưa? Nếu nói nghiêm túc thì đó phải là những người đã làm tổn thương chúng ta một cách nào đó, hoặc những người mà cách sống của họ dường như khiến chúng ta đau khổ! Nếu chúng ta đã hăng hái và thành công trong việc chia sẻ tình yêu với những con người này, thì đó là điều chúng ta cần phải tạ ơn. Thánh Phao-lô đã quả quyết khi ngài nói với tín hữu ở Rô-ma “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa; vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy hiệp lòng hiệp ý với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn, đừng lấy ác báo ác, hãy quan tâm làm điều thiện trước mặt mọi người. Anh em hãy làm tất cả những gì có thể, để sống hòa thuận với mọi người. Anh em yêu quý, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Trái lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rm 12,14-21)

Thỉnh thoảng, chúng ta cũng lấy bài ca đức mến của thánh Phao-lô và xem xét xem mình đã thực sự để ý đến những khía cạnh khác nhau trong cách đối xử với người khác “Lòng yêu mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không kiêu ngạo, không làm điều khiếm nhã, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nghĩ điều xấu, không vui mừng trước sự bất chính, nhưng vui mừng vì điều chân thật. Lòng yêu mến dung thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1 Cr 13,4-7). Khi chúng ta trổi vượt trong việc yêu thương tha nhân và thậm chí là yêu thương cả “những kẻ thù” của mình, thì khi đó chúng ta có thể đoan chắc rằng chúng ta đang thăng tiến trên con đường của Chúa!

 
Ngày 24/9

“Thật là một tình trạng cô độc đối với những linh mục tốt bụng khi nhìn thấy những người anh em của mình bị sa ngã trong đời linh mục, và sa lầy ở đó mà không ai chữa trị những vết thương của họ. Chúng ta phải thừa nhận rằng đó chính là lỗi lầm của những linh mục ấy. Thế nhưng thực ra, vì một người nào đó là linh mục thì chẳng lẽ lại không dành cho ngài đức ái, lòng thương xót sao? ” [Gửi cho cha Arthur Dhe, tháng 11/1866]

Như một kết quả của cuộc Cách mạng Pháp và trong hậu quả ấy, một bộ phận trong Giáo hội phải chịu cú sốc mạnh nhất, đó là các linh mục. Không chỉ nhiều vị đã từ bỏ đời linh mục, nhưng ngay cả những người còn ở lại cũng thật sự vỡ mộng và tỏ ra lãnh đạm. Quả thực, nhiều vị đã cố gắng trung thành với những lời cam kết trong đời linh mục của mình. Thế nhưng, nhìn chung bầu khí đã chịu ảnh hưởng của phong trào Jansenit vốn loại bỏ lòng nhiệt thành đối với đời sống Ki-tô hữu. Để chống lại nền tảng ấy, cha Eymard đã xót xa cho tình cảnh bi đát của những linh mục đã sa ngã. Các ngài nhận được quá ít sự cảm thông từ phía các tín hữu mà các ngài đã phục vụ trước đó, và lại càng không nhận được sự cảm thông từ phía những người có trách nhiệm trong Giáo hội.

Được thôi thúc từ lòng trắc ẩn của Đức Ki-tô dành cho những anh em linh mục, cha Eymard ra sức làm một điều gì đó để nâng đỡ và cải thiện đời sống của các ngài. Cha đã tìm được một người bạn đồng minh là cha Arthur Dhe, người cũng có những giấc mơ là phục vụ những linh mục sa ngã. Khi thừa nhận rằng tình trạng của các linh mục sa ngã vượt quá khả năng của mình, cha Dhe không tìm cách che giấu sự xấu hổ, nhưng cha tự hỏi xem mình có thể làm gì để giúp đỡ những linh mục ấy, ngay cả khi tìm được ít hy vọng nơi những nỗ lực của các linh mục này. Sau hết, những linh mục này đã trải qua chương trình đào tạo tại chủng viện mặc dù thời đó còn quá sơ sài và nông cạn so với thời nay. Chắc chắn phải có một tình yêu nào đó dành cho Thiên Chúa và vương quốc của Ngài khi các linh mục này trải qua chương trình đào tạo cũng như những năm đầu của đời linh mục. Vậy chẳng lẽ điều này không thể được thắp lại một cách nào đó sao?

