365 Ngày Với Cha Thánh Eymard – Tháng 8

365 NGÀY VỚI CHA THÁNH EYMARD – THÁNG 8

Tháng 08

(Kỷ niệm ngày mất của cha Eymard, năm 1868)

“Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu nhân từ vĩ đại, bằng một tình yêu vô biên và vĩnh hằng. Tình yêu nhân từ này chứa đựng một cách tinh tuyền và duy nhất nơi những gì là tốt và những gì là tốt nhất cho những ai được yêu mến” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

Sự cao cả của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta bắt nguồn từ thực tế là: Ngài đã tạo dựng nên chúng ta. Như thế, khi làm ra mọi vật, Thiên Chúa luôn luôn nhắm đến một mục đích tốt đẹp ẩn đằng sau nó. Ngài tạo dựng mỗi người chúng ta phù hợp với kế hoạch vĩ đại của Ngài, quyết định từng chi tiết trong cuộc đời chúng ta dù trước đó chúng ta được hình thành trong dạ mẹ. Sự chính xác này về phần Thiên Chúa không đơn thuần phát xuất từ sự hoàn thiện vốn là hiện hữu và hành động của Ngài, nhưng quan trọng hơn sự chính xác ấy phát xuất từ nguồn mạch tình yêu vô biên của Ngài. Do đó, thật là đúng khi nói mọi chi tiết trong cuộc đời chúng ta đều là kết quả và sự diễn tả về tình yêu nhân từ vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Hơn nữa, quả thực là đúng khi bất cứ sự gì Thiên Chúa làm ra thì luôn luôn tốt lành, tích cực và đẹp đẽ, nhưng chúng ta không phải là kết quả của một hành vi máy móc của Thiên Chúa. Ngài muốn mỗi và mọi chi tiết, đặt chúng vào đúng chỗ với sự kiên nhẫn và tình yêu vô biên, để không có sự gì có thể đi chệch ra khỏi cuộc đời tôi. Tuy nhiên, tất cả chỉ đúng khi tôi biết toàn tâm toàn ý và hết mình thuận theo kế hoạch đầy yêu thương của Ngài. Chẳng lẽ chúng ta lại cố ý phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa dành cho cuộc đời chúng ta, chúng ta không thể trông chờ mọi thứ để “đem đến điều tốt cho chúng ta”. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, tình yêu và quyền năng vô biên của Thiên Chúa cũng khiến cho Ngài phá cách, để tái tạo lại chúng ta trở thành kiệt tác tuyệt vời của tình yêu Ngài.

Khi một người nào đó nhận ra chân lý cao cả này liên quan đến cuộc đời họ, thì làm thế nào mà người ta lại có thể chìm đắm trong sự cằn nhằn và than phiền rằng mình không nhận được một lối cư xử đẹp? Nhìn chung, người ta rơi vào sự cằn nhằn này khi người ta so sánh mình với người khác vốn là những người dường như là được trao một khối lượng ân phúc vĩ đại hơn. Thế nhưng, một điều hoàn toàn chính xác đó là Thiên Chúa không phân phát những ân huệ của Ngài đồng đều cho tất cả mọi người (nhớ lại dụ ngôn những nén bạc, người thì được 5 nén, người khác 2 nén và người thứ 3 thì chỉ được 1 nén! Mt 25,14-30), nhưng Ngài yêu thương tất cả các thụ tạo của Ngài ngang bằng nhau và ban cho chúng cũng như chăm sóc từng loài với cùng một tình yêu vô biên! Điều chúng ta sẽ biết nếu chúng ta quan sát kỹ hơn đó là chúng ta có thể không có nhiều nén bạc như những người khác, thế nhưng chúng ta có khả năng để làm cho nhiệm vụ được trao phó cho mình sinh hoa trái. Bên cạnh đó, những người khác có nhiều nén bạc hơn chúng ta, nhưng họ lại không thể có được những nén bạc giống như chúng ta có… vì tất cả mọi người đều sống trên trái đất này trong một thời gian đã định sẵn.

Chúng ta có thể hỏi vì sao Thiên Chúa lại chọn lựa sự sắp xếp này. Vì một điều duy nhất, sự sắp xếp này tạo nên sự đa dạng cũng như sự năng động và cho phép nhiều sự chia sẻ và cộng tác. Do đó, nếu tôi cần bạn, thì bạn có thể sẽ cần đến 10 người khác để làm cho cuộc đời bạn thành công; và một vài người trong số họ sẽ được tôi cần đến để hoàn tất cuộc hành trình của đời tôi. Do vậy, chúng ta được kêu mời để xây dựng một gia đình yêu thương, vui vẻ cộng tác với nhau.

 

Ngày 2/8

(Lễ kính thánh Phêrô Giulianô Eymard)

“Những phẩm tính vĩ đại của Thiên Chúa, vốn được sử dụng bởi tình yêu nhân từ của Ngài, trên một linh hồn, trên bạn đó là: sự khôn ngoan của Thiên Chúa chọn lựa điều gì là tốt nhấ t cho tình hu ống hiện thời và tốt đẹp của một linh hồn được yêu mến” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

Không còn gì nghi ngờ khi Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí và khi Ngài chọn lựa hay ấn định mọi sự cho chúng ta, thì sự chọn lựa ấy sẽ là trong những hoàn cảnh ấy. Tuy nhiên, vì đường lối của Thiên Chúa thì khác xa đường lối của chúng ta (Is 55,5-8) nên có nhiều lần chúng ta tưởng tượng rằng điều Thiên Chúa ban tặng chúng ta thì có hại hơn là có lợi. Đó là lúc chúng ta bắt đầu đặt câu hỏi không chỉ về sự khôn ngoan của Thiên Chúa, nhưng còn về tình yêu của Ngài nữa. ‘Làm thế nào mà Thiên Chúa có thể thực hiện điều đó?’ chúng ta than khóc trong sợ hãi! ‘Thiên Chúa ở đâu trong lúc này?’ chúng ta than sầu rên rỉ không ngơi. Nhưng nếu chúng ta có thể kiên nhẫn đôi chút và chờ đợi giờ của Thiên Chúa đến, chúng ta sẽ khám phá ra rằng điều Ngài ban cho chúng ta là điều tốt nhất, còn mọi thứ khác có lẽ sẽ chỉ hủy diệt chúng ta mà thôi!

Dân được tuyển chọn đã phải dùng toàn bộ kinh nghiệm trong sa mạc để nhận ra rằng tất cả mọi gian lao khổ cực họ phải chịu là vì một lý do tốt lành, nó cho phép họ khám phá ra những ưu phẩm của Thiên Chúa, chẳng hạn như: lòng trung tín và tình yêu của Ngài, sự sáng tạo vô biên của Ngài cũng như sự săn sóc của Ngài như một người cha dành cho họ. Ngài để ý đến từng chi tiết trong sự thoải mái của họ và ban cho họ những gì là tốt nhất. Tuy nhiên, điều này không ngăn được dân Ít-ra-en khỏi những lúc lẩm bẩm kêu ca và sau hàng loạt biến cố, họ mới học được bài học trông cậy vào Chúa. Nhiều thế kỷ sau, ngôn sứ Kha-ba-cúc có thể diễn tả niềm tin theo một cách thức kỳ diệu sau: “Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ô-liu, đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn. Bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, ngó vào chuồng, bò bê hết sạch. Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì Ðức Chúa, hỷ hoan vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi. Ðức Chúa là Chúa Thượng, làm cho tôi mạnh sức, cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, và dẫn tôi đi trên đỉnh núi cao vời” (Kb 3,17-19).

Thậm chí vào thời đại chúng ta, sau tất cả những trợ giúp mà Vaticanô II đem đến cho chúng ta, ít người trong chúng ta có thể đạt đến những tầm cao của lòng trông cậy vào Thiên Chúa. Chúng ta có khuynh hướng lãng quên lòng tốt của Chúa dù chứng kiến hàng loạt biến cố mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta, và trong cuộc đời của những người sống xung quanh chúng ta nữa. Nhưng khi chúng ta phát huy được niềm trông cậy vào Thiên Chúa, bấy giờ chúng ta có thể thốt lên như thánh Phaolô “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Ðến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta. Ðúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách: được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,31-39).

 

Ngày 3/8

“Sự khôn ngoan tạo ra những phương tiện của sự thánh hiến, quyền năng của Thiên Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, giữ gìn chúng ta, bảo vệ chúng ta” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

Khôn ngoan là nhân đức cho phép chúng ta phán đoán điều gì là thích hợp nhất để làm hay nói trong một tình huống cụ thể. Một trong những ơn của Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta, đặc biệt ơn đó sẽ là một nguồn trợ giúp quý giá khi chính chúng ta gặp những tình huống khó khăn cả về phía bản thân lẫn liên quan đến người khác hay cộng đoàn. Liên quan đến việc ngày càng trở nên giống Đức Ki-tô của chúng ta, ơn khôn ngoan sẽ giúp chúng ta chọn lựa những phương tiện thích hợp và hiệu quả nhất để chúng ta thăng tiến tối đa mà ít gặp phải nguy hiểm. Vì thế, điều này cảnh giác chúng ta hãy tránh xa những con người và những tình huống vốn đẩy chúng ta vào rắc rối hay ép buộc chúng ta thỏa hiệp ngay cả khi liên quan đến những nguyên tắc Ki-tô giáo của chúng ta.

Qua việc ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, Chúa Giê-su đã bảo đảm cho chúng ta về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ làm chứng về Chúa Giê-su theo cách thích hợp nhất “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ tuân giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác để Đấng ấy ở với anh em mãi mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người ở lại giữa anh em và sẽ ở trong anh em” (Ga 14,15-17).

Điều quan trọng cần nhớ, đó là: Thánh Thần luôn luôn ở lại giữa chúng ta và ban cho chúng ta ơn trợ giúp của Người. Vấn đề đó là phải biết dùng những ân huệ thiêng liêng sẵn có này đúng thời và bằng phương tiện thích hợp. Và điều này đòi hỏi chút nỗ lực, thực hành và kỹ năng về phía chúng ta. Nhìn chung, người ta nói rằng nếu chúng ta thủ đắc được hàng loạt những kỷ luật để biết khi nào và làm thế nào để loại bỏ Cái Tôi của mình, thì bấy giờ chúng ta sẽ không cần phải sợ hãi nữa. Lúc ấy, thật là dễ dàng để chúng ta có thể đáp trả lại những lời nhắc nhở của Chúa Thánh Thần, Đấng ở giữa chúng ta để nâng đỡ chúng ta suốt hành trình sự sống.

Trong những tình huống này, điều quan trọng cần nhắm đến đó là không bao giờ bỏ lỡ dù chỉ là một cơ hội mong manh dành cho chúng ta để trưởng thành về tinh thần. Chúng ta càng tích cực đáp trả, chúng ta càng mau chóng tạo thói quen quy hướng về Chúa; và một cách tiêu cực, điều này cũng đúng: chúng ta càng có khuynh hướng dựa dẫm, thì càng khó để đáp trả một cách đúng đắn trong lần tới. Vì thế, chúng ta có thể hoàn toàn phủ nhận sự trợ giúp quý báu của Thần Khí khi chúng ta cần đến và bấy giờ chính chúng ta chỉ biết xấu hổ vì điều đó. Trong sách Công vụ Tông Đồ, chúng ta bắt gặp nhiều mẫu gương về việc sử dụng những ân huệ của Thần Khí khi các tín hữu thời sơ khai tìm cách làm chứng về Chúa Phục Sinh. Họ biết khi nào phải nói và nói điều gì, làm sao để đương đầu với người Do Thái và quan quyền để lời tuyên bố của họ sinh được hiệu quả tốt và làm cho người nghe biết hoán cải.

Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, chúng ta không thể bỏ qua sự trợ giúp tuyệt diệu mà Chúa ban cho chúng ta và chúng ta cần đào luyện chính mình để sử dụng ân huệ ấy một cách thích hợp. Khi chúng ta mắc sai lầm, chúng ta có thể học được từ những thất bại của mình để không tái phạm nữa, và thăng tiến trên con đường của sự sống vĩnh cửu.

 

Ngày 4/8

“Lòng thương xót luôn luôn dùng trái tim của người mẹ hiền để tha thứ cho chúng ta, nâng chúng ta lên, vì đứa con có hai kẻ thù hay đúng hơn là hai thỉnh cầu đối với lòng thương xót; cha có thể nói rằngsự yếu đuối và sự thiếu kiên định của kẻ thù chính là: sự ngu dại và tính tự phụ của nó” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

Chúng ta đã kết thúc bài suy niệm trước khi khẳng định rằng chúng ta không nên sợ những thất bại của mình vì chúng ta luôn luôn có thể rút ra bài học từ những thất bại ấy. Chúng ta không cần phải sợ Chúa sẽ không tha thứ cho chúng ta hay lôi kéo sự chú ý của mình về việc xem chúng ta có thể tìm được ích lợi gì từ những thất bại ấy như thế nào. Tình yêu của Ngài dành cho chúng ta luôn luôn thúc đẩy Ngài ban cho chúng ta những gì là tốt nhất, cho dù chúng ta có chọn lựa để không đáp trả lại một cân xứng đi chăng nữa.

Khi tạo dựng chúng ta và cùng đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, Ngài biết rõ sự yếu đuối và khả năng phạm tội của chúng ta. Sự thay đổi và thiếu bền lòng của chúng ta luôn luôn đặt ra trước mặt Ngài. Việc biết rằng Ngài đang ở với chúng ta sẽ động viên chúng ta bước đi vững vàng, đặc biệt khi đó là vấn đề làm chứng cho tình yêu và lòng thương xót của Ngài.

Nếu chúng ta biết lúc còn trẻ làm thế nào để chúng ta có thể đi xe đạp, chúng ta sẽ nhớ lại rằng đầu tiên một người lớn, cha mẹ hay bạn bè, sẽ phải chạy theo chúng ta vì chúng ta gặp khó khăn trong việc giữ thăng băng. Nếu chúng ta sắp ngã, họ sẽ bám lấy yên xe và giữ chúng ta lại để chúng ta có thể đi tiếp. Và tiến trình này sẽ tiếp tục cho đến khi chúng ta có thể tự mình giữ thăng bằng trên hai bánh xe. Và khi điều này xảy ra, chúng ta không cần lo lắng về việc giữ thăng bằng của mình nữa, một việc xảy ra quá tự nhiên. Thế nhưng, để điều này xảy ra thì cần phải có một giai đoạn huấn luyện và thực hành bước đầu. Và thời gian của giai đoạn này là khác nhau tùy theo từng người.

Khi nhận ra khuynh hướng té ngã bẩm sinh của mình trên đường đi, trước hết chúng ta cần sự trợ giúp rất nhiều từ Thần Khí của Thiên Chúa. Ngài sẽ quảng đại và trung thành ban cho chúng ta sự trợ giúp này. Khi nhận ra Ngài đang ở bên cạnh chúng ta, đặc biệt trong những lúc quan trọng, chúng ta có thể vững tin tiến lên phía trước trong sự hướng dẫn của Ngài. Khi chúng ta có được kinh nghiệm và kỹ năng này, thì chúng ta có thể thực hiện mà không cần lo lắng quá nhiều về khả năng của mình để thấy rằng mọi thứ sẽ đến một cách tự nhiên. Tuy nhiên, chúng ta không nên cậy dựa quá nhiều vào bản thân mình. Luôn luôn ý thức về sự trống rỗng của mình cũng như quay lưng lại với việc chọn lựa làm ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, sẽ giúp chúng ta cảnh giác và đặt niềm trông cậy vào Chúa.

Lý do của sự cảnh giác này đó là theo bản tính tự nhiên, cơ thể con người luôn hấp thụ những nguyên tắc, chẳng hạn như sự thăng bằng, và điều này đã được lập trình sẵn trong việc trang điểm cho thể lý của chúng ta, có thể nói như vậy. Vì thế, trong trường hợp này, không có lựa chọn tự do, ý thức xảy đến trong mỗi trường hợp như việc cần đến sự thăng bằng này. Nhưng, trong việc bước theo Thần Khí của chúng ta, mỗi lần đều có ít nhất một sự chọn lựa ý thức mà chúng ta cần thực hiện. Nếu những hành động của chúng ta là những hoa trái và những công trạng, thì lúc đó chúng phải phát xuất từ một quyết định tự do mà chúng ta đưa ra. Thế nhưng, những quyết định này không cần và không phải lúc nào cũng chiếm một khối lượng thời gian và năng lượng quá mức mặc dù thử thách của những quyết định này có thể đè nặng những thập giá trên chính chúng ta và người khác! Chúng ta cần phải nhớ rằng những tình huống này có thể vừa tích cực lại vừa sinh ích lợi hay cũng có thể vừa tiêu cực lại vừa nguy hiểm!

