365 Ngày Với Cha Thánh Eymard – Tháng 12

365 NGÀY VỚI CHA THÁNH EYMARD – THÁNG 12

 

Ngày 1/12

“Ơn gọi Thánh Thể luôn luôn chứa đựng những dấu vết của niềm Đam mê, vì Thánh Thể chính là một sự nối tiếp tuyệt vời và vĩnh viễn của niềm Đam mê.” [Gửi cho một nữ sáng lập viên của một Hội Chầu, tháng 10/1865]

Ở đây, cha Eymard muốn đề cập đến những đặc điểm được tìm thấy nơi ơn gọi của một hội viên chầu. Nếu Thánh Thể là hoa trái của việc hiến mình nơi Đức Giê-su cho đến chết, chết trên thập giá, thì việc dành thời giờ quý báu để cầu nguyện trước Nhiệm Tích Thánh Thể sẽ cần thiết phải đào sâu phẩm chất tự hiến mình này nơi người hội viên chầu. Tuy nhiên, vào thời cha Eymard, việc cầu nguyện trước Thánh Thể không có được những thuận lợi như ngày nay.

Vì một điều là, biểu tượng mà qua đó Chúa Giê-su hiến ban chính mình Người cho chúng ta được xem xét một cách nghiêm túc hơn trong thời đại chúng ta. Nó không chỉ được xem như một dấu chỉ hay cử chỉ đơn giản, nhưng thực sự hiện thân của nó là gì. Vì thế, điều trước tiên chúng ta làm khi đến trước Thánh Thể đó là ‘đọc ra dấu chỉ’ mà nơi đó Thánh Thể không chỉ là bánh, nhưng là bánh đã được bẻ ra và được phân phát để ăn. Rõ ràng là sự nhận thức này kéo chúng ta trở lại với Phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giê-su, vào đêm trước khi chịu tử nạn, đã cầm lấy bánh, và sau đó Người dâng lời tạ ơn, Người bẻ ra và trao cho các môn đệ để nhắc nhở họ rằng đây thực sự là một biểu tượng, hiện thân của chính Người, giờ đây được bẻ ra và trao cho họ. Bấy giờ cầu nguyện trước Thánh Thể sẽ làm cho chúng ta tự hỏi mình rằng “Nếu Chúa Giê-su đã bẻ chính mình ra vì tình yêu dành cho tôi, thì có thể Người đang mời gọi tôi bẻ nát cuộc đời mình ra vì tình yêu dành cho Người?”

Câu trả lời cho câu hỏi này rõ ràng sẽ dẫn chúng ta tới niềm đam mê của chính mình được cảm nghiệm trong suốt ngày sống, khi ấy chúng ta vui mừng nói mỗi khi có dịp: ‘Lạy Cha, xin đừng theo ý con nhưng xin cho ý Cha được thể hiện trong cuộc đời con!’ Nếu chúng ta cũng có thể sống điều này một cách trung thành như Chúa Giê-su đã làm, cho đến khi Người đổ hết giọt máu cuối cùng, bấy giờ chúng ta sẽ trở nên những Hội viên Chầu thực sự. Vì Chúa Giê-su muốn những Hội viên Chầu không chỉ dâng cho Người một vài lời an ủi, nhưng đúng hơn là công trình cứu độ của Người có thể tiếp tục và đến được với tất cả nhân loại. ‘Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một người mục tử’ (Ga 10,16).

Bây giờ, Chúa Giê-su đã đến để tẩy xóa mọi tội lỗi của thế gian. Trong Kinh Thánh, tội lỗi được diễn tả như “sự không vâng phục” (St 3,1-12). Vì thế, nếu tội lỗi là sự không vâng phục, thì con đường duy nhất để Chúa Giê-su có thể tẩy xóa tội lỗi của thế gian chính là sự vâng phục. Và nếu chúng ta tiếp tục công trình cứu độ của Người, thì điều ấy chỉ có thể thực hiện được bằng việc kết hợp sự vâng phục chân thành của chúng ta với sự vâng phục của Người và dâng nó lên Chúa Cha. Đây là tất cả những gì Chúa Giê-su mời gọi chúng ta khi Người nói ‘Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy!’. Thánh Lễ của chúng ta, việc cầu nguyện trước Thánh Thể của chúng ta và cuộc sống thực sự của chúng ta cũng phải diễn ra y như vậy. Mặc dù không được diễn tả bằng những thuật ngữ này, nhưng chắc chắn đây là điều cha Eymard muốn chuyển tải bằng ngôn ngữ của chính mình, phù hợp với thời đại mà cha sống.