Cha Eymard đã đặt câu hỏi: “Nếu Đức Giê-su, vị Mục Tử Nhân lành, đã hiện diện ở đây, thì Người sẽ làm gì? Người sẽ giải quyết tình trạng sợ hãi này như thế nào?” Dựa vào thái độ của chính Đức Giê-su được biểu lộ trong Tin Mừng, cha Eymard nhận ra rằng một cách làm tích cực hơn sẽ mang lại hiệu quả hơn là từ chối hay bỏ rơi. Đức Ki-tô sẽ xót thương tất cả các linh mục đã sa ngã. Bản thân từng là một linh mục triều trong vòng 5 năm, cha Eymard hiểu rất rõ về những trở ngại trong trường hợp của các linh mục này: sự cô lập, nỗi cô đơn, thiếu hỗ trợ và khích lệ để đào sâu đời sống tâm linh, bị chối bỏ hay thiếu sự cộng tác từ đoàn chiên của mình và nhiều chuyện khác đại loại như thế. Trong tình cảnh ấy, thật là dễ dàng để từ bỏ và đi trên con đường dẫn đến địa ngục. Cha Eymard đã dự định trong đầu của mình rất nhiều khả năng và mặc dù không có khả năng nào được thực hiện, thế nhưng tâm hồn cha được đặt đúng chỗ và cha đã chỉ ra cho chúng ta con đường để ngày càng sáng tạo và năng động hơn trong vấn đề này vào thời đại ngày nay!

Ngày nay, nhiều tỉnh dòng Thánh Thể đã có những hoạt động nhằm giúp đỡ các linh mục đang có nhu cầu. Nhìn chung, bất kỳ linh mục nào đang gặp vấn đề sẽ luôn luôn được đón tiếp tại bất kỳ cộng đoàn Thánh Thể nào của chúng ta. Thế nhưng, điều quan trọng đó là: phải nuôi dưỡng ý tưởng mà cha Eymard đã đề ra và tìm cách làm một điều gì đó cụ thể cho các linh mục. Năm 2009-2010 được xem là Năm dành cho các Linh mục. Trong suốt những năm này, nhiều hoạt động được thực hiện nhằm hỗ trợ cho việc thăng tiến đời sống tâm linh cũng như sự thánh thiện của các linh mục trên toàn thế giới. Chắc chắn, Dòng Thánh Thể cũng sẽ có những đóng góp đáng kể trong vấn đề này không chỉ trong năm nay, nhưng sẽ còn tiếp tục mãi theo tinh thần của Đấng Sáng Lập_ người đã có một tình yêu đặc biệt dành cho tất cả các linh mục.

 

Ngày 25/9

“Người ta nói rằng những linh mục sa ngã này sẽ không tìm được sự giúp đỡ, cũng như không hoán cải thực sự. Ôi chao! Không phải vì các ngài đã bị từ chối và bị khinh miệt như những tên trộm cướp và những tên sát nhân…Ai không có lòng thương xót đối với anh em của mình, chẳng phải người ấy cũng xứng đáng để bị đối xử như vậy hay sao?” [Gửi cho cha Arthur Dhe, tháng 11/1866]

Thật là khó để nói rằng một người nào đó đã hoán cải thực sự. Chúng ta cũng cần nhớ rằng khi đến giờ (kairos) của mình, Thiên Chúa đụng chạm đến tâm lòng của con người để mời gọi họ quay trở về nhà Cha là nơi có nhiều chỗ ở. Dường như yếu tố căn bản che lấp con đường về nhà chính là Cái Tôi của chúng ta. Cái Tôi ấy thể hiện dưới nhiều dạng thức: kiêu căng, oán giận, ngăn cản bất kỳ sự giúp đỡ nào và những chuyện đại loại như thế. Tuy nhiên, dù cho một linh mục ‘nổi loạn’ (hoặc đối với bất kỳ một người nào), chúng ta nhận ra rằng hầu hết những điều tiêu cực này phát xuất từ những cảm xúc bị tổn thương. Không lãng phí thời gian để phân tích chính xác ai là người xấu hổ trong tình cảnh này, chúng ta nhớ rằng những tổn thương về tâm lý chỉ có thể được xoa dịu bằng phương pháp tâm lý để phục hồi lại. Những cuộc tranh luận và những phân tích mang tính suy lý sẽ không giúp ích gì nhiều trong những tình cảnh này.