 

Ngày 5/8

“Sự quan phòng của Thiên Chúa không chỉ che chở bước đường của chúng ta khỏi những người sẽ thử thách chúng ta trong việc thực hành các nhân đức, nhưng trong sự tốt lành thánh thiện dành cho linh hồn chúng ta; thậm chí sự quan phòng ấy quyết định tình trạng thể lý của chúng ta, bệnh tật hay sức khỏe tốt của chúng ta vì đó là khẩu phần ăn quy định cho một ngày, qua đó mà tôn vinh Thiên Chúa về ngày đó. Đó chính là sứ điệp của ngày sống được đánh dấu nhờ Sự Quan Phòng của Thiên Chúa.” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

Tiếp tục cùng một ý tưởng, cha Eymard đưa ra một lời khuyên khác dành cho người con linh hướng của mình. Trong sách Xuất hành, Thiên Chúa nhắc nhở dân Ngài rằng Ngài ‘đã mang (các ngươi) như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta’ (Xh 19,3-5), điều đó có nghĩa là giống như con chim bằng dạy cho con của nó biết cách bay bằng việc đặt chim con vào tổ được xây trên sườn núi cao, thì chính Thiên Chúa cũng đưa đến cho dân nhiều tình huống khó khăn khi họ băng qua sa mạc để tiến về Đất Hứa. Thế nhưng, chim mẹ dõi theo tiến trình tập bay của chim con và xòe cánh ra đỡ lấy chim con trước khi nó rơi xuống đất và bị tan xác. Bấy giờ nó sẽ lại bay lên và khi lại rơi xuống một khoảng không thì tiến trình này lại được lập đi lập lại. Do đó, chính Thiên Chúa cũng dõi theo dân Ngài. Ngài không bao giờ để cho họ phải chịu bất kỳ một nguy hiểm nào, như đã được nói đến trong sách Đệ Nhị Luật 8,4 ‘Bốn mươi năm qua, áo anh (em) mặc đã không rách, chân anh (em) đã không sưng lên!’

Ngày nay cũng vậy, khi chính Thiên Chúa dạy dỗ chúng ta để làm cho chúng ta trở nên mạnh mẽ và có thể đương đầu với kẻ thù, Ngài đặt chúng ta vào những tình huống khó khăn để ban cho chúng ta kinh nghiệm về việc làm chứng cho tình yêu của Ngài một cách hiệu quả. Ngài biết khả năng của chúng ta là gì, và để chúng ta một mình cho đến khi chúng ta thực sự cần sự giúp đỡ và sự hỗ trợ của Ngài. Và khi cứu chúng ta khỏi hiểm nguy, Ngài sẽ nhanh chóng ban cho chúng ta kinh nghiệm khác,… cho đến khi chúng ta học được nghệ thuật đáp trả lời mời gọi của Ngài một cách tích cực.

Thế nhưng, kinh nghiệm thường tình của chúng ta là khi rắc rối xảy đến trên bước đường của chúng ta, phản ứng tự nhiên đầu tiên của chúng ta là ‘Lạy Thiên Chúa, tại sao điều này lại xảy ra bây giờ?! Tại sao lại là con, và con đã làm gì sai?’ mà không phải là đối diện với rắc rối qua việc tự chỉ trích chính mình một cách tiêu cực và dè dặt, nếu chúng ta có thể đào luyện chính mình để nói rằng ‘Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho con có được cơ hội này để thử luyện đời sống tâm linh của con. Con tin Ngài đang ở bên con, và chúng ta sẽ giành được chiến thắng!’đó chẳng phải là những kết quả mỹ mãn lắm sao?!?

Kế đến, chúng ta cần cậy dựa vào danh Ngài, và với một niềm tin tha thiết. Sau nhiều kinh nghiệm như thế này, chúng ta sẽ không ngạc nhiên về những cách thức kỳ diệu mà Thiên Chúa tác động lên chúng ta, thậm chí là trong những lúc khó khăn nhất. Dần dần, chúng ta sẽ quên đi những nỗi sợ hãi bên trong, dù chúng ta có thất bại nhiều lần. Bên cạnh đó, khi điều này bắt đầu xảy ra, toàn bộ hành trình thiêng liêng sẽ mang đặc điểm của một cuộc phiêu lưu và kết quả của mỗi chiến thắng sẽ là chúng ta có thể tự đáp trả lại bằng lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa, vì chúng ta nhận ra rằng không phải do sức mạnh hay tài năng mà chúng ta giành được chiến thắng, nhưng đó là công việc của chính Chúa, một điều kỳ diệu trước mắt chúng ta. “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm. Bạn có thức khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng” (Tv 127,1-2)

 

Ngày 6/8

“Tình trạng tốt nhất để tôn vinh Thiên Chúa chính là tình trạng hiện tại của ta. Ân sủng lớn lao nhất chính là [ân sủng] giây phút hiện tại” [Gửi cho bá tước D’Adigne, tháng 3/1865]

Khi chúng ta hiểu và chấp nhận rằng không có gì diễn ra trong cuộc đời chúng ta lại nằm ngoài kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, người Cha yêu thương của chúng ta, bấy giờ thật là dễ dàng để nhận ra rằng tình trạng tốt nhất đó chính là tình trạng hiện tại của chúng ta, và giây phút hiện tại chính là tất cả những gì chúng ta cần để được hạnh phúc và vui sướng. Tuy nhiên, không nhiều lắm, vấn đề dường như là: ‘làm thế nào chúng ta đạt đến được sự tĩnh lặng và cậy trông vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta’? Sau nhiều kinh nghiệm thực tế, Vịnh gia dường như đã hiểu được nghệ thuật này khi cầu nguyện: ‘Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Ðường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm’ (Tv 131,1-3)

Khi chúng ta có thể đạt đến tầm mức của sự an bình và thinh lặng nội tâm này, thì chẳng có gì có thể làm phiền chúng ta được. Một Thánh vịnh khác (91) cũng đảm bảo cho chúng ta về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa trong những lúc khó khăn thử thách, khi viết:

Hỡi ai nương tựa Ðấng Tối Cao
và núp bóng Ðấng quyền năng tuyệt đối,

hãy thưa với CHÚA rằng:
"Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài."

Chính Chúa gìn giữ bạn
khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc.

Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân:
lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.

Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng
hay mũi tên bay giữa ban ngày,

cả dịch khí hoành hành trong đêm tối,
cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.

Dù tả hữu có ngàn người quỵ ngã,
dù hai bên có chết cả vạn người,
riêng phần bạn, tuyệt nhiên không hề hấn.

Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ
thế nào là số phận bọn ác nhân.

Vì bạn có CHÚA làm nơi trú ẩn,
có Ðấng Tối Cao làm chỗ nương thân.

Bạn sẽ không gặp điều ác hại,
và tai ương không bén mảng tới nhà,

bởi chưng Người truyền cho thiên sứ
giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường,

và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng
cho bạn khỏi vấp chân vào đá.

Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc,
đạp nát đầu sư tử khủng long.

Chúa phán: "Kẻ gắn bó cùng Ta sẽ được ơn giải thoát,
người nhận biết danh Ta sẽ được sức phù trì.

Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp lại
lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên.
Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự,

cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy
và hưởng ơn cứu độ Ta ban." (Tv 91,1-16)

Hơn nữa, khi chúng ta ca ngợi Thiên Chúa nhờ vị thế của sức mạnh, thì việc ca ngợi của chúng ta thực sự có thể là quá đáng cũng như là quá ích kỷ. Chúng ta không cần chờ đợi để chiêm ngưỡng những điều kỳ diệu nữa trước khi chúng ta nóng lòng ngợi khen Thiên Chúa tốt lành của chúng ta; thực ra, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta ca ngợi và cảm tạ Ngài ‘mọi lúc mọi nơi’ như trong phần Phụng vụ Thánh Thể nhắc nhở chúng ta! Cũng vậy, chúng ta không đi tìm kiếm lý do để ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta tìm thấy những lý do ấy xung quanh chúng ta, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Kết quả là mối tương quan của chúng ta với Chúa sẽ trở nên riêng tư và hăng hái, sẽ có nhiều cảm xúc khi chúng ta tương quan với Thiên Chúa. Ngài không còn là một Thiên Chúa ‘ở xa và thiên vị’, nhưng là Thiên Chúa của lòng nhân từ và cảm thông, đầy yêu thương và nhân lành! (Tv 145).

Khi người tín hữu đến gần bàn tiệc thánh, họ không những nhận lãnh Chúa Kitô, nhưng họ còn được Người đón nhận. (THÔNG ĐIỆP ECCLESIA DE EUCHARISTIA chương 2)

 

Ngày 7/8

“Nhưng ai có thể đảm bảo cho tôi rằng: Ngài sẽ tha thứ cho tôi?” Lòng trông cậy khiêm nhu của con, niềm tin của con vào lòng nhân hậu của Ngài! Tìm kiếm chứng cớ ở thế gian này cũng giống như việc ước muốn được ở trên Nước Trời vậy. Hãy chờ đợi! Quả thực, chính lòng khiêm nhường, lòng cậy trông, sự hiến dâng, một chút bùn trên đường đi sẽ chỉ cho chúng ta thấy rằng chúng ta vẫn đang trên đường, và chúng ta phải là những kẻ hành khất của Thiên Chúa, những người nghèo của Thiên Chúa và chịu ơn Ngài vì sự tha thứ, ân sủng, và thiên đường của Ngài’ [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

Toàn bộ đời sống tâm linh dựa trên đức tin, qua đó chúng ta đón nhận Lời Chúa một cách nghiêm túc. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa không bị bất kỳ ai lừa dối cũng như Ngài không muốn lừa dối người khác. Vì thế, Ngài luôn luôn thực hiện những gì Ngài phán. Những lời hứa có thể mất nhiều thời gian để được hiện thực hóa, nhưng những lời hứa ấy luôn luôn được thực hiện. Vì vậy, khi tương quan với Thiên Chúa, chúng ta đừng bao giờ tìm kiếm một sự đảm bảo hiển nhiên, bên ngoài vì đó sẽ là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Thực ra, đó là tội bỏ đạo mà dân Ít-ra-en đã cam kết trong sa mạc khi thờ lạy Bò vàng.

Thiên Chúa đã mặc khải danh Gia-vê của Ngài cho Mô-sê, điều đó có nghĩa là Ngài là Thiên Chúa, Đấng hằng hữu, hiện diện trong mọi tình huống và đặc điểm hoạt động chủ yếu của Thiên Chúa chính là Ngài cứu vớt những ai kêu cầu đến Ngài. Rõ ràng, Ngài đến với những kẻ thù, những tấm lòng tan vỡ và mất mát. Nhưng nói chung, Ngài ra tay cứu vớt trong những giờ phút cuối, khi tất cả sức lực của con người dường như là vô ích. Vì thế, Gia-vê là Đấng không bao giờ vắng mặt trong bất kỳ tình huống nào. Thế nên khi Mô-sê lên núi đàm đạo với Thiên Chúa và ông đã không trở lại trong nhiều ngày, thì dân Ít-ra-en cảm thấy thất vọng về sự trở lại của ông để họ được sống. Và điều này đã đẩy họ rơi vào một thảm họa lớn, đó là làm thế nào để họ biết được Thiên Chúa đang ở với họ ngay lúc này? Chỉ có một đảm bảo duy nhất mà họ có, đó là con người của Mô-sê, mà giờ đây ông lại không xuất hiện nữa.

Vì thế để đảm bảo cho mình một dấu hiệu khả giác về sự hiện diện của Thiên Chúa, họ đã đến cùng A-ha-ron để xin ông làm cho họ “con bò vàng” bằng những đồ trang sức họ mang theo bên mình. Ý tưởng này không phải là để thờ lạy con bò như một vị thần, nhưng là để biết rằng giữa họ có một vị thần cưỡi trên một con bò khi di chuyển từ nơi này sang nơi khác, họ đoan chắc rằng nếu họ để con bò trước mặt mình, họ sẽ biết khi nào Gia-vê sẽ xuống trên con bò để đi đến nơi này hay nơi khác. Tất cả những gì họ đang tìm kiếm chỉ là một bằng chứng rõ ràng về sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ, và đó là sự chối đạo của họ: phá hủy quan niệm cho rằng Thiên Chúa mặc khải chính mình là Thiên Chúa, Đấng không thể vắng mặt trong bất kỳ tình huống nào.

Đối với chúng ta cũng vậy, bao lâu chúng ta còn ở trong thế gian này, chúng ta sẽ không và không thể có một bằng chứng rõ ràng rằng Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta, ngoại trừ lời đảm bảo Ngài đã phán với chúng ta: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tìm kiếm bất cứ điều gì vượt quá lời Ngài có nghĩa là xúc phạm đến Thiên Chúa và ngã lòng trông cậy vào Ngài. Ngược lại với nền tảng này, chúng ta thấy rằng chúng ta, những Ki-tô hữu, vẫn còn một chặng đường dài để tiến bước. Chẳng có khó khăn gì trong giai đoạn đầu tiên của hành trình thiêng liêng với những yếu tố bên ngoài, những hỗ trợ và giúp đỡ về thể lý, chẳng hạn như tượng ảnh, những nơi thánh, nơi hành hương… Thế nhưng, chúng ta sẽ đạt đến sự trưởng thành trong đời sống tâm linh khi chúng ta vượt qua tất cả những điều này và tìm kiếm Chúa trong tinh thần và sự thật, trong sâu thẳm của con người chúng ta và đặc biệt là nơi những người khác. Sau hết, Thiên Chúa không ở lại nơi những ngôi đền làm bằng đá, nhưng nơi tâm hồn con người mà chính Ngài đã tác tạo nên.

Khi chúng ta rước lấy Mình Thánh Đức Kitô là chúng ta thực hiệ n một cuộc tái sinh mới. Chúng ta từ bỏ bản thân để được kết hợp với Đức Kitô. Hơn thế nữa, Thánh Thể còn nuôi d ưỡng và th ực hiện trong chúng ta một đời sống mới. Người tín h ữu phải biết chấ p hành những biến đổi do Đức Kitô đem lại, phải từ bỏ mình để làm một cuộc mạo hiểm, vì chúng ta không biết được đ iều gì Đứ c Kitô thực hiện trong chúng ta. Đó là một đời sống mới mà chúng ta chưa bao giờ trải qua.

 

Ngày 8/8

“Hãy ở lại nơi lòng cha nhân từ của Thiên Chúa, như một đứa trẻ không biết gì cả, không làm gì cả, làm hư hỏng mọi thứ, thế nhưng biết ở lại trong sự tốt lành này” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

 Linh đạo trẻ thơ được xem là mẫu gương tuyệt vờ i nhất cho chúng ta, đó là linh đạo của thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su. Chính do ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa dành cho chị mà ngay từ bé, chị đã được xem là một đứa con được thương mến và chị nhận ra rằng mình không cần phải làm những việc vĩ đại để được cha mẹ đánh giá cao. Cách đối xử này của cha mẹ giúp cho chị sau này cũng thực hiện một mối tương quan khi cư xử với Cha trên trời. Vì một điều duy nhất, chị có thể chấp nhận những giới hạn và những thử thách của mình mà không cảm thấy xấu hổ hay hối hận về chúng. Rõ ràng chị hầu như biết rằng khi chị dâng hiến sự trống rỗng của mình vào bàn tay Thiên Chúa, Ngài sẽ ban tất cả những gì chị đang mong muốn, và cả hai có thể cùng nhau làm những việc vĩ đại cho Nước Trời.

Thế nhưng, đối với tất cả chúng ta, việc đón nhận sự nhỏ bé, tan vỡ và trống rỗng này không dễ dàng chút nào. Một cách nào đó, chúng ta đã ghi khắc trong gen của chúng ta rằng chúng ta sẽ được đánh giá và chỉ có giá trị khi chúng ta thực hiện được những việc lớn lao. Đó là lý do vì sao chúng ta khoe khoang rất nhiều về những thành tựu nhỏ bé của mình và thổi phồng nó lên, che giấu những lỗi lầm và thất bại của mình, đôi lúc còn nói dối để che đậy những giới hạn và lỗi lầm của mình nữa. Cuộc đời sẽ chẳng đơn giản và dễ dàng hơn sao nếu chúng ta có thể áp dụng con đường của thánh Tê-rê-sa!

Thế nhưng, đối với tất cả chúng ta, sự đánh giá của người đời lại mang nhiều ý nghĩa, chúng ta xây dựng đời mình trên sự đánh giá đó và khi nó không diễn ra theo cách của ta, thì chúng ta dùng mọi mánh lới để thu hút sự chú ý của người khác về phía mình cũng như những thành tựu của mình. Khuynh hướng này thường thấy nơi những đứa trẻ dưới 5 tuổi; khi chúng tìm kiếm sự chú ý, chúng rất chân thật và mở lòng ra với những gì chúng cần. Tuy nhiên, xây dựng sự an toàn nội tâm của một người dựa trên sự đánh giá của người khác quả là một việc kinh doanh liều lĩnh vì con người thường hay thay đổi, họ thay đổi quá dễ dàng và xoành xoạch, thông thường là phụ thuộc vào tâm trạng và sở thích của họ.