 

Ngày 2/12

“Nói một cách nào đó, hãy làm cho cuộc đời của con bén rễ sâu trong sự tích cực (suy xét) của chân lý, ân sủng và sự tốt lành của Thiên Chúa, và cuối cùng là trong tình yêu trao ban và đón nhận một cách đằm thắm.” [Gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 1/1866]

Khi nhìn thoáng qua cuộc đời và sứ vụ của cha Eymard, chúng ta để ý rằng nhờ một ân sủng đặc biệt được ban cho cha, cha đã nhấn mạnh đến mặt tích cực của lời đáp trả của chúng ta đối với lời mời gọi của Thiên Chúa đó là trở nên con cái Ngài. Trong tất cả các tác phẩm cũng như giáo huấn của mình, cha đã lập đi lập lại khía cạnh tình yêu hơn là sự hoán cải, sự tự hủy cái tôi, chú trọng quá nhiều vào tội lỗi và hệ quả tiêu cực của nó. Cha luôn luôn động viên những người con linh hướng của mình nhìn theo hướng tích cực, thực vậy, cha khẳng định rằng họ được bén rễ nơi khía cạnh tích cực của Chân Lý về sự tốt lành, tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa hơn là nơi những khía cạnh tiêu cực chẳng hạn như sự công bằng và sự trừng phạt của Ngài.

Mặc dù hầu hết những người khác không tìm được một điều gì đó từ các Sách Tin Mừng, thì chính cha lại tự ràng buộc mình phải đọc hai chương Kinh Thánh mỗi ngày, điều mà cha đã thực hiện trong suốt quãng đời linh mục, cha không thể bỏ lỡ mặc khải chân thật này của Chúa Giê-su. Thậm chí dụ ngôn quen thuộc nhất về Người con hoang đàng được nhắc đến trong Tin Mừng Luca chương 15 ‘Tất cả các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư liền xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này…’ (15,1-2). Cách Đức Giê-su giải quyết vấn đề của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình là một trường hợp khác mà chúng ta thấy rõ điều Người ưa thích là gì (Ga 8,1-11). Ngược lại với nền tảng của phái Giăng-xê-nít vốn đã ảnh hưởng sâu đậm trong thời đại mình, việc nhấn mạnh của cha Eymard về khía cạnh tích cực, về tình yêu như là tâm điểm trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, thể hiện đóng góp chân thành của cha cho Hội Thánh trong thời đại của cha.

Tuy nhiên, con đường của cha không êm đềm, cũng chẳng ngọt ngào chút nào. Cha đã sống điều cha thường loan báo ‘Nơi Thánh Thể, Thiên Chúa hiến ban chính mình (chứ không chỉ một vật gì đó) hoàn toàn cho tôi, vì thế qua Thánh Thể, tôi cũng ao ước dâng hiến chính mình (cũng không phải chỉ là một vật gì đó ở dưới thế này) hoàn toàn cho Ngài. Đây là điều cha đã nhấn mạnh khi khuyên những người con linh hướng của mình, cha khuyên họ nên đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa với cùng một tình yêu mà họ sẽ tìm thấy qua việc dâng hiến cuộc đời mình một cách vui vẻ và quảng đại hơn. Vì tình yêu không chỉ cho đi, nhưng cho đi tất cả mà không tính toán.

Câu chuyện về người đàn bà trong Tin Mừng đã đến gặp Đức Giê-su khi Người ngồi vào bàn ăn tại nhà ông Si-môn cùi quả thực là quá rõ! Khi bà đập vỡ bình sành và đổ rượu lên đầu Người, bà đã dâng cho Đức Giê-su không chỉ thứ dầu cam tùng nguyên chất, nhưng còn dâng chiếc bình sành bằng thạch cao đắt tiền nữa. Chính vì vậy cha Eymard động viên chúng ta, thậm chí là ngay hôm nay, hãy dâng hiến tất cả cho tình yêu mà Chúa Cha đã tuôn đổ trên chúng ta khi kêu gọi chúng ta trở thành con cái yêu dấu của Ngài. Tình yêu, khi chân thành và bằng cả tấm lòng, sẽ không bao giờ nói ‘đủ’ nhưng vẫn tiếp tục cho đi đến cùng, và còn gì hơn, niềm vui sướng trong việc cho đi, xem đó như một đặc ân được chọn lựa để cho đi mãi mãi.