Kế đến, điều quan trọng là phải phát triển và cổ võ thái độ mà Đức Giê-su đã dành cho tất cả các tội nhân. Đức Giê-su xem họ là ‘những con chiên lạc’ cần được giúp đỡ thay vì bị la rầy hay bị cô lập. Thật đáng buồn làm sao khi nhận thấy rằng nhiều lần trong những tình cảnh này, Giáo luật và những quy định khác vẫn được viện dẫn để giải quyết tình huống. Dù biết rằng vấn đề về vụ bê bối công khai vẫn còn in trong tâm trí, song điều mà các môn đệ của Đức Giê-su cần bênh vực đó là lòng trắc ẩn và sự tha thứ của Người. Đôi lần, chính sự nỗ lực và ý hướng ngay lành muốn dành thời giờ cho vị linh mục sa ngã để lắng nghe câu chuyện hoán cải của ngài đã tạo nên sự khác biệt. Việc thực hành của thánh Augustinô dường như được gợi hứng trong những tình huống này. Khi thánh Augustinô nhìn thấy một ‘tội nhân phạm tội một cách công khai’ đang đi xuống đường, ngài tự nhủ rằng ‘Hãy đi Augustinô vì ở đó có ân sủng của Thiên Chúa!’. Qua lời khẳng định này, Augustinô hiểu rằng những mầm mống của cách cư xử tội lỗi ấy cũng đang hiện diện trong mỗi con người. Nếu nhiều người trong chúng ta không chấm dứt con đường lầm lạc ấy, chính vì tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa vẫn hằng gìn giữ chúng ta một cách an toàn.

Ít ra là việc cảm tạ ơn quan phòng mà Chúa đã ban sẽ thúc bách chúng ta đến với những anh chị em đang cần được giúp đỡ. Điều cần thiết trong những trường hợp này đó là: chúng ta ý thức mình cũng là những tội nhân và vì thế chúng ta đến với những linh mục đang cần giúp đỡ này như thể họ là những người anh em và bạn đồng nghiệp của chúng ta, chứ không phải là những vị bề trên, hay những vị đại thánh ban phát của bố thí. Đó sẽ là tính kiêu ngạo của chúng ta. Nhưng khi chúng ta có thể đem đến cho họ sự thân thiện và lòng tốt chân thành, thì mọi thứ sẽ bắt đầu xảy ra. Toàn bộ tiến trình hoán cải sẽ diễn ra trong bao lâu, đó chỉ là sự phỏng đoán của mỗi người. Thế nhưng, khi chúng ta kiên trì trong những nỗ lực của mình, chính Chúa sẽ thực hiện phần của Ngài “Tôi bảo các ông: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải” (Lc 15,7). Tất cả những gì Chúa nói với chúng ta đó là chúng ta hãy để cho Chúa mượn đôi tay và đôi chân của chúng ta, nói đúng hơn là toàn thể con người của chúng ta để Ngài có thể làm việc qua chúng ta và mời gọi những con người đang cần giúp đỡ ấy theo cách mà không ai có thể bắt chước Ngài được. Càng từ bỏ bản thân mình đi, sự cộng tác của chúng ta với Chúa sẽ ngày càng tốt đẹp hơn qua một nỗ lực tuyệt vời!

 

Ngày 26/9

“A! nếu chỉ có một vài người được ơn trở lại và được phục hồi chức vụ, thì đó sẽ chẳng phải là một chiến thắng lớn trên Sa-tan, và một luồng ân sủng chiếu tỏa trên trời và dưới đất sao?... Chắc chắn Chúa chúng ta sẽ khoan dung đối với các linh mục của Người hơn là đối với các tín hữu.” (Gửi cho cha Arthur Dhe, tháng 11/1866)

Là một con người thực tế, cha Eymard đoan chắc rằng không phải chỉ mình cha hay thậm chí là nhóm các linh mục mà cha muốn quy tụ, có thể giải cứu và phục hồi nhân phẩm cho tất cả các linh mục sa ngã trên toàn thế giới, mà lại bỏ mặc Pa-ris. Thế nhưng, cha sẽ cảm thấy hạnh phúc khi chứng kiến ít nhất một vài người trong số họ được ơn trở lại và còn gì hơn khi một sự nhận thức và một lối nhìn mới dành cho họ được nảy sinh giữa Hội Thánh, các phẩm trật và cả các giáo dân. Mục tiêu đó sẽ có giá trị hơn là con số cụ thể các linh mục được giải cứu. Còn gì hơn, nếu hội của cha có thể được hình thành và là một hội lâu dài chuyên chăm lo đến những nhu cầu của các linh mục sa ngã, đó sẽ là một ân huệ cao quý đối với Hội Thánh qua mọi thời.