Thay vào đó, nếu chúng ta học được từ Chúa Giê-su cách đặt bản thân mình vào trong tình yêu của Ngài, chúng ta biết rằng đó chính là một ân huệ nhưng không được ban cho chúng ta dù chúng ta không xứng đáng, chúng ta nhận ra rằng bao lâu chúng ta còn quan tâm gìn giữ ân huệ ấy thì chắc chắn nó sẽ tạo ra một sự khác biệt đối với sự an bình nội tâm mà chúng ta sở hữu. Chúa Cha yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng vì Ngài tốt lành. Ngài nhận thấy nơi chúng ta không chỉ là tầm vóc chúng ta đạt được, nhưng là tiềm năng của chúng ta, một tiềm năng mà chúng ta có thể nhận biết một cách đầy đủ chỉ khi chúng ta biết cộng tác với Ngài. Và khi chúng ta nhận ra tiềm năng mà Ngài muốn dành cho chúng ta, thì rõ ràng là vinh quang sẽ thuộc về Ngài. Có thể nói đó là lúc Thiên Chúa sẽ cám ơn chúng ta vì sự cộng tác của chúng ta với Ngài đang tiến xa. Ngài sẽ nói: “Nào, những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,34-36).

 

Ngày 9/8

“Đừng nán lại nơi những khó khăn về đường thiêng liêng của con; hãy cắt đứt hoàn toàn bất kỳ sự trở lại nào với Cái Tôi” [Gửi cho cô Benoit Richard, tháng 3/1865]

 Khi chúng ta học được nghệ thuật đối thoại với Thiên Chúa giống như một đứa trẻ nói chuyện với cha mẹ của nó, bấy giờ toàn bộ sự tập trung của chúng ta, mọi sự trong ngày, sẽ không phải là bản thân chúng ta, nhưng là chính Thiên Chúa. Như lời Thánh vịnh có nói ‘Như mắt của gia nhân hướng nhìn tay ông chủ. Như mắt của nữ tỳ, hướng nhìn tay bà chủ. Mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tới khi Người xót thương chút phận’ (Tv 123,2). Bao lâu chúng ta còn giữ được trạng thái này, thì mọi thứ sẽ diễn ra tốt đẹp. Nhưng khi chúng ta quay sang chính bản thân mình, không cần biết lý do gì, thì chúng ta sẽ tự dìm chính mình giống như Phê-rô khi ông xin Chúa Giê-su cho ông đi trên mặt biển đầy sóng gió ‘Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với!" Ðức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?"’ (Mt 14,30-31).

Thế nhưng, rõ ràng đó lại là điều chúng ta làm, trở lại với Cái Tôi. Cách bảo toàn cái tôi tự nhiên của chúng ta quá lớn đến nỗi phải mất nhiều năm để chúng ta thực hành việc loại bỏ chính Cái Tôi của mình trước khi chúng ta đạt được bất kỳ một thành tựu nào trong lĩnh vực này. Do đó, chính cha Eymard đã khuyên người con linh hướng của mình đừng nhìn vào Cái Tôi khi gặp khó khăn. Có thể là người ta thực sự thất bại. Dù thế, cách tốt nhất có thể làm trong trường hợp này chính là nhận ra sự yếu đuối của mình, chịu trách nhiệm về sự thất bại cũng như phó thác cho tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Thế nhưng, mọi sự sẽ không qua đi. Chính Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết chúng ta sai ở đâu. Chúng ta cần bình tĩnh chú ý lắng nghe, cẩn thận đón nhận một hoặc hai lời đề nghị thiết thực, rồi sau đó ra sức thi hành với sự trợ giúp của Ngài. Và cũng trong công việc này, chúng ta cần quy hướng về Chúa nhiều hơn là về bản thân mình, vì ‘Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm. Bạn có thức khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ Chúa thương dầu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng’ (Tv 127,1-2).

Trong một bài suy niệm trước đây, chúng ta đã biết được cách mà Chúa đặt ra những khó khăn trên con đường tiến về quê trời của chúng ta, bởi vì qua những khó khăn này, chính Ngài sẽ thực sự lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Khi Ngài thử thách chúng ta bằng cách này, Ngài cẩn thận theo dõi những điều mà chúng ta gây nguy hiểm cho bản thân mình qua sự ngớ ngẩn và bất cẩn của chúng ta, chắc chắn là thế rồi. Chính qua những thử thách ấy, chúng ta mới biết đặt niềm cậy trông vào Chúa cũng như cộng tác với Ngài trong suốt cuộc hành trình. Hơn nữa, thật là hữu ích nếu chúng ta biết tự đào luyện mình để dành mọi vinh quang cho Chúa, mà không cần phải do dự gì như các môn đệ sau khi cho năm ngàn người ăn trong sa mạc. Nếu chúng ta có thể bước sang giai đoạn kế tiếp, thì quả thực đó sẽ là một nguồn trợ giúp lớn lao, vì một lần nữa ở đây chúng ta cần quy hướng về Chúa chứ không phải là bản thân mình.

Hơn nữa, thật là hữu ích nếu chúng ta có một vị linh hướng hay một người đáng tin cậy có thể cảnh tỉnh chúng ta khi chúng ta có khuynh hướng quy ngã. Việc quy Ngã xảy ra quá thường xuyên đến nỗi hầu như chúng ta thậm chí không ý thức được, hay có khuynh hướng bỏ qua khi cho đó là một trường hợp nhỏ nhoi. Một người ngoài cuộc có thể sẽ có cái nhìn nghiêm túc hơn về những trường hợp này.

 

Ngày 10/8

“Ngài (Thiên Chúa) sẽ lấy đi mọi thứ khỏi con để Ngài trở thành của cải duy nhất của con. Thậm chí Ngài lấy đi cả những nhân đức cũng như khả năng làm việc của con để rồi Ngài sẽ trở thành nhân đức và hoạt động duy nhất của con.” [Gửi cho bá tước Adele de Revel de Nesc, tháng 4/1865]

Ví dụ cổ xưa cho điều này chính là câu chuyện của ông Gióp trong Cựu Ước. Theo câu chuyện này, ông Gióp là một người hết lòng theo Chúa, nhưng khi để cho Satan thử thách lòng trung tín của ông trong những lúc khó khăn, Thiên Chúa đã làm cho bạn bè của Gióp phải chịu thử thách. Điều đáng chú ý trong câu chuyện này đó là từng bước từng bước, tất cả mọi tài sản và gia đình đều bị cất đi khỏi ông Gióp, chỉ còn lại sự đơn độc và sự giúp đỡ của loài người. Thậm chí sức khỏe cũng từ bỏ ông và ông bị che phủ bởi hàng loạt những dấu hiệu của việc làm sai trái nghiêm trọng, theo não trạng của người Do Thái vào thời của ông. Thế nhưng, ông Gióp vẫn đứng vững với một sự xác quyết trên môi miệng ông: ‘“Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa’ (G 1,21-22).

Dĩ nhiên, điều này diễn ra thật dễ dàng trong câu chuyện, nhưng trong thực tế nó có thể đòi hỏi cố gắng và đau khổ. Và nhìn chung, kinh nghiệm loài người cho chúng ta thấy rằng khi mọi sự bắt đầu đi chệch hướng, thì chúng thường diễn ra theo một dây chuyền, cái này nối tiếp cái kia. Dường như không có sự gì diễn ra tốt đẹp cả. Nếu chúng ta có thể xem những tình huống này như một sự thử thách từ Thiên Chúa, cũng như có thể nhanh chóng nhận ra rằng khi tất cả mọi sự được nói ra và làm, thì chẳng có điều gì tồn tại, chẳng có gì tồn tại mãi ngoại trừ tình yêu Thiên Chúa. Đó quả là một ơn phúc! Xa hơn, lòng trung tín của ông Gióp quả thực là anh dũng. Nhưng có một kết quả thậm chí còn hơn cả sự anh dũng.

Như cha Eymard chỉ ra rằng, Thiên Chúa thường cất đi những nhân đức của chúng ta. Ba người bạn cùng kề vai sát cánh giúp đỡ ông Gióp, nhưng cuối cùng lại gây phiền hà cho ông bằng mọi lời kết tội. Sau khi chịu đựng một thời gian, ông Gióp đã ta thán cũng như bắt đầu trách móc Thiên Chúa cho đến khi ông cảm thấy tốt hơn và ông đã lắng nghe câu chuyện của Thiên Chúa, bám víu vào Ngài trong đức tin. Dĩ nhiên, có một kết cục có hậu trong câu chuyện khi ông Gióp lại nhận được tất cả gia đình cũng như của cải và sống hạnh phúc từ rày về sau. Nhưng trong đời sống hiện thực, điều này không phải lúc nào cũng xảy ra, nhưng chỉ có đức tin mới được củng cố nhờ những thử thách, đó chính là sự động viên của chúng ta.

Cuối cùng, niềm tự hào của chúng ta chỉ ở nơi Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong những lúc gian nan! Rõ ràng, Ngài hành động rất tàn nhẫn (nói theo ngôn ngữ của loài người) khi để cho những đứa con yêu dấu của Ngài phải chịu đau khổ nhiều, thế nhưng Ngài cho phép những điều ấy xảy ra là để đổ tràn trên những kẻ được tuyển chọn vô vàn ơn phúc. Mầu Nhiệm Vượt Qua nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta càng làm cho mình trở nên trống rỗng, thì chúng ta lại càng được lấp đầy. Vì thế, sự trống rỗng hay sự chết tự bản chất không phải là một sự kết thúc, nhưng chỉ là một sự khởi đầu. Thậm chí, ông Gióp còn kêu lên rằng ‘“Nghĩ về Ngài”, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt… Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có CHÚA đón nhận con… Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc CHÚA ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.’ (Tv 27,8-14)

 

Ngày 11/8

“Con phải tận hưởng giây phút hiện tại của con: con có được Thầy nhân lành, Đấng không bao giờ bỏ rơi con; và con cũng không lìa bỏ Ngài. Hãy nhớ rằng hành động dâng hiến thì đáng giá gấp ngàn lần những hành vi nhân đức.” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 6/1865]

         Nguyên lý cột trụ của đời sống tâm linh mà hầu hết mọi người thường lãng quên đó chính là trong hành trình tâm linh mà chúng ta trải qua trong suốt cuộc đời, điều chúng ta làm thì không bao giờ quan trọng cho bằng điều chúng ta để cho Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta. Chính Ngài là Đấng khởi sự toàn bộ quá trình, đồng hành với sự quan tâm săn sóc đầy yêu thương và đưa chúng đến sự thành toàn vào đúng giờ của Ngài. Tất cả những gì mà người được yêu phải làm, và phải làm bao nhiêu có thể, đó là để cho Thiên Chúa thực hiện theo cách của Ngài, từng bước từng bước. Chúng ta không bao giờ được quên rằng đường lối của Thiên Chúa thì không giống đường lối của chúng ta, như chính Ngài đã phán bảo chúng ta qua ngôn sứ I-sai-a ‘Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta- sấm ngôn của Ðức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó’ (Is 55,8-11).

Ngày nay, một thực tế được đưa ra là những gì Thiên Chúa chọn lựa cho chúng ta thì luôn luôn tốt hơn những gì chúng ta chọn lựa cho chính mình, những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta thì luôn luôn an toàn và khôn ngoan hơn để chọn lựa, không màng đến khó khăn và đau khổ có thể xảy ra như thế nào. Vì thế, hành động dâng hiến cho ý định của Thiên Chúa, cụ thể nếu điều đó dường như là khó khăn hay thậm chí là không thể đối với chúng ta, thì nó sẽ giá trị hơn bất kỳ một hành động chọn lựa nào của bản thân mặc dù có đau khổ đi chăng nữa. Hành động dâng hiến này chắc chắn sẽ đưa chúng ta đến gần hơn với sự hoàn tất kế hoạch tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Ở đây, chúng ta nhớ đến ngôn sứ Giê-rê-mi-a ‘Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi- sấm ngôn của Đức Chúa-, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng. Bấy giờ các ngươi kêu cầu Ta, các ngươi đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhận lời các ngươi. Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp- sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến- sấm ngôn của Đức Chúa-, Ta sẽ dẫn các ngươi trở về nơi Ta đã bắt các ngươi phải rời xa để đi đày.’ (Gr 29,11-14).

Chính cha Eymard đã thực hành Lề Luật Vàng này: Cha không bao giờ mạo hiểm để tiến hành bất kỳ một dự án nào mà trước đó không có sự trang bị của Chúa và Thầy chí thánh ‘Lạy Chúa, Ngài muốn con làm gì?’ Trong vấn đề này, cha đã theo bước của thánh Phao-lô, người đã có hành động dâng hiến hoàn toàn trên đường đến Đa-mát được diễn tả trong những thuật ngữ này. Những nhân vật nổi tiếng khác trong Kinh Thánh cũng đã làm tương tự như vậy, đáng chú ý là vua Đa-vít, người đã lập đi lập lại ‘Và Đa-vít đã hỏi ý kiến Gia-vê!’ (2 Sm 2:1…). Không giống Sa-un, người tiền nhiệm của ông thường hành xử theo ý riêng mình và đề cao thái độ này của ông, Đa-vít luôn luôn tìm cách thi hành những gì Chúa ra lệnh và ông đã thành công dù ông yếu đuối trong những lúc khác. Khi chúng ta phát huy thói quen tìm kiếm những gì Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho chúng ta, chúng ta có thể đoan chắc rằng chúng ta sẽ không đi lạc xa Ngài. Tình yêu vô biên của Ngài dành cho chúng ta sẽ giữ gìn chúng ta an toàn trong cánh tay Ngài!

 

Ngày 12/8

“Cha biết rằng con cần Chúa, Bí Tích Thánh Thể, việc tôn thờ. Nhu cầu này sẽ là qui luật của con cũng như khi con đến Blois để có được chút nghỉ ngơi, ánh nắng và sức mạnh. Đó là luật tạm trú của con” [Gửi cho bà I-sa ben Spa-di-ơ, tháng 10/1865]

         Suốt cuộc đời, chúng ta cần chăm sóc sức khỏe của mình một cách hợp lý. Nhưng cũng thật quan trọng để chúng ta dành thời giờ và sức lực sau hoạt động tinh thần của chúng ta. Và có lẽ những phương tiện tốt nhất mà chúng ta có sẵn để giải quyết điều này đó là dành thời giờ để cầu nguyện mỗi ngày, cầu nguyện khi chúng ta ý thức lắng nghe những điều Chúa nhắc nhở chúng ta. Ban đầu, chúng ta đã chỉ ra rằng hành động dâng hiến thì giá trị hơn hàng ngàn hành động từ bỏ bản thân do mình lựa chọn, vì thế phân định ý muốn của Thiên Chúa chiếm một vị trí quan trọng trong việc bước theo Đức Giê-su của chúng ta. Điều chúng ta cần lưu ý đến ở đây là khi cầu nguyện, chúng ta nên tìm cách giữ thinh lặng và lắng nghe nhiều hơn là bày tỏ những nguyện vọng của chúng ta với Thiên Chúa. Đức Giê-su phán bảo chúng ta rằng… ‘Phần anh em, đừng lo tìm cho có gì để ăn, có gì để uống, và đừng băn khoăn. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho’ (Lc 12,29-31).

Bên cạnh đó, khi chúng ta ý thức rằng đường lối của Thiên Chúa vượt xa bất cứ điều gì mà bản thân chúng ta có thể nghĩ tới, thì chúng ta có thể đoan chắc rằng trong hầu hết mọi quyết định mà bản thân chúng ta đưa ra, chúng ta sẽ hành động một cách mù mờ mà không giữ lại toàn bộ hình ảnh trong đầu. Cái nhìn của Thiên Chúa thì vượt xa và bao quát hơn, cũng như là đáng tin cậy hơn rất nhiều trong một chặng đường dài. Vì vậy, cần phải giữ cho mắt chúng ta quy hướng về ý muốn của Ngài dành sẵn cho chúng ta. Và thậm chí khi thinh lặng cầu nguyện, thì chúng ta dễ dàng chỉ lắng nghe những điều chúng ta muốn nghe, cụ thể là khi điều Chúa nói với chúng ta lại khó khăn và đòi hỏi nhiều. Vì thế, nhiều lần trong Cựu Ước, chúng ta thấy rằng các ngôn sứ đã nói sai, và cho điều mình nói là sự thật. Còn ngôn sứ thật thì luôn luôn đáng tin cậy và biện hộ cho thái độ của mình nhờ đau khổ của bản thân mà những lời sấm đem đến cho họ!