 

Ngày 3/12

“Vì yêu mến Chúa là tất cả, được Người yêu thương là hạnh phúc lớn lao, phục vụ Người bằng nhân đức và sự vâng phục là sự trọn hảo tuyệt vời” [gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 9 năm 1865]

Nói một cách ngắn gọn, câu trích dẫn này của cha Eymard rất giàu ý nghĩa. Lúc đầu, trong sứ điệp gửi cho người con linh hướng của mình, có thể cha đã giải thích rằng tất cả những gì họ muốn dâng lên Chúa sẽ không tốt nếu nó không phát xuất từ tình yêu. Chúng ta có thể tóm kết sứ điệp của cha qua những lời của thánh Phao-lô: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,1-7).

Một sự trở về tận căn với tình yêu sẽ không thể xảy ra nếu trước tiên chính chúng ta không cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Chúa Cha. Không nghi ngờ gì, sự nhận thức này sẽ là của chúng ta chỉ khi chúng ta luôn biết nhìn vào những điều kỳ diệu mà qua đó Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương chúng ta trong mọi khoảnh khắc của ngày sống. Khi chúng ta đọc Kinh Thánh hay tốt hơn nữa là có người khác đọc cho chúng ta nghe, cụ thể là trong phần Phụng vụ Lời Chúa, sau tất cả các bài đọc, chúng ta cần giữ thinh lặng và lắng nghe Thiên Chúa nói với chúng ta: ‘Các ngươi có biết Ta yêu thương các người biết dường nào?’ Đây là câu hỏi mà Gia-vê Thiên Chúa đã đặt ra với dân Ít-ra-en thông qua Mô-sê khi họ sẵn sàng để ký kết Giao ước với Ngài tại chân núi Si-nai: “Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta…” (Xh 19,3-5).

Thật không may, hầu hết các Ki-tô hữu đã không giữ thinh lặng sau các bài đọc để cảm nghiệm tình yêu bao la của Chúa Cha, thế nên lời đáp trả của họ đối với tình yêu ấy rõ ràng là chỉ dừng lại như một cách giải quyết phát xuất từ cái đầu chứ không phải từ con tim! Nhưng nếu chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mình, thậm chí là ở mức độ thể lý của cảm giác, nơi tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, được diễn tả qua nhiều cách khác nhau, bấy giờ mục tiêu của chúng ta là phục vụ Ngài bằng nhân đức và sự vâng phục, như cha Eymard đề nghị.

Nhân đức mà cha nhắc đến không xuất hiện trong cuộc đời chúng ta vì chúng ta đã siêng năng trau dồi nhân đức này qua việc thường xuyên suy niệm và kiểm điểm cẩn thận lương tâm của mình đó cũng sẽ là một nỗ lực hướng về bản thân và sẽ kết thúc mà không sinh hoa kết quả và mang tính giả tạo. Đúng hơn, nhân đức này sẽ nở rộ trong cuộc đời chúng ta vì chúng ta đã mở lòng mình ra để quyền năng biến đổi của Thánh Linh, Đấng thực sự biến đổi chúng ta trong Đức Ki-tô hơn là chúng ta có thể tự mình biến đổi. Bao lâu chúng ta không gây cản trở cho công việc của Ngài thực hiện trong cuộc đời chúng ta bằng chính cái tôi của mình, chắc chắn Ngài sẽ tác tạo và nắn đúc chúng ta trong Đức Ki-tô một cách rất hiệu quả.

Sau cùng, phẩm chất duy nhất mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta đó là sự vâng phục đầy yêu thương của chúng ta, sự sẵn sàng để nói ‘Có’ với Ngài mà không quan tâm đến việc Ngài đòi hỏi chúng ta là gì. Đó chính là phẩm chất xuất hiện trong cuộc đời của Chúa Giê-su như đã được diễn tả trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê 2,5-11 – ‘Người đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá…!’

 

Ngày 4/12

“Kinh nghiệm là khoa học vĩ đại của cuộc sống” [Gửi cho cô Maria Gaudion, tháng 5/1865]

Thật sự là đáng kinh ngạc biết bao khi cha Eymard đã quá quen thuộc với việc tự nhận thức về bản thân. Trong khi khả năng tự nhận thức này là một trong những khả năng rõ ràng nhất thuộc về con người mà qua đó Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta, thì thật không may nhiều người đã không để ý đến những gì đang diễn ra trong tâm trí và tâm hồn của mình trong suốt ngày sống. Khi chúng ta cẩn thận để ý đến ‘máy thu hình’ hay máy thu âm bên trong luôn luôn hoạt động trong tâm trí chúng ta, chúng ta sẽ phát huy được khả năng học hỏi từ kinh nghiệm mà ở đây cha Eymard gọi là ‘khoa học vĩ đại của cuộc sống.’