Như một vấn đề của thực tế, cha nhận ra một hội như vậy đang hoạt động ở Rô-ma và thậm chí cha khuyến khích cha Dhe thăm viếng họ, học hỏi cách làm của họ cũng như cách họ quản trị mọi thứ như thế nào. Vấn đề này đang là vấn đề nổi cộm và thịnh hành ở tất cả các thành phố lớn trên thế giới, và việc tìm được những linh mục nhiệt thành cũng như muốn trở nên giống Đức Ki-tô để gánh vác công việc này quả thực sẽ là một phép lạ! Rõ ràng là, đối với các linh mục đang ra sức làm việc để phục hồi nhân phẩm cho các linh mục khác thì chính bản thân họ phải có đời sống gương mẫu; họ sẽ cần đến gần với thánh tâm của Đức Ki-tô, và phải là những con người cầu nguyện thâm sâu cũng như hy sinh hết mình. Khi nhìn điều này dưới khía cạnh của một trận chiến chống lại Sa-tan cũng như thủ đoạn của nó để gài bẫy các linh mục, là những người dẫn dắt dân Chúa, cha Eymard sẽ có lý do để vui sướng nếu chỉ một vài vị trong số các linh mục kém may mắn này có thể được giải cứu.

Bên cạnh đó, chắc chắn cha sẽ đồng ý với câu nói ‘nhìn thấy là sẽ tin!’ Nếu chỉ có một vài linh mục được phục hồi lại cho Hội Thánh, nhiều vị khác sẽ được lôi kéo để đi theo gương của họ, cũng như nhiều vị sẽ được khuyến khích để không nhìn vào gương của những người khác xung quanh mình đã giũ bỏ và từ bỏ ơn gọi linh mục. Lời khẳng định sau cùng nói rằng Đức Giê-su sẽ khoan dung đối với các linh mục hơn là đối với các tín hữu có thể hoàn toàn không đúng lắm. Đức Giê-su sẽ quan tâm nhiều đến họ hơn thì chắc chắn được chấp nhận, nhưng lòng khoan dung của Thiên Chúa thì ngang nhau và được lan rộng đến tất cả mọi người với cùng một sự quảng đại. Nhưng theo một nghĩa nào đó, sẽ khó khăn hơn đối với các linh mục muốn chọn lựa để trở về vì họ sẽ ý thức hơn về những gì họ đã bỏ lại sau lưng. Hơn nữa, khi trở về, họ sẽ lại phải điều hành những giáo dân mà họ đã từ bỏ, và họ sẽ phải làm chủ trước những khó khăn tương tự để tiếp tục trung thành với Chúa.

Tất cả những điều này sẽ đưa đến một nhiệm vụ khó khăn khi muốn đem các linh mục trở về một cách hiệu quả. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa không có gì là không thể và ở đâu có những cộng tác viên sẵn lòng và đầy nhiệt huyết, thì có thể mong đợi nhiều thứ. Thật không may, giấc mơ của cha Eymard không bao giờ được hiện thực hóa, mặc dù cá nhân cha đã làm những điều tốt nhất cho các linh mục mà cha biết, tiếp tục giúp đỡ họ về mặt tài chánh, tâm linh cũng như những thứ khác.

 

Ngày 27/9

“Hãy xem những gì đã được thực hiện ở Rô-ma cho các linh mục túng thiếu: một ngôi nhà như mong đợi, sự chăm lo của người cha, một cuộc tĩnh tâm riêng tư dưới nhiều hình thức dành cho họ. Ở đó, họ được phục hồi nhân phẩm một cách nhanh chóng. Đức Thánh Cha cư trú ở đó nhờ vào trái tim nhân ái của một người cha.” (Gửi cho cha Arthur Dhe, tháng 11/1866)