Khi chúng ta tìm cách lắng nghe một cách thâm sâu và không xúc động, trước hết chúng ta cần ý thức để nói với bản thân mình rằng đây là ý muốn của Thiên Chúa mà chúng ta đang kiếm tìm. Bấy giờ, chúng ta sẽ chú tâm lắng nghe. Nhưng điều quan trọng hơn là kiểm tra điều chúng ta nghe, để đảm bảo rằng đó thực sự là ý muốn của Thiên Chúa. Nói chung, ba việc kiểm tra đơn giản được đề nghị: kiểm tra ‘thời gian’ (Thiên Chúa nói cùng một điều theo những cách thức khác nhau; Ngài không thay đổi những đòi hỏi của Ngài. Lời của Thiên Chúa kéo dài việc kiểm tra thời gian); thứ hai là kiểm tra ‘thực tại’ qua đó bất cứ điều gì Thiên Chúa nói với chúng ta đều phù hợp trong một hoàn cảnh cụ thể; những yêu cầu của Ngài không bao giờ là thảnh thơi-nhẹ nhàng! Và cuối cùng chúng ta có kiểm tra ‘Đức ái’ ngụ ý nói rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ đòi hỏi chúng ta một điều gì đó đi ngược lại với tình yêu… vì tự bản chất Thiên Chúa là tình yêu!

Dĩ nhiên, bên cạnh tất cả những điều này, chúng ta trải qua một cuộc kiểm tra ‘Tổng quan’ qua đó chúng ta kiểm tra việc tìm kiếm của chúng ta với những người có kinh nghiệm khác trước khi bắt đầu thực hiện kế hoạch của chúng ta. Hơn nữa, nếu chúng ta sẵn sàng chuyển đổi những kế hoạch ‘giữa đường’, dù khi chúng nhân lên, bấy giờ bằng mọi khả năng, chúng ta sẽ thực hiện những gì mà Thiên Chúa thực sự đòi hỏi chúng ta. Nếu chúng ta có thói quen luôn luôn hỏi ý kiến Chúa từng bước một, chúng ta sẽ không sợ đi sai lạc quá mức!

 

Ngày 13/8

“Nếu con muốn tiết kiệm thời gian, hãy suy niệm và kết hiệp với Chúa nhiều hơn.” [ Gửi cho cô Ma-gơ-rít Gui-lốt, tháng 10/1865]

         Nói chung, khi chúng ta tìm cách tiết kiệm về thời gian để có thể thực hiện những gì chúng ta đã dự định để hoàn tất. Khi chúng ta hoàn thành những hoạch định của mình, bấy giờ dường như chúng ta sẽ bình an. Thế nhưng, như chúng tôi đã trình bày trong bài suy niệm trước, tất cả mọi hoạch định của chúng ta sẽ chỉ là con số không nếu chúng ta không hỏi ý kiến Chúa và làm những gì Ngài đã vạch ra cho chúng ta. Do đó, nếu chúng ta thật lòng ước muốn tiết kiệm thời gian (qua việc làm điều phải trong mỗi dịp), thì điều đầu tiên chúng ta cần làm đó là thinh lặng tuyệt đối một lúc lâu và cầu xin sự hướng dẫn của Chúa. Rõ ràng, điều này có thể làm cho chúng ta mất thời gian, vì Cái Tôi sẽ tiếp tục xen vào và lừa dối chúng ta. Nhưng sau khi chúng ta có được kỹ năng phân định ý muốn của Thiên Chúa và sẵn sàng thay đổi những hoạch định của chúng ta ngay cả khi những hoạch định ấy đang được tiến hành nửa chừng đi chăng nữa, chúng ta đừng sợ lãng phí thời gian để điều chỉnh nó cho hợp lý khi chúng ta lữ hành trong cuộc sống.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần biết cách thực hành việc gạt sang một bên những điều quan tâm của chúng ta trong khi đi tìm kiếm ý Chúa. Rõ ràng, chúng ta luôn tìm cách tránh né bất cứ điều gì đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, hay đau khổ hơn, hay phải dành nhiều thời gian cũng như nhận sự bất tiện hơn về phía mình. Vì thế, có lẽ nếu không ý thức được điều này, chúng ta có thể tránh né mọi quyết định đưa đến đau khổ hơn. Chúng ta thường giống như những đứa trẻ sẵn sàng chia mọi thứ chúng có, dĩ nhiên là ngoại trừ ‘chiếc chăn êm’, một ít quần áo đem lại cho chúng sự an toàn bên trong. Và trong sự khôn ngoan của mình, Chúa cũng sẽ đòi hỏi điều này trước tiên để chúng ta biết cách đặt niềm trông cậy của mình hoàn toàn vào nơi Ngài.

Khi việc bước theo Đức Giê-su của chúng ta là vô điều kiện, thì chúng ta có thể đoan chắc rằng Người sẽ dẫn chúng ta đến đỉnh cao nhất của việc kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Đó chính là mục tiêu mà chúng ta luôn có trong đầu, và bấy giờ chúng ta sẽ không đi sai quá mức! Tuy nhiên, thật hữu ích để nhận ra rằng đây là một kỹ năng không dễ gì học được vì Cái Tôi nơi chúng ta quá tinh vi và xảo trá đến nỗi nó sẽ tiếp tục quay trở lại và dẫn chúng ta đến mọi hướng, ngoại trừ một hướng đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Vì thế, chúng ta cần thực hành kỹ năng này suốt cuộc đời và nó sẽ trở thành sự an toàn của chúng ta, đặc biệt khi liên quan đến những quyết định nghiêm trọng.

Thế nhưng, chúng ta không cần quá lo lắng về điều này, vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng và Ngài sẽ không để chúng ta đi lầm đường, bao lâu chúng ta thực lòng muốn theo Ngài. Ngài sẽ tiếp tục đòi hỏi những thứ khiến chúng ta ngày càng tin cậy vào Ngài hơn là vào những thụ tạo khác, và Ngài sẽ không ngưng nghỉ cho tới khi chúng ta hoàn toàn thuộc về Ngài! Nhưng, sẽ có những khoảnh khắc tương tự như khoảnh khắc Đức Giê-su trải qua trong vườn Giệt-si-ma-ni, nơi chúng ta phải chiến đấu chống lại việc bảo vệ cái tôi của mình cũng như hất mình ra khỏi Cái Tôi và ném mình vào bàn tay yêu thương và nhân từ của Chúa Cha. Cầu nguyện và suy niệm nội tâm phải là một đòi buộc đối với cuộc sống kết hiệp thân mật với Chúa Cha.

 

Ngày 14/8

“Con hãy yêu mến sự thinh lặng, nơi cô tịch của tâm hồn; đó là cung thánh của Thiên Chúa, nơi Ngài đưa ra những lời tuyên sấm về tình yêu; hãy yêu nhiều đi và con sẽ mau chóng và dễ dàng học được cách làm thế nào để biết Thiên Chúa dưới ánh sáng của Ngài, hãy cảm nếm Ngài nơi bản chất của sự nhân lành của Ngài, hãy noi gương bắt chước Ngài về tinh thần yêu thương’ [Gửi cho Nataly Gióc-đan, tháng 9/1864]

         Cha Eymard dành mọi lời khen ngợi cho người con linh hướng của ngài, người đã phát huy được sự cảm nếm và đam mê đối với sự thinh lặng và nơi cô tịch, nơi mà chúng ta có thể đoan chắc rằng sẽ gặp được Chúa và lắng nghe tiếng của Ngài nói với chúng ta bằng tất cả tình yêu Ngài dành cho mỗi người chúng ta là những người con yêu dấu của Ngài. Tuy nhiên, nói thì dễ hơn là làm, không quan trọng là chúng ta cố gắng nhiều như thế nào, thì mỗi ngày luôn có điều này hay điều nọ có xu hướng làm phiền chúng ta và ngăn cản chúng ta đến hiệp thông với Chúa. Giữ mình tránh xa khỏi những xao lãng bên ngoài, chẳng hạn như: tiếng ồn, giải trí, những kẻ làm phiền,… thì có thể dễ dàng. Nhưng khi sự thinh lặng bên ngoài tỏ lộ, thì luôn luôn có một cuộc nội chiến mà chúng ta cần chống lại tất cả những ký ức, khoái cảm và những ý nghĩ ngay lành khác dường như quấy rầy chúng ta mỗi khi chúng ta cầu nguyện.

Nhìn chung, chính những lỗi lầm và thất bại vụt thoáng qua trong tâm trí chúng ta; chúng ta quá bận tâm về những cảnh tượng đó để làm thế nào chúng ta có thể hành động hay hành động trong những tình huống tương tự ở tương lai. Hay là, chính một điều gì đó trong tương lai đang chờ đợi chúng ta sẽ trở thành tiêu điểm cho sự chú ý của chúng ta, và chúng ta tiếp tục bận tâm về việc sẽ phải giải quyết tình huống đó như thế nào. Bí mật dường như nằm ở khả năng lưu lại trong giây phút hiện tại, chính kỹ năng này đưa chúng ta vào cung thánh, nơi Thiên Chúa nói với chúng ta bằng tình yêu. Một trong những trợ giúp to lớn để đạt được sự thinh lặng nội tâm này chính là hoàn toàn không sợ hãi, đặc biệt là sợ bị trừng phạt vì những lỗi lầm của mình hay bị Thiên Chúa bỏ rơi. Khi chúng ta vượt ra khỏi cái bóng của sự nghi ngờ về tình yêu bất tử mà Ngài dành cho chúng ta, và về việc lãnh nhận tình yêu ấy dù cho có bất xứng hay không sẵn sàng đáp trả đi chăng nữa, thì bấy giờ sẽ chẳng có gì thực sự gây phiền hà cho chúng ta cả.

Đó là lúc chúng ta bắt đầu cảm nếm được vẻ đẹp của sự mặc khải về tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta; bỗng nhiên Kinh Thánh bắt đầu trở nên sống động và chúng ta nhận ra những ý nghĩa mà dường như đã bị che đậy trong khoảng thời gian dài. Chúng ta kinh ngạc về thử thách đã cản trở chúng ta nhận ra những gì quá hiển nhiên. Dĩ nhiên, sự thật là tình yêu mài dũa tầm nhìn của chúng ta và thực tế, tất cả những cảm giác của chúng ta. Chúng ta trở nên người được yêu và có khả năng trực giác hơn là lắng nghe những gì Ngài nói với chúng ta. Khi trở nên một với Ngài, chúng ta đọc được ý nghĩ của Ngài, trong khi những người khác không được chúc phúc nên không thể thấy nhãn tiền được! Tuy nhiên, chúng ta cần coi chừng thất bại phổ biến trong trường hợp này vốn chi phối tất cả mọi sự đối với chúng ta, như thể là nhờ chính những kỹ năng của mình cũng như sự chân thật mà chúng ta có thể làm được việc này. Không, lời ca ngợi và lòng biết ơn luôn luôn phải quy hướng về Chúa, Đấng duy nhất ban phát cho chúng ta ân huệ là được kết hiệp mật thiết với Ngài.

Một điểm quan trọng khác cần đảm bảo là chúng ta hãy để cho tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta cảm nghiệm được, tuôn chảy từ chúng ta đến những người khác mà Thiên Chúa đem đến trong cuộc đời chúng ta. Thực ra, chúng ta càng biết trao ban cho người khác, thì chúng ta sẽ càng nhận được nhiều hơn! Tất cả những gì chúng ta cần làm là ngồi lại và lắng nghe, để cho Thiên Chúa làm mọi sự.

 

Ngày 15/8

“Chúng ta luôn luôn là những người mới bắt đầu trong trường học tình yêu, vì chúng ta luôn học được điều mới lạ; chúng ta ngày càng đi sâu hơn nữa vào biển rộng tri thức về Thiên Chúa cũng như nhân đức của Ngài” [Gửi cho bà Natali Gióc đan, tháng 9/1864]

         Đặc điểm khác của mối tương quan gần gũi và thân mật với Thiên Chúa chính là chúng ta không bao giờ có thể học hỏi cho đủ được. Một lý do giải thích cho điều này là chúng ta hay lãng quên những gì chúng ta được ban phát, thậm chí khi chúng ta tìm cách chia sẻ nó với người khác. Vì thế, mỗi lần chúng ta liếc nhìn ân huệ bao la của Thiên Chúa, thì điều đó đến với ta như một điều ngạc nhiên, đó là một kinh nghiệm ‘a-ha’ trên hết mọi thứ. Vì vậy, chúng ta luôn luôn là những người học; hay như một vài người nói rằng: ‘trong đời sống tâm linh, chúng ta luôn luôn là những tập sinh, luôn luôn phải học hỏi.’ Bên cạnh điều này, khi chúng ta đã làm chủ được nghệ thuật hiện diện trước mặt Thiên Chúa, thì Ngài sẽ chia sẻ cho chúng ta tất cả những điều bí ẩn của Ngài. Như Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ trưởng thành của Người rằng “Phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, để họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy, có nghe đi nghe lại cũng chẳng hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ.” (Mc 4,11-12). Chúng ta càng đáp trả lại những ân huệ của Người, thì Người lại càng quảng đại trong việc tỏ bày những bí ẩn của Người cho chúng ta. Đó là lúc việc cầu nguyện trở thành một khoảnh khắc thinh lặng lâu dài, kín múc được những bí ẩn của Nước Trời.

Bấy giờ, phần tốt nhất của giáo huấn này là chiều sâu của việc chia sẻ những gì Thiên Chúa dự định cho mỗi người và mọi con cái của Ngài. Nhưng hơi buồn là, chỉ một vài người sẽ đạt được điều đó vì việc đòi hỏi hóa mình ra không hiếm khi thành công; rất ít người đủ can đảm để sẵn sàng trả giá. Nói chung, nhiều đau khổ cá nhân cũng đi kèm theo mức độ đau khổ gần gũi được chấp nhận bởi tình yêu và lòng biết ơn. Khi đạt được mức độ thân mật này, bấy giờ người ta sẽ ‘sống và thay đổi và trở nên chính mình’ nơi Thiên Chúa trong suốt ngày sống! Điều Thiên Chúa hứa sẽ thành hiện thực: “Ta sẽ là Chúa các người và các ngươi sẽ là dân Ta” (Xh 19,3-5; 24,3-8). Khi đạt đến mức độ này, người ta cũng cảm nghiệm dần dần nhưng vẫn có một khoảng cách nhất định từ tất cả những thú vui và cám dỗ của con người (hay vật chất). Cùng lúc ấy, tình yêu của người ta dành cho mọi người cũng như mọi thụ tạo sẽ gia tăng, và họ sẽ nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa và quan tâm tới tất cả mọi thụ tạo. Tuy nhiên, điều nhấn mạnh ở đây là đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn vượt trên lối suy nghĩ của chúng ta, mỗi lần chúng ta tương quan với Thiên Chúa, chúng ta thấy mình tiến vào một vùng đất mới và mênh mông, và do đó cần phải học hỏi!

Có lẽ mẫu gương tuyệt hảo nhất của sự thân mật này là thánh Phan-xi-cô Át-xi-di, dù sống giữa thú vật hoang dã, vẫn cảm thấy như ở nhà; ngài cũng không sợ hãi bất cứ điều gì trước bất kỳ ai hay bất cứ thứ gì: Đây chẳng phải là một kinh nghiệm về Nước Trời ngay tại trần thế này sao?! Vì thế, nhiều thánh nam và thánh nữ đã cảm nghiệm được sự tự do và tình yêu nội tâm này. Và chắc chắn, ai lại chẳng muốn một điều tương tự xảy ra cho chính mình? Vậy tại sao chúng ta lại đẩy lùi việc trả giá, khi chúng ta có thể thấy những kết quả tuyệt vời như vậy? Câu trả lời là đức tin của chúng ta chưa đủ mạnh để trao phó cuộc đời mình cách hoàn toàn và không do dự vào tay Thiên Chúa, vì thế chúng ta tiếp tục dao động giữa Thiên Chúa và Cái Tôi, cũng chẳng hoàn toàn thích bên nào cả.

 

Ngày 16/8

“Hãy làm cho việc cầu nguyện của con được tô điểm nhờ sự thinh lặng, chiêm ngắm, hiệp nhất với Chúa; đó chính là tâm điểm đích thực duy nhất của cuộc sống. Nghỉ ngơi là việc làm đau khổ và khó khăn của linh hồn; nghĩa là nó làm việc quá nhiều” [Gửi cho bà Nataly Gióc-đan, tháng 9/1864]

          Vào thời đại chúng ta ngày nay, chúng ta có đủ sáng tạo để phát minh ra tất cả các loại đồ dùng để giảm bớt khối lượng công việc chúng ta làm; hay đúng hơn, đó là chúng ta muốn làm nhiều việc hơn với một chi phí thời gian và nỗ lực ít hơn. Áp dụng quan niệm này vào vấn đề cầu nguyện, chúng ta để ý rằng chúng ta lãng phí rất nhiều thời gian khi chúng ta đi sai đường: Trước hết, chúng ta đến cầu nguyện không phải vì mong nhận được mọi sự từ Thiên Chúa như Ngài là ông Già Nô-el phân phát quà và ân huệ cho tất cả những ai xin ông! Nhưng chúng ta cầu nguyện là để làm cho mình biết mở lòng ra, để đón nhận tất cả những gì mà Thiên Chúa trao ban cho ta do lòng nhân hậu của Ngài.