Cách đơn giản nhất để tìm được lợi ích từ tất cả những kinh nghiệm hình thành nên sợi ngang dọc trong cuộc đời chúng ta đó là thực hành nghệ thuật biến chuyển tất cả ‘những kinh nghiệm thô sơ’ thành ‘những kinh nghiệm sống’. Tất cả những gì chúng ta trải qua, tốt hay xấu, trong suốt những khoảnh khắc bừng tỉnh của chúng ta, cũng có thể được gọi là những kinh nghiệm ‘thô sơ’ về cuộc sống, chất liệu thô mà Thiên Chúa dùng để chuyển trao tình yêu của Ngài cho chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn chỉ dừng lại ở những chất liệu thô này, chúng ta sẽ chẳng tìm được điều gì có giá trị cả. Chẳng hạn, khi vải cotton được kéo sợi và dệt thành quần áo, thì chúng ta có được một thứ có giá trị. Cũng vậy, chúng ta cần nhớ lại những biến cố trong ngày, phân định xem Chúa đang nói gì với chúng ta qua những biến cố ấy nhằm mục đích sinh ích lợi và đem lại bài học cho chúng ta.

Tất cả chúng ta nhận thấy rằng Thiên Chúa nói với chúng ta bằng lời, nhưng cũng bằng hành động nữa. Và đó là lý do vì sao từ ‘dabar’ trong tiếng Do Thái được dùng để chỉ cả lời lẫn hành động của Thiên Chúa. Do đó, sự việc tôi bị trễ xe buýt để có thể đến đúng giờ và để hoàn thành mục đích của mình là đi vào thành phố -có thể là điều Thiên Chúa đang nói với tôi rằng Ngài có một kế hoạch khác dành cho tôi, kế hoạch của riêng Ngài, và là kế hoạch tốt hơn. Qua việc lỡ xe buýt và phải chờ đợi (nếu tôi vui vẻ đón nhận kinh nghiệm không may đã đẩy những dự định của tôi chệch đường rầy!), có thể xảy ra là tôi đã gặp một người bạn và để tai lắng nghe cũng như giúp anh gỡ rối những phiền phức và nỗi thống khổ của anh. Việc lỡ xe buýt có thể biến tôi trở thành một ‘người Samari nhân hậu’ đối với những người thân cận đang cần trợ giúp và đem lại cho họ ơn lành của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, chính khi tôi biết ngồi lại và suy nghĩ xem nếu mình đón được xe buýt theo như dự định của mình, thì mình sẽ không có cơ hội để cảm nghiệm được niềm vui phục vụ tha nhân, đó là lúc tôi tìm được một lý do có ý nghĩa cho việc lỡ xe của mình. Bấy giờ, tôi có thể tạ ơn Chúa vì đã để cho tôi lỡ chuyến xe buýt đó. Kinh nghiệm ‘ban đầu’ của sự bất tiện này sẽ trở nên một kinh nghiệm ‘sống’ có ý nghĩa và có mục đích.

Chỉ khi nào chúng ta biết tự đào luyện mình để thường xuyên phản tỉnh, chúng ta mới bắt đầu học hỏi được từ những kinh nghiệm trong cuộc sống của mình. Kinh nghiệm sâu sắc của Phao-lô ‘Chúng ta biết rằng: mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa, tức là cho những kẻ được kêu gọi theo ý định của Người’ (Rm 8,28), mời gọi chúng ta biến đổi những kinh nghiệm ban đầu của mỗi ngày sống thành một thông điệp đầy ý nghĩa đến từ Chúa và đáp lại lời Ngài bằng tình yêu và lòng biết ơn.