Điều khuyến khích cha Eymard theo đuổi giấc mơ của mình đó là những cảnh tượng mà chính cha đã chứng kiến tại Rô-ma, nơi mà những nỗ lực được thực hiện để phục hồi nhân phẩm cho các linh mục sa ngã. Cũng như bằng một cách hết sức dè dặt và thận trọng để không gây khó khăn cho các nạn nhân, hay gây nguy hiểm cho sứ vụ mai sau của họ! Hơn nữa, khi nhận ra rằng đây là một tiến trình dài, những bước đi trong Chốn Nương Náu này được đặt cách xa nhau, cho phép từng người có đủ không gian và thời gian để làm một cuộc trở về dứt khoát. Còn gì hơn nữa, công việc khó khăn này nhận được phép lành của chính Đức Thánh Cha, là người rất quan tâm đến tất cả những gì được thực hiện cho các linh mục ở đó.

Dĩ nhiên, phương thuốc của cha Eymard là duy nhất: cha sẽ làm việc để các linh mục có thể cảm nếm được tình yêu của Thiên Chúa, cụ thể là tình yêu được tỏ hiện nơi Thánh Thể. Khi các linh mục liên hệ đến nguồn mạch chữa lành của mình, chắc chắn các ngài sẽ tìm đường trở về với Thầy mình. Vấn đề của các linh mục sa ngã không phải là vấn đề riêng của thời kỳ hậu Cách Mạng Pháp. Nó diễn ra trong mọi thời đại. Thậm chí trong thời đại chúng ta, Hội Thánh phải đối mặt với vô số vấn đề tài chánh cũng như những khó khăn khác trong việc cố gắng giải quyết những vụ xì-căng-đan bị lục lại, một vài vụ trong số đó đã xảy ra trong quá khứ. Khi ấy, giải pháp sau cùng cho vấn đề này sẽ là gì?

Có lẽ trong nhiều năm, vấn đề đào tạo và giáo dục các linh mục chỉ nhấn mạnh đến số lượng hơn là chất lượng. Vả lại, phần thưởng cao quý rõ ràng là được đặt trên sự xuất sắc về mặt hàn lâm hơn là trên sự gặp gỡ cá nhân sâu sắc với Chúa Phục Sinh… kết quả chỉ ở phạm vi của ‘những nghề linh mục và nghề tu sỹ.’ Họ bước vào đời linh mục để xem đó như một chuyên môn hay nghề nghiệp và cảm thấy rằng tất cả những gì cần thiết cho các linh mục đó là những người tổ chức và những nhà quản trị giỏi! Tuy nhiên, khi chúng ta nhớ lại lý do vì sao chính Đức Giê-su gọi người ta đến với Người, chúng ta thấy thánh Mác-cô nhắc nhở chúng ta rằng ‘Người lên núi và gọi những kẻ Người muốn, các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ. Người lập Nhóm Mười Hai’ (Mc 3,13-16).

Đức Giê-su đã giữ những kẻ Người chọn ở gần với Người, ở lại trong tình bằng hữu thân thiết của Người, và Người chia sẻ tất cả những ơn phúc của Người cho các ông. Chỉ khi các ông hiểu rõ về Nước Thiên Chúa là gì, Người mới sai các ông ra đi để tiếp tục công trình của Người. Người sai các ông trước hết thực hiện một sứ vụ khó khăn và sau này khi các ông trở về, Người đã chỉnh sửa những quan niệm sai lầm cơ bản của các ông, để rồi cuối cùng khi các ông ra đi sau cái chết và sự phục sinh của Người, các ông sẽ làm mọi sự một cách hợp lý ngay từ lúc ban đầu. Sau hết, Người không hiện diện một cách thể lý với các ông nữa, vì thế các ông sẽ cần phải biết cách tự hành động, theo sự hướng dẫn của Thần Khí, nhưng tiếp tục gần gũi với chính Người.