Thư gửi tín hữu Ê-phê-sô đã nhắc nhở chúng ta: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân phụ của Chúa chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã chúc lành cho chúng ta bằng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Quả thế, trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để ta trở nên thánh thiện, vô tỳ tích, trước thánh nhan Người, trong tình yêu. Theo như ý muốn Người ưa thích, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử của Người nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để nên lời khen ngợi vinh quang của ân sủng Người, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được ơn cứu chuộc, được ơn thứ tha các sa ngã theo lượng ân sủng phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết mầu nhiệm ý muốn của Người, theo như điều Người ưa thích mà Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô, để thực hiện kế hoạch khi thời gian tới hồi viên mãn: đó là quy tụ muôn loài trên trời dưới đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, chúng tôi đã được thừa hưởng gia nghiệp: theo ý định của Đấng làm nên mọi sự theo quyết định của ý muốn Người, chúng tôi đã được tiền định, là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, để nên lời khen ngợi vinh quang Thiên Chúa.” (Ep 1,3-12).

Khi chúng ta nắm bắt được mục đích thực sự này của việc cầu nguyện, chúng ta có thể ở lại trong thinh lặng và ngưng cầu xin những đặc ân và mọi sự từ Thiên Chúa. Thay vào đó, chúng ta tiếp tục nhắc nhở mình rằng bất kể điều gì chúng ta cần đều đã được ban cho chúng ta vì tình yêu và lòng nhân hậu của Chúa. Trong thinh lặng, chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa dần dần xuyên qua bóng tối của cuộc đời chúng ta và cho phép chúng ta mở lòng ra với Ngài. Tất cả điều này thì đòi hỏi cố gắng hơn là khi chúng ta tiếp tục cầu xin Ngài một cách không nao núng. Bên cạnh đó, thật đúng khi nói rằng: ngày hôm nay, Thiên Chúa không thể ban cho chúng ta bất cứ thứ gì khác hơn những điều Ngài đã ban cho ta. Vì thế, tất cả những gì chúng ta cần là ở lại gần bên Ngài và để cho Ngài lôi kéo chúng ta đến với Ngài.

Thật không may, tất cả chúng ta là những kẻ mãn tính cũng như quá năng động và không thể ở yên được. Chúng ta mong ước cảm nghiệm được ý nghĩa của thành công đến từ nhiều cuộc chiến đấu. Chính trong những tình huống giống như vậy, chúng ta cần nhớ rằng “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm. Bạn có thức khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng.” (Tv 127,1-2).

 

Ngày 17/8

“Hãy nhớ rằng điều kiện tốt nhất của tình yêu chính là được chi phối bởi tính tất yếu của nó, và bằng chứng lớn nhất về việc chúng ta yêu mến Thiên Chúa đó là yêu mến Ngài bằng sự chối bỏ chính mình và hy sinh chính mình” [Gửi cho cô Zenaide Blanc de St. Bonnet, tháng 10/1864]

          Bị chi phối bởi tính tất yếu của tình yêu cũng giống với việc nói rằng trong lĩnh vực tình yêu, sự dâng hiến thì quan trọng hơn hành động mang tính hung hăng. Trước hết, nếu chính chúng ta không cảm nghiệm được sự hồi hộp của cảm giác được người nào đó yêu cũng như được yêu một cách vô điều kiện, thì nói chung chúng ta không hiểu được tình yêu là gì. Điều này thì quan trọng vì rõ ràng tất cả chúng ta cảm thấy rằng chúng ta quả thực không xứng đáng, không ai thực sự quan tâm để yêu thương chúng ta, đặc biệt nếu họ thực sự biết chúng ta là ai, hay những phẩm chất tối thiểu mà chúng ta được trao phó là gì! Đó là lý do vì sao chúng ta thường đeo những mặt nạ che đậy điều chúng ta không thực sự là.

Nhưng khi một ai đó khám phá giá trị thực sự của chúng ta và yêu thương chúng ta vì biết chúng ta thực sự là ai, thì bỗng nhiên chúng ta thức tỉnh cảm giác hồi hộp của người được yêu. Để điều này xảy ra, chúng ta không cần làm gì cả ngoại trừ việc để người khác biết chúng ta thực sự là ai, kể cả những tật xấu của chúng ta nữa! Nhưng nói chung, chúng ta che đậy những lỗi lầm và giới hạn của mình, những việc xấu xa cần phải giấu giếm, những phần đen tối hơn trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa không chỉ yêu thương chúng ta vì sự yếu đuối của chúng ta, nhưng là vì những giới hạn của chúng ta, đó là lúc chúng ta tỉnh giấc và bắt đầu sống. Chỉ sau kinh nghiệm nền tảng của việc được yêu thương thực sự, chúng ta mới có thể yêu thương người khác được.

Trong việc đáp trả lại tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta cũng cảm nghiệm được những khó khăn cơ bản. Nhìn chung, chúng ta có khuynh hướng cảm thấy rằng nếu chúng ta dâng cho Thiên Chúa mọi sự chúng ta thích và đánh giá cao, thì điều đó sẽ khiến Ngài vui và cảm thấy được tôn trọng. Thế nhưng, vì đường lối của Thiên Chúa thì khác xa đường lối của chúng ta, chúng ta thực sự không thể biết được điều Thiên Chúa muốn, lẽ dĩ nhiên nếu chúng ta không lắng nghe điều Ngài đang muốn nói với chúng ta là gì. Và đó là điều đòi hỏi sự vâng phục và hy sinh bản thân, hai yếu tố căn bản của bất kỳ sự trở lại thực sự với tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giê-su phán bảo chúng ta trong diễn từ biệt ly “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ tuân giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác để Đấng ấy ở với anh em mãi mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người ở lại giữa anh em và sẽ ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến với anh em. Một ít nữa thôi, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có các điều răn của Thầy và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,15-21).

Sự chối bỏ bản thân được nói đến ở đây không phải là vấn đề từ bỏ những gì chúng ta thích hay muốn, nhưng là những đòi hỏi đi ngược lại với những ý định của chúng về những gì Chúa tìm kiếm nơi chúng ta, hay về những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa như một món quà từ phía chúng ta! Điều này đòi hỏi phải đảm bảo rằng không có cách nào để Cái Tôi nắm được sự việc, bất luận là nó có xảo quyệt đến mức nào đi chăng nữa! Và sự chối bỏ bản thân này có thể khó khăn hơn và đau khổ hơn việc chỉ đơn thuần từ bỏ những gì mình thích.

 

Ngày 18/8

“Đừng tiếp nhận những người đã bị các cộng đoàn khác từ chối, hay những người đã khấn hứa, hay thậm chí là những người đã quen với đời dâng hiến. Lý do là vì họ hay so đo, hay nóng lòng, và cuối cùng là vì Thầy Chí Thánh phải có những hoa quả đầu mùa.” [Gửi cho cô Ma-gơ-rít Gui-lốt, tháng 10/1864]

          Từ nguồn sung mãn của sự khôn ngoan thực tiễn mà Chúa đã đòi hỏi cha Eymard đến nhận công việc mục vụ coi sóc ơn gọi, một công việc rất phổ biến và được nhìn nhận trong thời đại của chúng ta. Phân định ơn gọi của một người trong đời sống không phải là chuyện dễ, và đôi lúc sau một giai đoạn dài xem xét kỹ lưỡng, chúng ta vẫn không biết chắc điều Chúa nói với chúng ta là gì. Thực ra, người ta nói rằng sau khi bước vào một Chủng viện hay Tiến trình đào tạo, người ta vẫn khám phá xem Chúa thực sự muốn mình phục vụ ở đâu. Vì thế, thường xảy ra là một ứng viên gia nhập vào một Chủng viện hay Hội dòng cụ thể và sau đó lại được khuyên để rời bỏ, thì dường như họ không có ơn gọi theo lối sống này.

Để tiếp tục làm sáng tỏ ơn gọi của mình, người ta có thể tìm kiếm lối vào một Hội dòng khác: Đây là cơ hội cần nắm lấy! Người ta sẽ phù hợp với Hội dòng mới này cũng như lối sống của Hội dòng ấy chăng? Nếu người ấy bị khước từ khỏi Hội dòng đầu tiên vì thiếu những đòi hỏi căn bản cho đời sống tu trì, cụ thể là sẵn sàng chết đi cho Cái Tôi, vác thập giá và thực sự bước theo Đức Giê-su, vậy người ấy có thể gánh vác những đòi hỏi của Hội dòng mới này không? Lý thuyết thì có thể, và luôn luôn có những ngoại lệ, kinh nghiệm chung là ‘người ấy sẽ không thích hợp với điều kiện mới! Điều này là sự thật vì điều kiện căn bản không phải là gặp gỡ: người ta bước vào mối tương quan Giao ước chủ yếu không phải để nhận nhưng là để cho đi! Tương tự như việc ly dị vợ vì “Tôi không thích cách cô ấy hành xử hay nấu ăn hay một điều gì đó!” Mối tương quan bền chặt dựa trên một sự cam kết, “tốt hơn hay tệ

hơn”. Và nếu cam kết ấy không thể duy trì trong hoàn cảnh này, thì điều đó chẳng giống với việc là người ta sẽ duy trì nó trong hoàn cảnh khác hay sao.

Những lý do mà cha Eymard đưa ra trong lời khuyên này vẫn đúng, nhưng có lẽ chúng không đi đến cốt lõi của vấn đề: Cách tiếp cận chủ nghĩa cá nhân của con người. Chính cha đã lưu ý điều này đối với những ai gia nhập và trở thành những tập sinh của cha rằng một con người không quảng đại trong “Quà tặng bản thân” (gift of self), thì hiếm khi kéo dài được toàn bộ giai đoạn đào tạo. Đây là những người đưa ra những so sánh với những gì mà Hội dòng trước đã cho họ, còn Hội dòng hiện tại thì không; họ lo lắng về “sự an toàn của bản thân” theo nghĩa này hay nghĩa khác, và do đó chẳng bao giờ an cư cả. Thế nhưng, người ta bước theo Đức Giê-su là vì họ muốn dâng chính mình cũng như là hoàn toàn vui thích mọi gian lao vất vả mà họ sẽ chịu đựng vì tình yêu!

Sự khác biệt của cách làm này cần được để ý trong những dấu hiệu bịa chuyện, một điểm nổi bật đó là sự than phiền và tìm vết lỗi lầm! Cũng giống như khi dân Ít-ra-en rời khỏi Ai Cập, họ luôn luôn cằn nhằn về những gì thiếu thốn hơn là biết ơn những gì mình có.

“Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì sẽ không chết bao giờ”.

 

Ngày 19/8

“Hãy xem những thử thách như những ân sủng; chịu đựng chúng bằng tình yêu, vì đó là hoa trái thực sự của nhân đức. Hãy nhớ rằng người mẹ thường phải chịu đau khổ vì những đứa con của mình, và sinh ra chúng trong sự quan phòng của Thiên Chúa nhờ những đau khổ của chính bà. Các thánh khó làm được điều đó, triều thiên của các ngài phải được mua lấy.” [Gửi cho cô Ma-gơ-rít Gui-lốt, tháng 12/1864]

          Cô Ma-gơ-rít Gui-lốt là một người con linh hướng yêu quí của cha Eymard và cha thường mong ước cho cô trở thành một vị thánh; cha đã nhiệt tình động viên cô trên con đường này. Và rõ ràng là, khi biết rằng không một môn đệ nào của Đức Giê-su xứng đáng là muối nếu người ấy không vác thập giá mình mà theo Người, thì cha thúc giục cô xem tất cả những thử thách mà cô phải đối mặt như những ân sủng đặc biệt từ Thiên Chúa, để được chấp nhận và được ấp ủ trong tình yêu. Chính cô đã phải mang vác nhiều thập giá, điều đó vượt trên cả một sự nghi ngờ. Khi chấp nhận để dẫn dắt và hướng dẫn ngành nữ của Hội dòng Thánh Thể, thực ra là tiền thân của Hội dòng Ba Đức Mẹ, cô đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn. Những khó khăn này không chỉ liên quan đến việc bầu chọn và đào tạo các ứng viên cho Hội dòng, nhưng còn là những bận tâm về thói quen và những bận tâm về việc chu cấp chỗ ở cũng như bảo hiểm nữa.

Có một nền tảng cụ thể đưa đến nhiều vấn đề nhỏ nhặt hơn liên quan đến những phụ nữ đã dâng tài sản của mình cho nhu cầu sử dụng của cộng đoàn. Sau này, cô đã quyết định trả lại và dẫn tới những khủng hoảng về tài chính, cùng những mối lo lắng khác. Thế nhưng, trong những hoàn cảnh ấy, cha Eymard vẫn có thể đón nhận những chướng ngại với sự thanh thản và điềm tĩnh, và ở đây cha chỉ ra cho cô, người đối tác của cha, biết cách biến chúng thành những điều tốt nhất trong chính cuộc đời và hành trình thiêng liêng của cô. Cha nhắn nhủ cô rằng cô là người mẹ tinh thần của tất cả những ai gia nhập vào hội dòng đáng kính trọng này cũng như là cô sẽ phải chịu đựng những đau khổ và những thử thách trong những thăng tiến của bản thân họ.

Bên cạnh đó, còn nhiều khó khăn đến từ phía các linh mục và giám mục mà họ phải giải quyết, đặc biệt khi họ bắt đầu mở rộng và di chuyển đến những giáo phận khác. Cha Eymard là người giảng phòng và giảng tĩnh tâm thường xuyên cho họ cũng như phân xử cho họ qua những lá thư mà cha viết cho cô; họ luôn luôn liên lạc với nhau và có nhiều vấn đề để bàn hỏi. Hơn nữa, như cha Eymard, cô Ma-gơ-rít cũng có nhiều vấn đề về thể lý đáng bận tâm, cô thường tiếp tục thói quen hằng ngày của mình một cách anh dũng dù đau đớn và khó chịu.

Trong mọi đau khổ, thánh Phao-lô sẽ là người hướng dẫn chắc chắn của các ngài, đặc biệt những gì thánh nhân đã viết trong thư thứ 2 gửi tín hữu Cô-rin-tô 4,6-5,1, ‘Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: “Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm!” Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Ðức Kitô. Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng;bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt.Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Ðức Giêsu, để sự sống của Ðức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi… Cho nên, chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Vì thế, chúng ta mới không chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn.’

 

Ngày 20/8

“Tuy nhiên, trong những lúc khó khăn này, chúng ta phải cầu nguyện, chịu đau khổ trong âm thầm, vận dụng tốt sự khiêm nhượng và kiên nhẫn đợi chờ giờ của Thiên Chúa. Chúa nhân lành luôn luôn chúc phúc cho thập giá được mang vác vì Ngài.” [Gửi cho chị Maria và Nanet, tháng 12/1864]

          Hai chị của cha cũng có những giây phút gặp thử thách và có lẽ đau khổ lớn nhất của hai chị, đó là: cha Eymard, người em yêu dấu của họ và là một linh mục thánh thiện, ít khi kêu gọi sự giúp đỡ của họ. Trong khi cha thường đem đến cho hai chị những gì tốt nhất, cha thích phục vụ dân Chúa đã được gửi đến cho cha hơn là ở gần các chị, gia đình thân thiết của cha. Có lẽ đau khổ lớn nhất mà cha gây ra cho các chị chính là khi cha bỏ xứ để gia nhập dòng Marist, cha nói với các chị rằng cha không thể chậm trễ thêm dù chỉ một ngày, vì ‘ngày mai e rằng quá trễ!’ Khi cha hiểu được sự cấp thiết của lời mời gọi này, các chị đã dâng trót cuộc đời mình để lo lắng cho những nhu cầu vật chất của cha trong nhà xứ, khó lòng nhận ra rằng vì sao một ngày nữa lại có ý nghĩa đến như vậy!