 

Ngày 5/12

“Hãy ở lại trong nhà Chúa, trong sự nhân lành của Người Cha, giống như một đứa trẻ chẳng biết sự gì cả, chẳng làm gì cả, chỉ biết phá hỏng mọi thứ, nhưng biết cư ngụ trong sự tốt lành này.” [Gửi cho Bá tước D’Andigne, tháng 3/1865]

Cha Eymard bắt đầu lời khuyên này bằng việc lặp lại lời mà chính Chúa Giê-su đã nói trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly “Thầy là cây nho thật, anh em là cành… hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… nếu anh em không ở lại trong Thầy và Thầy không ở lại trong anh em, anh em sẽ không thể sinh hoa trái” (Ga 15,5-9). Chúng ta nhớ rằng việc ở lại muốn nói đến một điều gì đó mang tính vĩnh viễn chứ không chỉ đơn thuần là việc ghé thăm nhà. Nó hàm ý rằng chính chúng ta ở lại trong nhà của Thiên Chúa và không cảm thấy xấu hổ hay e thẹn trước mặt Ngài. Điều đó chỉ có thể xảy ra khi chúng ta biết chấp nhận địa vị là con cái Thiên Chúa bằng cả tấm lòng. Qua Giao ước, Ngài tự ý trao tặng cho chúng ta sự sống thần linh của Ngài.

Khi chúng ta nhận ra rằng không chỉ ở mức độ trí tuệ nhưng chủ yếu là ở mức độ cảm xúc, sự yếu đuối cũng như những thất bại của chúng ta không làm cho tình yêu Thiên Chúa xa rời chúng ta; thay vào đó sự yếu đuối của chúng ta sẽ kéo Ngài đến gần với chúng ta, vì Ngài hoàn toàn biết rằng chúng ta không thể tự giúp mình bằng chính sức lực của mình, bấy giờ chúng ta không việc gì phải sợ hãi cả. Thiên Chúa không ngạc nhiên hay xấu hổ vì những thất bại của chúng ta, nhưng mỗi một sự giới hạn của chúng ta sẽ kéo Ngài đến gần chúng ta hơn. Như Ngài đã hứa trong sách ngôn sứ I-sai-a chương 40: ‘Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt’ (40,11). Sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Ngài ở chỗ ‘cây lau bị giập, không nỡ bẻ gãy. Tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi’ (Is 42,3). Trong thực tế, chính chúng ta là người biết rõ nhất sự yếu hèn của mình vì chúng ta tưởng tượng ra rằng những thất bại của chúng ta sẽ làm cho chúng ta ít biết đón nhận người khác và thậm chí là cả Thiên Chúa nữa!

Vả lại, ở đây chúng ta nhận ra âm mưu xảo quyệt của Cái Tôi. Chúng ta tin rằng chúng ta phải tuyệt đối hoàn hảo trước khi chúng ta có thể chấp nhận người khác, kế đó chúng ta tưởng tượng ra rằng Thiên Chúa, Cha của chúng ta, cũng như thế. Mặc dù đã bao lần và bằng nhiều cách thức tuyệt vời, Thiên Chúa cảnh tỉnh chúng ta rằng chúng ta được Ngài yêu như chúng ta , nhưng đôi lúc chúng ta chối từ để tin, vì thế mà làm cho cuộc đời mình trở nên buồn tẻ và luôn bận tâm để trở nên hoàn hảo!

Ý tưởng về sự ở lại an bình trong nhà Chúa được khắc họa trong Thánh vịnh 131: ‘Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi. Đường cao vọng chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu. Hồn con, con vẫn trước sau. Giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui.’ (1-2).

Thật là một sự khuây khỏa khi có được niềm tin vào tình yêu của Chúa Cha dành cho chúng ta. Thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su chỉ ra cho chúng ta niềm hạnh phúc của cách làm này qua chính cuộc đời của chị. Nếu việc thực hành này là một ân huệ, thì nó cũng cần một sự trau dồi chăm chỉ từ phía chúng ta. Và phần hay nhất của câu chuyện chính là Chúa, trong sự nhân lành, sẽ ban cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để phát triển nghệ thuật chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa về những gì xảy đến cho chúng ta, vì chúng ta xem nó như một ơn lành ngay cả khi nó xuất hiện như một điều gì đó tiêu cực và đau khổ. Hơn nữa, chúng ta càng chúc tụng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, chúng ta lại càng sẵn sàng và hớn hở để dâng hiến chính mình cho bàn tay yêu thương của Ngài.