 

Ngày 28/9

“Người đi vào, người ở lại, người đi ra; và thế gian không biết ai sống ở đó. Đó là vì danh dự là một phần của đức ái, vì đức ái là tình yêu của Thiên Chúa.” [Gửi cho cha Arthur Dhe, 11/1866]

Lời khẳng định này diễn tả sự nặc danh đang diễn ra trong Ngôi Nhà dành cho các linh mục được thiết lập ở Rô-ma. Việc che đậy cái tôi bị tổn thương của các ngài cũng như để cho các ngài có thời gian và không gian thuận lợi để bừng tỉnh là điều rất quan trọng trong tiến trình của các linh mục phục hồi nhân phẩm. Chúng ta không bao giờ có thể quên được rằng bản thân các linh mục sẽ là người đầu tiên lên án những thất bại của mình và xem mình là “vô dụng”. Phá vỡ cái chu kỳ của sự tự lên án mình này và đòi hỏi một hình ảnh lành mạnh về bản thân là nhiệm vụ chính yếu hàng đầu được thực hiện trong ngôi nhà phục hồi nhân phẩm này. Thứ đến, cũng rất quan trọng là phải đem đến cho các ngài sự tự do mà các ngài cần đến. Rõ ràng là các ngài không thể bị đối xử như những học sinh bằng một kỷ luật và thời khóa biểu nghiêm ngặt.

Sau cùng, chỉ khi nào mỗi một linh mục tự nguyện chọn lựa để thay đổi thì ở đó mới có sự tiến bộ kéo dài trong hoàn cảnh của các ngài. Vì thế, các ngài được trao tặng cả sự nặc danh lẫn sự tự do để tự mình quyết định xem các ngài sẽ làm gì và các ngài sẽ tham gia chương trình của nhà nhiều đến mức nào. Sự ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào sẽ chỉ là một sự đảo lộn không mong muốn. Các ngài được tự do để rời khỏi ngôi nhà này và trở lại khi các ngài cảm thấy đủ an toàn và thoải mái. Điều mà các linh mục này sẽ đánh giá cao nhất đó là dù các ngài có lỗi lầm gì đi nữa, nhưng các ngài vẫn được kính trọng và được chấp nhận như những con người có quyền lợi.

Một trong những sai lầm mà những người tìm cách giúp đỡ các linh mục sa ngã này cần phải tránh đó là đứng ở vị thế hay hành động như một bề trên đối với các ngài. Cách làm lý tưởng sẽ là cách làm của thánh Augustino, người đã luôn luôn ý thức về những lỗi lầm trong quá khứ của mình và bù đắp lại quá khứ ấy, ngài đã biết ơn những gì mà Chúa đã làm cho ngài để chào đón ngài trở về. Cha Henri Nouwen có một sự diễn tả mạnh mẽ và hữu ích bao trùm khía cạnh này: ngài gọi các linh mục là “vị thầy thuốc bị tổn thương”. Bao lâu người ta nhớ rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân không xứng đáng với tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa nhưng lại được khoan hồng bởi tình yêu của Ngài, chúng ta sẽ có thể đem đến cho các linh mục sa ngã niềm hy vọng và an ủi. Đây là một trong những điểm thêm vào của cha Eymard khi cha đã sống như một linh mục triều trong 5 năm, vì thế cha biết những khó khăn của các linh mục này ngay từ bên trong. Trong cách tiếp cận hiện tại với các linh mục, cha đã không có thái độ của một bề trên để có thể làm mất lòng trong những tình huống này.

Ở đây cần nhớ lại cách làm của Đức Giê-su khi đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình “Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: ‘ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi.’ Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ lần lượt bỏ đi, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ vẫn ở giữa. Người ngẩng lên và nói: ‘Này người phụ nữ, họ đâu cả rồi? Không ai kết án chị sao?’ Người đàn bà đáp: ‘Thưa Ngài, không có ai cả. Đức Giê-su nói: ‘Tôi cũng vậy, tôi không kết án chị đâu! Chị về đi; từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,7-11)

 

Ngày 29/9

“Hãy đi và tự xét xem công việc tốt lành và thánh thiện này vẫn còn thiếu ở nước Pháp. Chúng ta vẫn đem lương thực đến cho những người nghèo, nhưng chúng ta bỏ rơi họ trong lúc thất vọng hay khi bị mất danh giá. Bấy giờ họ cảm thấy túng quẫn, và bán mình cho sự bất công hay bám vào các Hê-rô-đi-a.” [Gửi cho cha Arthur Dhe, 11/1866]