Thậm chí trong nỗi đau này, cha Eymard đủ nhạy cảm để thường xuyên viết và hỏi han xem các chị đã đương đầu như thế nào, động viên các chị luôn luôn trông chờ bàn tay của Thiên Chúa trong những bước tiến này. Sau này, cha đã nhờ nhiều bạn bè chăm sóc cho hai chị, cụ thể là khi các chị đau ốm và chính cha không thể dành thời giờ để ở cùng các chị được. Có lẽ không thể trở nên một người em xứng đáng của các chị, tuy nhiên các chị của cha đã ở gần Chúa bao nhiêu có thể, Đấng đã đem đến cho họ hoàn cảnh này. Các chị của cha rất ngoan đạo và chân thành, họ đón nhận những thập giá bằng sự cam chịu và tình yêu, thậm chí là vui vẻ khi chịu đựng những gánh nặng hằng ngày. Có thể họ đã dâng tất cả những điều này như những hy sinh vì thành công về tinh thần trong sứ vụ của chính cha Eymard. Cha luôn luôn bắt kịp với đà phát triển, đặc biệt là đối với hai Hội dòng mà cha sáng lập. Họ là những cộng sự tinh thần trong những việc làm khó khăn này của cha, dù cha đã đoan chắc rằng cha không đè nặng lên họ những rắc rối, vốn là thập giá mà cha phải mang vác bằng lòng yêu mến.

Có thể, cha Eymard đã ghi nhớ trong đầu lời nói của Đức Giê-su khi áp dụng những nguyên tắc này vào chính trường hợp của cha ‘Đang khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: “Ngài đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” Đức Giê-su nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa.” Một người khác nữa lại nói: “Thưa Ngài, tôi sẽ theo Ngài, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9,57-62).

Trong khi cách làm này xem ra hơi cứng nhắc, thì nhìn từ một góc độ khác, nó nói đến toàn bộ hiến lễ Bản vị mà cha Eymard đã tìm cách để dâng cho Đức Giê-su, để đáp lại hiến lễ bản vị của Người đã dành cho cha. Cha đã không giữ lại điều gì khi đó là vấn đề của việc quảng đại đáp lại tiếng Chúa.

 

Ngày 21/8

“Bạn đúng: làm việc trong sự suy niệm thánh; đó là gốc rễ của cây cối, là sự sống của nhân đức và thậm chí là của đời sống thánh thiện. Sự xao lãng của tinh thần thực sự nguy hại cho tâm hồn, vì khi lý trí phiêu du mọi nơi… nó sẽ làm cho tâm hồn khô cằn, không nuôi dưỡng tâm hồn bằng những ý nghĩ tốt, ký ức không còn gợi nhắc cho nó về sự hiện diện của Thiên Chúa… Bấy giờ, tâm hồn nghèo khó của chúng ta bị hao mòn những cảm giác mộ mến về một Thiên Chúa uy nghi cũng như những nguồn cảm hứng về ân sủng của Ngài không được bám rễ nơi Ngài nữa…” [ ]

          Cha Eymard đã rất khôn khéo lần theo dấu vết của việc cầu nguyện không hiệu quả do thiếu suy niệm trong suốt ngày sống như Đức Giê-su đã nói “Đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi, Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,19-21). Vì vậy, nếu suốt cả ngày sống tâm trí chúng ta bị những mối bận tâm và lo lắng về vật chất choán chỗ, thì không cần phải băn khoăn khi chúng ta đến cầu nguyện thì những ý nghĩ tương tự như vậy sẽ lởn vởn trong tâm trí và tâm hồn chúng ta. Bên cạnh đó, thường xuyên bám vào những ý nghĩ này sẽ làm cho tâm trí mệt mỏi, làm cho nó ít có năng lực để chú ý vào những gì Chúa nói trong những lúc thinh lặng và cầu nguyện.

Đó là lý do vì sao những bậc thầy nổi tiếng về đường thiêng liêng như thánh Inhaxio Lo-yo-la khuyên những người mình hướng dẫn gìn giữ sự thinh lặng sâu thẳm bên trong khi một người nào đó hoàn tất việc cầu nguyện ban đêm của mình và lên giường đi nghỉ. Vả lại, điều trước tiên người ta cần làm khi thức dậy vào ban sáng chính là nhớ lại chủ đề cầu nguyện của họ. Khi người ta hăng hái với những công việc nhàm chán vào ban sáng, thì đây lại là những ý nghĩ mà người ta giữ lại trong tâm trí của mình, mong đợi thời gian để người ấy tiếp tục cầu nguyện. Chỉ với những cảnh giác như vậy, người ấy mới có thể mong chờ việc cầu nguyện sinh hoa trái. Đặc biệt trong thời đại chúng ta hiện nay, nếu người ta thực sự muốn cầu nguyện hiệu quả, thì người ta phải ý thức cắt bỏ những tin tức vụn vặt thường xuyên có trong tâm trí, xem những chương trình tầm phào trên TV, bận tâm về những băn khoăn và lo lắng liên quan đến công việc hay những nhiệm vụ của mình. Chỉ khi ấy người ta mới có thể hy vọng việc cầu nguyện sẽ thay đổi cuộc đời mình một cách tốt hơn.

Nguyên lý được phát biểu ở đây là căn cứ của tất cả những khía cạnh trong đời sống. Một người nào đó muốn nổi trội trong trò chơi Cricket, thì sẽ cần phải luôn luôn nhồi nhét vào đầu mình những vấn đề liên quan đến trò chơi này. Thực ra, người ta cần được thấm dần trò chơi này, trò chơi phải trở thành một niềm đam mê cho người nào quan tâm đến nó, những người khác sẽ chỉ trở nên một người chơi xoàng xĩnh mà thôi. Cũng vậy, trong lĩnh vực tâm linh, điều tương tự này cũng tốt- Khi Thiên Chúa không thực sự là tâm điểm của cuộc đời chúng ta, kho tàng duy nhất chúng ta muốn có được bằng mọi phương tiện, thì chúng ta không thể mong đợi có được mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Sự mong đợi của chúng ta sẽ chỉ là một sự làm quen với Ngài, hay như cha Eymard đã nói, chúng ta sẽ chỉ có được những cảm giác mộ mến về Thiên Chúa; quan điểm của chúng ta về bản chất của Ngài sẽ chỉ là siêu nhiên và là nơi chung chung, và chúng ta sẽ nói về Ngài không phải bằng những lời nói gây xúc động.

Chúng ta có thể bận rộn với công việc của Thiên Chúa suốt cả ngày sống, nhưng sự hiểu biết cá nhân của chúng ta về Ngài cũng như mối tương quan của chúng ta với Ngài sẽ hơn gì một đầy tớ với Ông Chủ của mình. Một người đầy tớ liên hệ với Ông Chủ nhưng mối tương quan ấy hơi khác với tương quan giữa con trai với cha nó!

 

Ngày 22/8

“Nguyện xin đức ái Ki-tô giáo cai trị giữa các bạn; Đó là nhân đức đầu tiên của Chúa chúng ta và là linh hồn của đời sống dâng hiến… Tôi không nói với bạn rằng: ‘hãy chịu đựng lẫn nhau’; nhưng ‘hãy yêu thương nhau’, vì bạn làm nên gia đình mến thương của Chúa chúng ta” [ ]

         Đây là một trong những lời đề nghị được rút ra từ những buổi thường huấn về đường thiêng liêng của cha Eymard. Trở lại với một trong những quan điểm chủ chốt của ngài về những nguyên tắc Tin Mừng chống lại nền tảng của bầu khí tâm linh trong thời đại ngài, cha Eymard nhấn mạnh đến trung tâm của tình yêu. Trong khi nhiều người khác trong thời đại của ngài chú trọng đến việc chuẩn bị cũng như vào những hàm ý tiêu cực nặng nề, thì cha lại nhấn mạnh tình yêu như là nhân đức và đòi hỏi tiên quyết cho một đời sống tâm linh sâu sắc. Như Chúa Giê-su đã phán ‘Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng phải yêu thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau’ (Ga 13,34-35)

Điều chân thật của một người môn đệ không phải là sự phục vụ nhiệt tình, từ bỏ cái tôi một cách anh dũng, cũng không phải là tử đạo vì bổn phận nhưng là làm bất cứ và mọi việc bằng tình yêu chân thật. Điểm cần nắm bắt thực sự trong điều răn mà Chúa Giê-su ban cho chúng ta chính là chúng ta yêu thương nhau, như Người đã yêu thương chúng ta! Đây là điều làm nên sự khác biệt thực sự và cũng là điều khó khăn vô cùng. Chúa Giê-su yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô điều kiện và không trổi vượt, và để có thể yêu thương theo cách này, thì chúng ta cần kết hiệp thâm sâu với Người, suy nghĩ theo cách mà Người đã nghĩ, cảm nhận những cảm xúc riêng tư của Người, quyết định và hành động một cách chính xác như Người đã làm,.v..v

Dĩ nhiên, những nguồn mạch cho một cuộc đời như vậy được chính Chúa Giê-su ban qua Thánh Linh… ‘Chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: gian truân sinh ra nhẫn nại, nhẫn nại sinh trung kiên, trung kiên sinh trông cậy. Trông cậy thì không làm cho thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần đã được ban cho chúng ta’ (Rm 5,3-5). Tình yêu này chúng ta có được khi đến với những anh chị em đang cần giúp đỡ. Vì thế, tất cả những gì Chúa Giê-su kêu mời chúng ta đó là trở thành những máng chuyển tình yêu của Người đến với người khác, và đây là điểm thực sự cần nắm bắt: chúng ta cần luôn luôn nhận thức rằng ơn gọi của chúng ta là trở nên những máng chuyển trao tình yêu của Thiên Chúa. Công việc cụ thể được trao phó cho chúng ta, sứ vụ cụ thể của chúng ta đó là: sự sống là phương tiện duy nhất mà qua đó chúng ta làm cho tình yêu Thiên Chúa hiện diện nơi mọi người xung quanh chúng ta. Thậm chí những công việc nhàm chán hàng ngày chúng ta làm ở nhà hay nơi công sở cũng đều trở thành những sự diễn tả của tình yêu. Do đó, người làm vườn tận tụy với công việc làm vườn bằng tình yêu, trong khi người nông dân gieo hạt giống và thu hoạch mùa màng cũng bằng chính tình yêu ấy. Người kỹ sư cũng như những cộng sự viên của ông lao động vì cùng một mục tiêu, trong khi đó bà nội trợ làm những việc bổn phận của mình cũng vì tình yêu!

Khi chúng ta nhận ra trung tâm của tình yêu trong cuộc đời mình, bấy giờ “tham vọng” của chúng ta là trở nên những chuyên gia hay giáo sư trong lĩnh vực yêu đương. Chúng ta không bao giờ có thể quên rằng tình yêu này luôn luôn là quên mình và cho đi tất cả, không tính toán so đo vì đó là thứ tình yêu mà Chúa Giê-su hằng ban cho chúng ta, thậm chí khi chúng ta không để ý và chối bỏ Người. Đó chính là tình yêu duy nhất bao trùm chúng ta để lưu chuyển một cách tự do và quảng đại- tất cả chỉ là giả tạo!

 

Ngày 23/8

Chúng ta phải cúi đầu dưới Thập giá và cầu nguyện cho những người bắt bớ và gây ra đau khổ cho chúng ta.”. [ 5/1867]

          Từ việc chuyên cần đọc Kinh Thánh, cha Eymard quả quyết rõ ràng rằng người ta không thể hy vọng trở thành một môn đệ của Chúa Giê-su (ngoại trừ là một người trung thành) nếu người ấy không được chuẩn bị để vác thập giá của mình (và thánh sử Luca còn thêm chữ ‘hằng ngày’ để nhấn mạnh đến việc không thể thoát khỏi điều này, dù chỉ là một ngày!) và bước theo Người. Dấu chỉ đáng tin cậy mà người ta tham dự vào công việc của Nước Trời đó chính là dấu Thánh Giá.

Nhiều lần trong Cựu Ước, ngôn sứ thật đã nhận thức những khả năng ăn nói của mình qua thực tế là: ông phải chịu đau khổ vì những gì mình rao giảng, mặc dù nhiều lần ông đã chống lại ý muốn của mình. Ngôn sứ giả nói một cách lém lỉnh về những gì ông biết người khác muốn nghe: Không kết án đường tội ác của họ, không một sự trừng phạt nào từ Thiên Chúa sắp xảy đến, không một sự hối thúc để thay đổi lối sống! Bao lâu quần chúng được ủng hộ về cách sống và lối cư xử ích kỷ của mình, thì họ đã đối xử tốt với vị ngôn sứ cũng như hoan hô mọi hành động của ông. Chúa Giê-su đã nhắc nhở các môn đệ của Người rằng đây cũng sẽ là số mạng của các ông “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã mến thương cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, nên thế gian thù ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ đã ngược đãi Thầy, họ cũng sẽ ngược đãi anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em vì danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai phái Thầy. Giả như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không có cớ chữa tội được. Ai thù ghét Thầy, thì cũng thù ghét Cha Thầy. Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, họ đã chẳng có tội. Nhưng nay họ thấy rồi mà vẫn thù ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. Nhưng như thế là để ứng nghiệm lời đã chép trong Sách Luật của họ: Chúng đã thù ghét con vô cớ. Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ phái đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu. Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã.” (Ga 15,19-16,1).

Lời cảnh báo của Chúa đang réo lên bên tai chúng ta, chúng ta cúi đầu trước sự đau khổ xảy đến trên con đường của chúng ta, khi chúng ta tiến tới việc thiết lập vương quốc của Thiên Chúa ngay giữa chúng ta. Thử thách thực sự mà chúng ta nội tâm hóa nguyên lý quan trọng này chính là: chúng ta có thể vui mừng ngay giữa đau khổ như các tông đồ đã cảm nghiệm “Các Tông đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, vui mừng bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su. Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Ki-tô Giê-su.” (Cv 5,41-6,1).

Tuy nhiên, nếu đau khổ của chúng ta phát xuất từ lỗi lầm của chính mình, bấy giờ chúng ta xứng đáng với nó, như thánh Phê-rô nhắn nhủ chúng ta rằng “Nếu vì phạm tội và bị đánh đập mà anh em chịu đựng, thì nào có vẻ vang gì? Còn nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em chịu đựng, thì đó là ân huệ Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, chính Đức Ki-tô cũng đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị thóa mạ, Người không thóa mạ lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bằng. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang trong thân thể của mình trên cây gỗ, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Nhờ thương tích của Người, anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2,20-3,1).

 

Ngày 24/8

“Cha chỉ ước ao một điều duy nhất cho con: tình yêu lớn lao hơn dành cho Thiên Chúa, một ngọn lửa cháy sáng hơn và mãnh liệt hơn. Yêu mến Thiên Chúa và được Ngài yêu mến, chúng ta còn muốn và mong ước gì hơn nữa? [Gửi cho bà An tôn-nét đờ Gran-vin-lê, tháng 1/1867]

          Như đã đề cập nhiều lần trong các bài viết của cha Eymard, đóng góp đặc biệt của cha đối với Hội Thánh vào thời đại bấy giờ đó là việc quy hướng của cha vào tâm điểm của tình yêu trong việc bước theo Đức Giê-su của người Ki-tô hữu. Đó là một đặc ân được ban cho cha, đặc biệt là đặc ân này đi ngược lại với nền tảng của phong trào Giăng-xê-nít vốn tập trung vào mặt tiêu cực của cuộc sống, nại vào việc đền tội nghiêm khắc, một sự ngờ vực nơi bản chất của con người, những việc phạt xác nghiêm khắc và kéo dài, và những việc đại loại như thế. Chủ yếu dựa trên Kinh Thánh, cha Eymard có thể rút ra những điểm chính yếu từ những cái tùy phụ và khám phá ra rằng chỉ tình yêu mới là chìa khóa. Vì vậy, cả trong chính cuộc đời của cha cũng như trong việc hướng dẫn tâm linh cho người khác, cha không bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi trở về với khía cạnh này của tình yêu.

Vả lại, đây không phải chỉ là vấn đề yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn hay ít hơn. Điều mà cha muốn nói đó là tình yêu cao nhất và nồng nàn nhất dành cho Chúa Cha, đơn giản vì đó là cách mà chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, mỗi và mọi người trong chúng ta, không quan trọng tình trạng luân lý của chúng ta là gì! Như đã được biểu lộ cho chúng ta trong toàn bộ Kinh Thánh, tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Ngài thì hoàn toàn không thể tin được. Thậm chí khi dân phạm tội một cách có ý thức và tự do, khi họ phải lãnh hình phạt vì những việc làm sai trái của mình, nhưng chính Thiên Chúa đã kéo họ ra khỏi vũng lầy nhơ nhớp. Đây là điều mà hầu hết mọi người, thậm chí là ngày nay, không thể hiểu nổi. Dù cho lời đáp trả của chúng ta đối với tình yêu của Ngài có là gì đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương chúng ta ‘như thể’ chúng ta thực sự là những đứa con yêu quý nhất của Ngài!

Một ví dụ điển hình của việc hiểu biết giới hạn về tình yêu của Thiên Chúa chính là lời khẳng định mà chúng ta thường nghe trong suốt Mùa vọng “Có tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Đức Chúa… hãy san cho thẳng…” (Is 40,1-18). Khi được hỏi “ai được chỉ định để chuẩn bị con đường trở về sau cuộc lưu đày?’ (thừa nhận rằng mọi người biết đó là con đường từ Ba-by-lon, nơi lưu đày trở về Miền Đất hứa, Ít-ra-en), tất cả mọi người bao gồm các linh mục cũng như các chủng sinh sẽ mau chóng đáp lại rằng ‘Tại sao là chúng con, những kẻ tội lỗi!’ Nhưng có một bài đọc quan trọng hơn về bối cảnh này mặc khải cho thấy rằng chính Thiên Chúa là Đấng sẽ dọn con đường này, con đường thẳng tắp và bằng phẳng (qua sự khởi xướng của các dân ngoại là chính Ba-by-lon cũng như A-sy-ry) cho dân Ngài trở về, vì ‘họ đã lãnh nhận sự trừng phạt gấp đôi vì tội lỗi của mình’ (Và Thiên Chúa không muốn họ chịu đau khổ nữa mặc dù chính họ lại rơi vào những rắc rối ấy!)

Chính tình yêu ‘dường như cuồng dại’ mà Thiên Chúa dành cho chúng ta khiến chúng ta cần phải đáp trả lại cũng với một sự trở về ‘điên dại’ của tình yêu được thể hiện qua những việc làm hằng ngày của chúng ta. Đây chính là cách mà các vị thánh đã sống cũng như nhiều cách cư xử kỳ lạ của các ngài chỉ có thể giải thích một cách có ý nghĩa khi đặt trong bối cảnh của thứ tình yêu này. Thậy hạnh phúc cho những ai để cho mình được Thiên Chúa yêu thương theo cách này cũng như yêu mến lại Thiên Chúa (thậm chí là yêu mến con cái của Ngài) theo một cách tương tự như vậy!

 

Ngày 25/8

“Để bánh trở nên ngon, nó cần phải được sàng sẩy, nghiền nát và nướng kỹ. Hãy để cho chính con cũng được nghiền nát như thánh I-nha-xi-ô, vị thánh tử đạo.” [Gửi cho cô Vi-chi-ni-ê Đa-ni-ôn, tháng 1/1867]

          Sử dụng phép loại suy của tấm bánh nướng, cha Eymard giải thích một nguyên tắc quan trọng của đời sống tâm linh. Để có bánh chất lượng, việc thu hoạch lúa từ những cánh đồng cũng như chế biến chúng thành bột và tất cả mọi chi tiết khác là chưa đủ. Người ta cần đảm bảo rằng hạt lúa phải khô, những yếu tố ngoại lai hay không mong muốn được sàng sẩy cẩn thận để hạt lúa khi được nghiền nát sẽ sạch và tinh tuyền! Thậm chí tiến trình xay lúa thành bột trong nhà máy cần phải được giám sát cẩn thận, cụ thể là kiểm tra độ ngon của nó. Kế đến là tiến trình nhào bột và cho vào đó chút men để trong một thời gian nhất định và cuối cùng làm thành bánh và nướng trong lò, một tiến trình tương tự đòi hỏi phải chú ý để bột không cháy trong lò nếu để quá lâu.

So sánh cuộc đời chúng ta với hạt lúa mì, chúng ta cũng cần để cho mình bị nhào nặn qua tiến trình thanh tẩy mà Chúa thực hiện trên chúng ta, chắc chắn là phải qua nhiều công cụ của con người. Một vài công đoạn của tiến trình này chắc chắn là rất đau đớn, tuy nhiên lại cần thiết. Mẫu gương của thánh I nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a nhắc nhở chúng ta rằng hạt lúa cần phải được nghiền nát thành bột, trong trường hợp của ngài, việc này được thực hiện bằng răng của những con dã thú mà ngài cũng như nhiều người khác bị ném vào, đơn giản vì họ là những Ki-tô hữu, những người trung thành với Đức Ki-tô. Thế nhưng, phần hay nhất của câu chuyện này ở chỗ khi ngài bị đưa đến thành phố, nơi ngài bị bắt, ngài đã đi qua nhiều thành phố nơi mà nhiều người nổi tiếng cư trú. Những con người có tầm ảnh hưởng này đã ra tay can thiệp cho ngài và giúp ngài chốn thoát.

Nhưng ngài đã làm họ nhụt chí khi nói ‘Tôi là hạt lúa mì của Đức Ki-tô; chỉ khi nào chúng ta được nghiền nát trong lò đau khổ, chúng ta mới có thể trở nên tấm bánh tinh tuyền’… tấm bánh mà chính Đức Ki-tô đang sống nơi con người của các môn đệ ngài! Trong đường lối này, ngài không chỉ can đảm chấp nhận cái chết, nhưng còn động viên những người bạn đồng hành của mình kiên vững cho đến cùng. Thật là một tấm gương cho chúng ta ngày nay. Chắc chắn chúng ta có thể không được mời gọi để hy sinh cuộc đời mình một cách anh dũng qua việc tử đạo. Nhưng chúng ta có thể nói rằng chúng ta dâng phần tốt nhất của mình (để chính chúng ta bị bẻ ra, và bị nghiền nát thành bột) như chúng ta vẫn trung thành với những nhiệm vụ Chúa trao, khi chúng ta bảo vệ cho sự thật giữa các bạn hữu của mình, dành toàn bộ thời gian chúng ta có ở văn phòng hay công sở, không đánh trả hay lừa lọc hoặc nói dối để chuộc lợi cho mình?

Đây là cách chúng ta được mời gọi để biểu lộ việc theo Đức Giê-su của mình một cách anh dũng trong ngày hôm nay, nơi ‘nhà máy’ của những cam kết hằng ngày của chúng ta. Và khi điều này bao gồm sự trung thành lén lút đối với bổn phận của chúng ta, thì tất cả những điều này sẽ làm đẹp lòng Chúa hơn, cũng như sẽ có ít cơ hội để Cái Tôi xâm chiếm. Chắc chắn là có vô số những nam nữ anh hùng không được ca ngợi ngay giữa chúng ta, đặc biệt trong các gia đình chúng ta, nơi những người phụ nữ và những bà mẹ Ki-tô giáo rất bình dị đã dành trọn thời giờ cũng như sức lực của mình để vun đắp cho gia đình giữa vô vàn thử thách và rào cản, vẫn bảo vệ cho chân lý và công bình bằng bất cứ giá nào!

 

Ngày 26/8

“Chúng ta phải hy vọng ngược lại với tất cả niềm hy vọng, và ngước nhìn về ngọn núi của ơn cứu độ, mà không tìm kiếm sự giúp sức nào của con người cả.” [Gửi cho bà Na-ta-ly Gióc-đan, tháng 1/1867]

          Lời khuyên cụ thể này sẽ có ích trong những hoàn cảnh khó khăn thông thường khi người ta chiến đấu với việc hoàn tất những bổn phận hằng ngày của mình. Một người mẹ đang phải vật lộn với công việc truyền thụ dần dần những giá trị Ki-tô giáo cho những đứa con đang ở lứa tuổi thanh thiếu niên của mình thường nhận thấy rằng bà đang phải tựa lưng vào tường để chiến đấu. Những đứa trẻ vẫn khẳng định chắc nịch rằng mọi người khác trong đám bạn của chúng nói dối, buông thả trong những cách cư xử không mang tính công giáo và không công bằng đối với những người yếu thế và nghèo khổ, gian lận trong thi cử, về nhà trễ vào ban đêm và là chủ nhân của những chi tiết khác. Bà trông đợi chồng mình hỗ trợ mình trong những tình huống khó khăn, nhưng bà chỉ nhận được sự đối xử tẻ nhạt, như thể là ‘Đây là việc của bà, trách nhiệm của bà. Tôi không thể giúp gì được…!

Trong tình huống này, bà chạy đến với ai đây? Thật dễ để quẳng gánh và buông xuôi, nhưng đó sẽ không phải là những thất bại trong những bổn phận Ki-tô giáo của người ta? Trong những tình huống này cũng như những tình huống tương tự như thế, lời khuyên tốt nhất đó là nhận ra rằng mặc dù những gì xuất hiện bên ngoài, nhưng Chúa vẫn kiểm soát tình huống khó khăn và tất cả những gì Ngài nói với chúng ta đó là hãy đặt chính mình như những khí cụ vào bàn tay uy quyền của Ngài. Càng tuyệt vọng, chúng ta lại càng phải cậy trông vào Ngài, cầu xin Ngài đồ tràn trên chúng ta sự khôn ngoan của Ngài, để truyền thụ vào tâm hồn chúng ta sự kiên nhẫn và tình yêu của Ngài, thôi thúc chúng ta nói những lời thích hợp và làm những việc hiệu quả nhất. Tất cả điều này được đúc kết lại trong lời khẩn nguyện được tìm thấy trong Kinh Lạy Cha: ‘Xin ban cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày!’ Bánh đại diện cho tất cả những gì đem lại sự sống cũng như làm cho cuộc sống được tốt đẹp!

Điều quan trọng cần lưu ý đó là chúng ta cầu nguyện theo ý tưởng của kinh nguyện Ki-tô giáo, chúng ta được ban tặng ‘tất cả mọi sự làm cho cuộc sống trở nên đáng sống trên trần gian’ để chúng ta có thể chia sẻ với người khác, với bất cứ ai mà Chúa đặt vào vòng tròn ảnh hưởng của chúng ta. Trong ví dụ được đề cập đến ở trên, nếu bà mẹ bị làm phiền mà chân thành cầu nguyện theo cách này, thì chắc chắn Chúa sẽ cất đi và đem đến cho bà tất cả những gì bà cần để đưa ra cách giải quyết mang tính Ki-tô giáo đối với những vấn nạn. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là vấn đề sẽ được giải quyết chỉ trong vài giây ngắn ngủi, nhưng có thể sẽ còn những ngày đau khổ phía trước bà, thế nhưng điều bà sẽ phải làm là đặt tình huống khó khăn này vào bàn tay Chúa, để cho Ngài làm việc qua bà theo nhịp độ và theo cách riêng của Ngài.

Sau hết, xây dựng vương quốc của Thiên Chúa thực sự không phải là việc của chúng ta, nhưng đó chính là công việc mà Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian này. Nhưng Đức Giê-su đã tuyển chọn chúng ta như ‘những đôi tay và đôi chân’ hữu hình cho ngày hôm nay, và bao lâu chúng ta còn gìn giữ được vai trò phụ trong công việc vĩ đại này thì Ngài sẽ không lẩn tránh trách nhiệm của Ngài. Cầu nguyện mà không làm vì lòng tin và lòng mến thì sẽ không thể có câu giải đáp. Và đôi lúc, câu trả lời của Chúa chính là ‘đợi đã, hãy để Ta làm việc này theo thời gian và cách của Ta!’ Đó là lúc chúng ta ngước nhìn Ngài trong niềm hy vọng mà không tìm đến bất kỳ một sự trợ giúp nào của loài người. Chúng ta nhớ lại những lời của Đức Giê-su khi Ngưới nhắn nhủ chúng ta: ‘Và anh em nhớ rằng, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’ (Mt 28,20).

 

Ngày 27/8

“Để trở nên một vị đại thánh, thì phải là một tâm hồn biết cầu nguyện và phục vụ. Điều quan trọng là phải ao ước nó và theo đuổi nó.” [Gửi cho bà Na-ta-ly Gióc-đan, tháng 1/1867]

          Quả đúng khi nói rằng ngay trong bậc thánh, thì cũng có nhiều cấp bậc: cao hơn hoặc thấp hơn. Dĩ nhiên, rõ ràng là khi chúng ta nhớ lại rằng không ai bị ép buộc theo một cách rập khuôn để đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Mỗi người cho đi theo sự chọn lựa tự do của chính mình, như một bài thơ đã viết:

Có một lối đi cao cả và thấp hèn dành cho mỗi người,

Và mỗi người quyết định con đường mà linh hồn mình sẽ đi.

Linh hồn cao thượng sẽ chọn con đường cao cả, và linh hồn tầm thường sẽ chọn con đường thấp hèn,

Và mỗi người quyết định con đường mà linh hồn mình sẽ đi!

Tuy nhiên, đối với những ai đang khao khát tìm kiếm những tầm cao của sự thánh thiện thì cần phải duy trì sự quân bình giữa cầu nguyện và phục vụ. Nói cách khác, sự thân mật với Chúa luôn luôn là một sự giao thông hai chiều: chúng ta nhận được nhiều, tốt hơn là hãy mở lòng mình ra để được Chúa đổ tràn tình yêu của Ngài, thì chúng ta có bổn phận phải chuyển những gì đã nhận được cho người khác. Hay, một con đường vòng khác cũng đúng, chúng ta càng chia sẻ với người khác, thì chính chúng ta lại càng nhận được! ‘Hãy có lòng nhân từ như Cha của anh em là Đấng nhân từ. “Đừng xét đoán, và anh em sẽ không bị xét đoán; đừng lên án, và anh em sẽ không bị lên án. Hãy tha thứ, và anh em sẽ được thứ tha; hãy cho, thì anh em sẽ nhận được. Một đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, sẽ được đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong đấu nào, thì anh em sẽ được đong lại đấu ấy.” (Lc 6,36-38).

Khi ấy, hành trình thiêng liêng mà chúng ta trải qua phải bao gồm việc cho và nhận. Chúng ta chạy đến với Chúa để được nhận lãnh những ơn lành của Ngài, không đơn thuần là xây dựng những lợi nhuận của chính mình, nhưng để chúng ta có thể có gì đáng giá để chia sẻ với hàng xóm láng giềng cần được giúp đỡ của chúng ta khi chúng ta gặp gỡ họ. Như Đức Giê-su, chúng ta cũng trở thành ‘tấm bánh bị bẻ ra’ cho sự sống của thế gian. Và như trong suốt biến cố nuôi 5000 người ăn, khi các môn đệ phân phát bánh đã được Đức Giê-su thánh hóa để cho mọi người ăn tùy thích, thì các ông cũng thu được 12 giỏ đầy những bánh vụn, cũng vậy trong cuộc đời chúng ta, chúng ta càng quảng đại cho đi, thì dường như chúng ta lại càng giữ lại được. Điều quan trọng là phải cho đi chính mình, chỉ khi ấy chúng ta mới được trả lại bằng một đấu lớn hơn. ‘Cơm bánh của bạn, hãy đem thả trên mặt nước, về lâu về dài, bạn sẽ tìm lại được’ (Gv 11,1). Bên cạnh đó, Chúa Cha sẽ không bao giờ để mình chịu thua lòng quảng đại.

Trong cuộc hành trình từ sa mạc tiến về Đất Hứa, dân Ít-ra-en đã được cảnh báo là không nhặt nhiều man-na hơn nhu cầu họ cần tiêu dùng trong ngày. Bất cứ thứ gì còn sót lại vào ban đêm sau khi ăn sẽ bị thối rữa nếu giữ lại vào ngày hôm sau. Vì thế, họ cũng như những hàng xóm láng riềng của họ đã không tìm được ích lợi gì từ việc thu lượm man-na. Điều đó cũng đúng với chúng ta trong việc sở hữu và sử dụng những của cải trần thế khi chúng ta lữ hành hướng về quê trời.

 

Ngày 28/8

“Hãy phó dâng cho sự Quan phòng hằng luôn canh chừng con cách cẩn thận và hướng dẫn con trong mọi bổn phận cũng như trong [việc tìm thấy] niềm cậy trông.” [Gửi cho Bá tước A-đê-lê đờ Re-ven, tháng 1/1867]

Trong số tất cả những phẩm chất cần có đối với một sự thân mật sâu sắc với Chúa, có lẽ phẩm chất quan trọng nhất là sự dâng hiến. Tuy nhiên, thật đáng quý khi chúng ta suy nghĩ về phẩm chất nhỏ bé này một cách sâu sắc hơn. Sự dâng hiến mà chúng ta đề cập đến ở đây không chỉ là vấn đề từ ngữ hay ý tưởng; vẫn không đủ để nói với Chúa rằng chúng ta ước ao phó dâng vào bàn tay của Ngài. Chẳng hạn nhiều người hát thánh thi “con phó trót tất cả” một cách cung kính và toàn tâm toàn ý, nhưng khi thời điểm dâng hiến đến, họ lại tránh né việc trở thành cục đất sét trong tay người thợ gốm.

Vì thế, chính Chúa ôm ấp chúng ta trong tay Ngài và làm cho chúng ta biết dâng hiến ngay cả ước muốn sau hết và nhỏ bé nhất của chúng ta khi muốn làm cho Cái Tôi trở thành ông chủ. Chúng ta nhận ra điều này trong câu chuyện của ông Giai-rô, viên trưởng hội đường, đã đến gặp Đức Giê-su để xin Người chữa cho con gái của ông đang trong cơn hấp hối. Mặc dù, Người chú ý đến ước muốn mạnh mẽ

nơi Giai-rô để kiểm soát cuộc đời của chính ông, nhưng Đức Giê-su đã tình nguyện về nhà ông, nơi con gái ông đang nằm ở đó. Nhưng, Người đem theo đám đông cùng đi với mình và tranh luận với họ dọc đường. Kết quả là chuyến đi này diễn ra rất chậm trong khi ông Giai-rô mong chờ Đức Giê-su về nhà ông trước khi con gái ông chết.