Ở đây, cha Eymard động viên cha Dhe viếng thăm Rô ma và tìm được ở đó kinh nghiệm, cũng như sự hiểu biết đầu tay về những công việc được thực hiện cho các linh mục sa ngã. Phải thừa nhận Rô-ma đi trước Pháp, nơi mà chẳng ngôi nhà nào được thiết lập cả. Hầu như ở Pháp, các linh mục này được trợ giúp bằng những đồ ăn và thức uống bố thí, nhưng chẳng mấy để ý đến việc trả lại sự nguyên vẹn và thừa tác vụ trước kia cho các ngài. Sau hết, việc bố thí lương thực thì dễ dàng (mặc dù điều này đáng khen) hơn là quan tâm đến lịch sử và những vấn đề của các linh mục kém may mắn này. Dĩ nhiên, một vài người trong số các vị cần sự giúp đỡ chuyên biệt để lại có thể thi hành nhiệm vụ như các linh mục, nhưng trong mọi trường hợp, sẽ cần một khối lượng thời gian và tiền của nếu muốn đưa ra bất kỳ sự giúp đỡ đáng giá nào.

Nếu sự trợ giúp dành cho các linh mục kém may mắn này không vượt ra khỏi chuyện lương thực và nơi ở, thì tình trạng đau khổ của các ngài vẫn tiếp diễn. Điều các ngài nhận thấy đang xảy ra giữa các ngài cũng như ở nước Pháp đó là tình trạng tuyệt vọng của các linh mục đã đẩy các ngài rơi vào cảnh đau khổ, làm cho các ngài ngày càng cố thủ hơn trước kia. Các ngài nhắc nhở chúng ta về trường hợp của “người con hoang đàng” cuối cùng đã bằng lòng để hạ mình đến mức độ sẵn sàng chấp nhận đi chăn heo và ăn những thứ mà chúng ăn, và thậm chí sau đó anh không được ăn những thứ ấy. Nhưng những linh mục trong tình trạng tuyệt vọng này lại thích nói giống như người quản lý bất lương “mình phải làm gì đây? Vì ông chủ cất chức quản lý của mình. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản lý, sẽ có người đón mình về nhà họ!” (Lc 16,3-4). Khi ấy, các ngài sẽ chấp nhận bàn tay trợ giúp đầu tiên mở ra đối với các ngài, không cần biết bàn tay đó là của ai; các ngài muốn giữ được thanh danh và phẩm giá của mình trên tất cả mọi sự khác. Và đó là một thách đố lớn đối với những ai đang tìm cách giúp đỡ các ngài.

Tình huống được đặt ra cho các linh mục có tâm hồn ngay thẳng và những người khác đang tìm cách giúp đỡ đó là sẽ cần phải làm việc đến mức tối đa, sáng tạo bao nhiêu có thể. Điều gì có thể làm, ít ra là dựa trên cơ sở từng bước một, đó là bảo vệ từng linh mục mà họ biết trong khi đưa ra những chuẩn bị cho việc trợ giúp lâu dài dựa trên một nền tảng rộng hơn. Để có hiệu quả, công việc này phải bắt nguồn từ mức độ cao nhất, cả ở cấp độ Giám mục giáo phận hay có thể ở một mức độ cao hơn từ một miền hay quốc gia. Vì lẽ, chi phí tài chính của một việc mạo hiểm như thế sẽ rất cao mà bản thân nó đòi hỏi một sự thiết lập phần lớn dựa trên sự nỗ lực. Bên cạnh đó, sự trợ giúp chuyên biệt sẽ cần đòi hỏi một sự thiết lập như thế để ở gần hay ở trong các thành phố lớn nơi mà những nhà chuyên môn dễ dàng có được.

Hơn nữa, từ nhân viên cho đến hội đồng của nơi ấy ít nhất sẽ phải là những nhân viên có chuyên môn hay nhân viên được trả lương, làm cho nơi ấy trở thành một dự án dữ dội và đòi hỏi. Thế nhưng, chẳng có gì quá vĩ đại đối với tâm hồn trắc ẩn của người Cha luôn đợi chờ những đứa con hoang đàng của mình trở về nhà và mở tiệc ăn mừng sự trở về của chúng.