Sau một khoảng thời gian chần chừ khá dài, một người phụ nữ từ trong đám đông đến sờ vào vạt áo của Đức Giê-su khi Đức Giê-su dừng lại và bắt đầu hỏi xem ai đã sờ vào áo Người. Thậm chí các môn đệ đã kinh ngạc về phản ứng này của Đức Giê-su. Lại thêm một lần chần chừ nữa khi người phụ nữ thú nhận hành động của mình và bắt đầu kể cho Đức Giê-su ‘toàn bộ câu chuyện’. Bấy giờ, ông Giai-rô bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng về việc về nhà kịp lúc, trước khi đứa con gái chết. Trong cảnh kế tiếp, chúng ta nghe những gia nhân của ông Giai-rô đến báo cho ông tin tức rằng con gái ông vừa mới chết, tất cả niềm hy vọng của ông Giai-rô tan thành mây khói!

Chính lúc này, Đức Giê-su nói với ông “Giai-rô, đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” Về phần Đức Giê-su, điều này nghe hơi khiếm nhã và thiếu nhạy cảm, vì chẳng lẽ ông đã không tin khi đến gặp Đức Giê-su ngay lúc đầu? Ông có thể làm gì hơn nữa, khi giờ đây con gái ông đã chết? Điều Đức Giê-su chỉ ra là đây chính là giờ dành cho Giai-rô để ông đặt tất cả tình cảnh đứa con gái chết vào tay Đức Giê-su và để cho Người làm những gì Người nghĩ là tốt nhất! Khi ông Giai-rô làm như vậy, Đức Giê-su đi vội vào nhà, và trước tiên là giải tán mọi tiếng ồn (khóc lóc và than vãn) cho rằng đứa con đã chết. Kế đến, Người cùng với một vài người đi vào trong ngôi nhà. Những hành động này thật khó để Giai-rô chấp nhận nếu như ông cứ tiếp tục coi mình bị kiểm soát. Nhưng, ông đủ bình tĩnh để cho Đức Giê-su làm tất cả những gì Người cho là tốt nhất.

Khi dẫn cha mẹ và ba môn đệ được chọn, Đức Giê-su đi vào căn phòng và nâng đứa bé trỗi dậy. Người có thể làm như vậy vì ông Giai-rô thực tế đã biết dâng hiến hoàn toàn. Đó là sự dâng hiến mà Đức Giê-su cũng mong ước nơi chúng ta!

 

Ngày 29/8

“Hãy tìm hiểu tính khí của họ và hãy đến với họ bằng sự ân cần và sự kiên nhẫn, vì người ta không biết hoặc không chấp nhận những khiếm khuyết về cá tính của họ. Tình yêu vị kỷ che đậy và che chắn bản ngã của chúng ta.” [gửi cho cha Micae Chanuet, tháng 1/1867]

Lời khuyên này được gửi cho cha Chanuet, người mà lúc bấy giờ đang phụ trách công việc đào tạo các ứng sinh gia nhập vào Hội dòng Thánh Thể mới. Khi tự mình làm công việc này trong một thời gian ngắn, từ kinh nghiệm của bản thân, cha Eymard biết được đâu là những phẩm chất nơi nhà đào tạo sẽ đem đến những kết quả tốt nhất trong công việc của cha. Cần chú ý rằng mặc dù cha đã tìm kiếm phẩm chất nơi những người được cha đào tạo, thế nhưng cha chưa bao giờ đề nghị bỏ qua sự nghiêm khắc, không trung thành với chương trình cũng như những điều khác. Khi nhận ra sự trổi vượt của tình yêu, trong tất cả các bài viết của cha gửi cho các nhà đào tạo, cha đã khẳng định rằng họ phải thể hiện tình yêu với những người đang trong tiến trình đào tạo.

Cách hiểu của cha Eymard đi ngược lại với qui luật: cha xem những điều này không phải là những biểu hiện của ý chí không lành mạnh hay sự bướng bỉnh, của một ước muốn làm theo ý riêng mình hơn là chấp nhận thẩm quyền. Cha hiểu rằng hầu hết người ta không hiểu những khiếm khuyết của chính họ, vì nhìn chung mỗi người đều xem mình là hoàn hảo. Bên cạnh đó, hầu như họ vẫn yên trí với việc họ có thể đồng ý với những nguyên tắc đã được đặt ra, nhưng trong thực tế họ lại hành động theo cách khác! Hơn nữa, thậm chí sau khi một ứng sinh nào đó ‘không vâng phục’, thì thật là khó để người ta có thể đón nhận những sai lầm của họ và chấp nhận họ, đặc biệt là trước thẩm quyền. Chúng ta có khuynh hướng biện minh cho những hành động của mình và cụ thể là cho những sai lầm của mình, vì khi chấp nhận chúng là chúng ta hạ thấp tính tự tôn của chính mình. Trong thực tế, thật đáng ngạc nhiên khi một ai đó có thể đi quá xa để bảo vệ cho cái bản ngã của mình khỏi những việc làm sai trái. Tâm lý học ngày nay cho thấy một danh sách dài ‘những trò lừa bịp’ hay trò đùa mà người ta dùng, những cơ chế bảo vệ mà chúng ta dùng để thoát khỏi mọi sự xấu hổ.

Lý do vì sao mà những trò lừa bịp này không được chú ý ngay cả bởi những thủ phạm của nó, đó là chúng ta bắt đầu thử nghiệm trong một thời kỳ quá sớm để khám phá ra những trò lừa bịp hoạt động mạnh nhất nơi những con người này. Khi điều này đã trở thành một thói quen, thì hầu như nó sẽ trở thành bản chất thứ hai của chúng ta, kết quả là chúng ta không để ý rằng chúng ta đang phản ứng một cách tự vệ. Điều này khiến cho một người chân thật khám phá và để ý đến ‘sự không chân thật’ trong cách hành xử của mình, và hơn thế, một người khỏe mạnh sẽ làm một điều gì đó để thay đổi cách hành xử sai trái này! Tuy nhiên, chỉ có tình yêu và sự chấp nhận mới có thể làm cho một ai đó bình tĩnh giải quyết cách cư xử nguy hại này, và đó là điều mà cha Eymard đề nghị các nhà đào tạo sử dụng trong công việc của mình.

Xin kể một câu truyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ nói về cuộc thi đấu giữa Mặt Trời và Gió xem ai là người mạnh hơn, để giải thích rõ hơn về nguyên tắc này. Mặt Trời và Gió chọn một người nông dân đang đi bộ trên đường, ông ta đang trùm quanh người một tấm mền vào một buổi sáng mùa đông buốt giá, cả Mặt Trời và Gió mới quyết định xem ai có thể làm cho người nông dân này cởi bỏ tấm mền đó ra thì sẽ được xem là người mạnh hơn. Gió bắt đầu nổi giận và dùng hết sức của mình mà thổi, nhưng Gió càng thổi mạnh, người nông dân lại càng cảm thấy lạnh hơn và lại càng quấn chặt tấm mền hơn. Mặt Trời tiếp sức sau khi Gió bỏ cuộc, và Mặt Trời bắt đầu tỏa sáng hơn, sáng hơn nữa. Trong vài phút, người nông dân bắt đầu cảm thấy nóng và tự động cởi bỏ chiếc mền ra và Mặt Trời được xem là người chiến thắng. Cũng thế, không phải là sức mạnh nhưng chính là hơi ấm của tình yêu mới vượt qua được Cái Tôi nơi chúng ta!

 

Ngày 30/8

“Đừng bao giờ để mình bị tác động bởi ác cảm đối với bất kỳ đứa con nào của mình; đó là một cơn cám dỗ thường xuyên của ma quỷ.” [Gửi cho cha Micae Cha-nu-ê, tháng 1/1867]

Trong mọi cấp bậc giáo dục, có một chân lý được chấp nhận là nếu một sinh viên không thích giáo sư của mình đặc biệt vì vị này khắt khe, nghiêm khắc hay đòi hỏi quá đáng, thì sinh viên ấy cũng sẽ chẳng thích thú gì với môn học mà vị giáo sư này dạy. Khi nhận ra sứ vụ của mình là làm cho tình yêu Thiên Chúa trở thành nguyên lý hướng dẫn trong đời sống của các Ki-tô hữu mà mình liên hệ tới, cha Eymard cảnh báo là không nên nối kết bất kỳ một cảm xúc tiêu cực nào, chẳng hạn như: ác cảm, sự nghiêm khắc không cần thiết phát xuất từ nỗi đau của cái tôi nơi chính mình với những cố gắng trong việc giáo dục con người, cụ thể là theo đường lối của Thiên Chúa. Cha xem những cách làm này như một cơn cám dỗ của ma quỷ mà sẽ đưa đến kết quả là: có thể sẽ đánh mất người ứng viên ấy mãi mãi.

Thay vào đó, cha khuyên rằng tình yêu là phẩm chất cao siêu trong mọi công tác giáo dục. Vì vậy, quả thực là cách làm bằng tình yêu thì đòi hỏi nhiều hơn và có lẽ đem lại những kết quả như mong muốn chậm hơn. Mặt khác, nỗi sợ hãi sẽ tạo ra những kết quả tức thời và gần như là 100%, đặc biệt nếu nỗi sợ hãi ấy được áp dụng đúng thời và theo một phương thế hợp lý. Không ai muốn mình thi rớt, bị đuổi học, hoặc bị khinh miệt trước người khác, vì thế họ sẽ làm bất cứ điều gì để tránh những hậu quả không mong muốn này. Thế nhưng, sự thật đáng buồn về nỗi sợ hãi như một bầu khí mà qua đó dạy cho người ta những chân lý quan trọng liên quan đến cuộc sống, đó là khi người ta phát huy nỗi sợ hãi, người ta sẽ quẳng đi tất cả những gì được truyền lệnh hay bắt phải ưng thuận vì sợ hãi. Vì thế, những kết quả có ấn tượng lúc ban đầu thì hiếm khi kéo dài được.

Trái lại, tình yêu có thể bị hiểu lầm và bị làm cho trở nên mềm mỏng hay yếu ớt, và nhiều người lợi dụng lòng tốt được biểu hiện trong những tình huống như vậy. Chỉ khi người ứng viên hiểu ra rằng những gì được chuyển đến cho họ là vì muốn điều tốt cho họ, thì họ sẽ nội tâm hóa sứ điệp và sẽ sống sứ điệp ấy. Vì thế, con đường của tình yêu trong đào tạo thì liều lĩnh hơn và bấp bênh hơn khi nhìn đến những kết quả, nhưng trong chặng đường dài, nó sẽ hiệu quả hơn.

Thật không may, hầu như tất cả các nhà đào tạo, không biết họ được hướng dẫn để đối đầu với nghịch cảnh nhiều như thế nào, dường như là thích con đường khắt khe, trừng phạt, lạm quyền hơn. Điều này làm cho vị giáo sư cảm thấy mình là người bề trên và là người ra lệnh, nó sẽ đưa đến những kết quả tốt và tức thời và được mọi người ngưỡng mộ! Nó cướp đi khỏi người ta sự khiêm nhường cao thượng và sức mạnh nội tâm để có thể chọn lựa con đường của tình yêu. Hơn thế, nếu người này cảm nghiệm sức mạnh thực sự của tình yêu, bấy giờ trong suốt cuộc đời, người ấy sẽ dùng nó một cách sắc sảo. Bên dưới cách làm này, ẩn chứa một sự kính trọng to lớn đối với sự huyền nhiệm là: mỗi con người là một mầu nhiệm! Vả lại, khi chúng ta xem xét kỹ phương pháp mà chính Thiên Chúa dùng trong việc đào luyện chúng ta, thì chúng ta nhận ra rằng cách làm của Ngài là cách làm của tình yêu… một tình yêu trao ban cho chúng ta như chính Ngài nói ‘Hãy cầm lấy mà ăn. Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em!’

 

Ngày 31/8

“Mục tiêu mà chúng ta đưa ra cho cộng đoàn nhỏ bé của chúng ta, đó là: làm vinh danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, theo đúng mục đích của hy tế, nghĩa là tôn thờ [Thiên Chúa], tạ ơn, đền tội và thỉnh nguyện, nói cách khác, đó là một sứ vụ cầu nguyện kéo dài. Chúng ta quan tâm đến Nhiệm Tích này trong sự viên mãn của Nhiệm Tích ấy.” (Cha Eymard, 1867)

Trong bài suy niệm này, chúng ta sẽ chủ yếu tập trung vào câu cuối mà trong đó cha Eymard hầu như sử dụng những từ ngữ mang tính tiên báo. Mục tiêu của cha chính là quan tâm đến Thánh Thể trong sự sung mãn, chứ không đơn thuần như một lời mời đến Cầu Nguyện trước Thánh Thể. Thật không may, trải qua nhiều năm, Hội Dòng lại quay về hình thức một nhóm cầu nguyện với việc tôn thờ kéo dài chi phối tất cả các cộng đoàn. Thực ra, cho tới Công Đồng Vaticano II, các tu sĩ Thánh Thể, cả nam lẫn nữ, hầu như sống chiêm niệm với một sứ vụ nhỏ bé là thăng tiến việc cầu nguyện, giải tội và tư vấn vốn đi kèm với việc giải tội. Thậm chí họ được khuyên bảo rằng trong tinh thần Tự Hiến, họ hy sinh mọi ước muốn cho tiến bộ cá nhân trong lĩnh vực giáo dục, chuyên môn,… Họ được xem là những chuyên gia trong việc cầu nguyện.

Thế nhưng, tầm nhìn của cha Eymard quá rõ: Cha đã ao ước một sự hiểu biết rộng hơn về Thánh Thể và điều đó đã được đề cập đến trong Huấn quyền của Vaticano II. Vào năm 1967, Hội Dòng được thẩm quyền ở Rô-ma chỉ thị rằng các tu sĩ cần phải tập trung vào toàn bộ mầu nhiệm Thánh Thể khởi đi với việc cử hành là trung tâm và cầu nguyện trước Thánh Thể kéo dài sự hiện diện đó, cùng với những hình thức hoạt động tông đồ khác của Thánh Thể. Nếu các tu sĩ Thánh Thể không đạt được điều này, thì tốt hơn hết là họ nên đóng cửa bởi vì cách tiếp cận một phía đối với Thánh Thể sẽ không làm nên ý nghĩa gì hết. Huấn thị từ Rô-ma này đã tạo nên một sự biến động đột ngột to lớn trong Hội Dòng đối với nhiều tu sĩ đã từ bỏ Hiến Pháp, một sự giảm sút ơn gọi đáng quan tâm cũng như những vấn đề khác có liên quan. Tuy nhiên, toàn thể Hội Dòng đã nỗ lực để canh tân cách tiếp cận này và sử dụng Bản Luật Sống được chỉnh sửa tạm thời (thử nghiệm) trong vòng 10 năm.

Rút kinh nghiệm của mười năm đó, cuối cùng Hội Dòng đã đưa ra một Bản Luật Sống mới và sau khi được Rô-ma chấp nhận vào năm 1984, Hội Dòng đã bắt đầu quy hướng về toàn bộ mầu nhiệm Thánh Thể. Ngày nay, điều được nhấn mạnh không chỉ những tu sĩ của Hội Dòng Thánh Thể mà cả các Ki-tô hữu, đó là Việc Cử Hành phải là trung tâm và chiếm phần lớn sự chú ý của chúng ta. Những gì được cử hành phải được nội tâm hóa qua việc cầu nguyện trước Thánh Thể và sau đó là sống mầu nhiệm ấy trong suốt ngày sống. Trong các hoạt động tông đồ được đề ra đối với các tu sĩ Thánh Thể, có 7 nhóm khác nhau được đề cập đến, tất cả đều bắt nguồn từ Thánh Thể và trở về với trung tâm của nó. Những nhóm này rất rộng và bao trùm mọi lĩnh vực, chẳng hạn như: đại kết, sinh thái, quan tâm đến môi trường, nghiên cứu Thánh Thể đã được hiểu và cử hành qua nhiều thế kỷ, phúc âm hóa, vừa trực tiếp vừa gián tiếp, thăng tiến xã hội, Kinh Thánh, Phụng vụ, thậm chí cả chính trị nữa. Hầu như mọi thứ đều có thể liên kết với Thánh Thể vốn được xem như là ‘nguồn mạch và chóp đỉnh của Hội Thánh’! Chính trong sự toàn thể này mà tu sĩ Thánh Thể tìm cách làm vinh danh và đáp trả lại quà tặng của chính Đức Giê-su đã ban cho Hội Thánh qua Thánh Thể!

Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, SSS

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.