 

Ngày 30/9

“Cha biết đấy, cách đây hai hoặc ba năm, có gần 900 người sống trên những đường phố ở Paris. Tôi biết vài người trong số những người nghèo này không đòi hỏi gì khác hơn là một nơi tị nạn từ thiện. Họ cảm thấy khiếp sợ vì [tư tưởng của] nhóm Trappist. Đó là vì phương thuốc này luôn luôn quá mạnh đối với sự yếu đuối của họ… và gây ra sự ô nhục thậm chí trong thế giới Ki-tô hữu.” [Gửi cho cha Arthur Dhe, 11/1866]

Những nhân vật được đề cập đến ở đây thực sự đang gây ra một sự mất mát lớn cho Giáo Hội Pháp, và các Ki-tô hữu cảm thấy bị bỏ rơi khi nhận ra nhiều mục tử hay những vị lãnh đạo đang bỏ rơi họ, có lẽ không phải vì ác ý hay ý chí yếu đuối, nhưng đơn giản là vì họ không thể giải quyết những khó khăn của mình một cách hợp lý. Có lẽ ý thức được những khuyết điểm và lựa chọn sai lầm, họ sẽ quay về với Hội thánh mà họ đã từ bỏ và tất cả những gì họ xin chỉ là một lời nói tử tế và cũng có thể là lương thực và chỗ ở. Người ta sẽ cần phải cảm nghiệm được một vài sự mất mát để hiểu được những gì đang diễn ra trong tâm trí của những linh mục này. Trong những điều kiện tốt nhất, tất cả những gì phủ lấp tâm trí của họ sẽ là một sự tuyệt vọng về niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Điều họ cần nhất cũng như hăng hái tìm kiếm nhất chính là một sự cảm thông và đón nhận.

Tuy nhiên, về phần những người còn ở lại trong Giáo hội, có một nỗi sợ ngấm ngầm trong việc cộng tác với những linh mục này hoặc là vì chính họ có thể trở nên hư hỏng và bị lôi kéo theo, hay cũng có thể là vì sự gièm pha. Điều này sẽ xảy ra giữa các giáo dân. Thế nhưng, có lẽ điều cần thiết nhất đó là lòng trắc ẩn và tình yêu của chính Đức Giê-su đối với tất cả các anh chị em của Người, đặc biệt là đối với những ai lầm đường lạc lối. Đối với vị Mục Tử Nhân Lành dám hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên, thì chẳng lẽ mỗi linh mục này lại không dám trả giá sao?

Cha Eymard thừa nhận là đã biết một vài linh mục trong số này, họ có thể là bạn đồng hành của cha trong chủng viện, nơi cha và các ngài đã học tập để trở thành linh mục. Việc biết các ngài sẽ làm cho tình trạng này ngày càng trở nên tang thương hơn, vì người ta không thể tránh khỏi việc phải suy nghĩ xem làm thế nào để một vài vị trong số các linh mục này có thể phục sinh trong lòng Hội thánh, các ngài có kiên vững và may mắn hơn không. Không nghi ngờ gì, một vài vị sẽ gặp những khó khăn trong vấn đề đức tin và giáo lý, trong khi những vị khác có thể dính líu đến những vấn đề luân lý, và những vị khác sẽ vướng vào những nợ nần về tài chính và cảm thấy khó khăn để gỡ bỏ chúng. Nếu nhiều người trong số các vị tụ họp lại trong một nơi nhỏ bé, thì thật là khó cho các vị để che giấu căn tính của mình, hay thậm chí là tìm được một việc làm hay chỗ ở thích hợp.

Xét theo tỉ lệ, ngày nay những con số này cũng không khác gì lắm, thế nhưng tại những thành phố lớn của chúng ta, ít ra là cũng dễ dàng hơn để các linh mục lầm lạc ẩn mình ở giữa đám đông và đôi lúc còn nỗ lực để sinh tồn nếu xa rời Hội thánh. Phải chăng tư tưởng của Thiên Chúa, hay việc cầu nguyện hay việc phục vụ người thân cận sẽ cản trở tâm trí tăm tối của họ khi chính họ rơi vào tình trạng tuyệt vọng này? Hay phải chăng họ sẽ chỉ bận tâm đến những vấn đề và nỗi buồn của mình mà ít có thời gian để suy nghĩ bất cứ điều gì khác? Để đáp lại những tiếng than khóc thầm lặng của họ, điều chắc chắn là những ai trung thành với Hội thánh không thể đứng ở vị thế của người anh cả trong câu chuyện Người con hoang đàng. Sẽ thật là tồi tệ nếu họ nuôi dưỡng một thái độ thờ ơ đối với những anh em kém may mắn của mình; sẽ tệ hại hơn nếu họ thực sự kết án tình cảnh đáng thương của mình.

 Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, SSS

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.