 

Ngày 6/12

“Chúa chúng ta yêu quý trẻ thơ -vì trẻ thơ chóng quên những phiền phức đã qua và luôn luôn sống giây phút hiện tại. Đó là điều đem lại cho chúng sự đơn sơ và bình an.” [gửi cho bà Benoite Richard, tháng 3 năm 1865]

Trẻ thơ có thể được miêu tả qua nhiều đặc điểm, nhưng những đặc điểm chủ yếu được chỉ ra trong Kinh Thánh đó là: sự nhỏ bé và sự bất lực không thể tự giúp mình được trong mọi tình huống. Khi Chúa Giê-su gọi một em nhỏ lại và đặt trước mặt các tông đồ, những người vừa mới tranh luận xem ai là người lớn nhất trong số họ, Ngài bảo các ông ‘Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ thơ thì sẽ chẳng được vào’ (Mc 10,15).

Có lẽ không có phẩm chất nào mà Thiên Chúa yêu thích hơn cho bằng việc chúng ta trở nên giống trẻ thơ trước Nhan Người. Thật tình mà nói, bất chấp mọi tiến bộ về trí tuệ và khoa học của chúng ta, thì khi nhìn vào bức tranh toàn cảnh của vũ trụ đang trải rộng trước mắt chúng ta, chúng ta mau chóng nhận ra chúng ta quá nhỏ bé và tầm thường biết bao trước toàn bộ công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Nhưng dường như chúng ta muốn điều khiển cuộc đời mình để đi đến thành công cuối cùng dựa vào sức lực của chính mình! ‘Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố’ (Mt 15,14).

Làm thế nào chúng ta có thể tự đào luyện mình để phát huy phẩm chất đáng yêu này đó là trở nên giống trẻ thơ, đặc biệt trong cách đối xử của ta với Thiên Chúa? Ở đây, tiến trình này cũng phải bắt đầu với việc quy hướng về Thiên Chúa.

Chúng ta cần quan sát một cách cẩn thận xem Chúa Giê-su đối xử với trẻ thơ như thế nào. Khi các tông đồ ngăn cản các bậc cha mẹ đưa con cái của mình đến để được Chúa Giê-su chúc lành, ‘Ngài bực mình nói với các ông, “Cứ để trẻ em đến với Thầy; đừng ngăn cấm chúng; vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”’ (Mc 10,14). Người rất nhẹ nhàng và đón nhận chúng, không đòi hỏi ở chúng bất cứ điều gì như chúng ta vẫn thường làm hay tưởng tượng rằng Ngài sẽ làm như vậy. Có lẽ điều làm cho trẻ thơ đến gần với Chúa Giê-su chính là tính mạnh dạn, ngây thơ và đơn sơ của chúng- chúng nắm lấy mọi thứ, đặc biệt khi được cha mẹ cho phép, bên cạnh đó, chúng bằng lòng với sự nhỏ bé của mình. Dĩ nhiên, điều này chỉ đúng cho tới khi chúng trưởng thành và được người lớn hướng dẫn để bỏ đi những cái tôi đang lớn dần của mình.

Chúng dễ dàng thỏa mãn với sự nhỏ bé của mình, và do đó cũng hài lòng với những gì mình có. Thậm chí dù chỉ một đồ vật rẻ tiền không có giá trị cũng đủ làm cho chúng vui thích hàng giờ. Nhưng khi đối xử với Cha của chúng ta, Ngài ban cho chúng ta những gì là tốt nhất - Chúng ta lại không cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn khi ở trước Nhan Ngài, đặc biệt khi chúng ta biết cách ở lại trong nhà của Ngài cũng như ở lại trong tình yêu của Ngài? Nguyên việc ở trước Nhan Ngài thôi cũng đủ làm cho chúng ta hài lòng mà không phải lo nghĩ đến quá khứ hoặc tương lai! Những điều này sẽ được Chúa Cha đầy lòng yêu thương lo liệu, không cần chúng ta phải làm bất cứ việc gì cả. Quả thật, với cách làm này, chúng ta có thể bình an thư thái trong suốt cuộc đời, thậm chí giữa những sóng gió hay những thử thách ghê gớm nhất. Không gì có thể làm phiền chúng ta, “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm… Lòng nhân hậu và tình thương Chúa, ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người, những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23).

 

Ngày 7/12

“Thánh Thể đã chiến thắng. Cha là người đầy tớ hạnh phúc của Thánh Thể và một ngày nào đó, cha hy vọng sẽ trở thành tông đồ nhiệt thành và tận tụy của Thánh Thể.” [Gửi cho bà Sô-vét-tre đờ Bu-ra-li-e, tháng 5/1856]

Khi cha Eymard khẳng định Thánh Thể đã chiến thắng, cha không chỉ đề cập đến nghi lễ hay nghi thức thiết lập Thánh Thể. Đúng hơn, cha đã có trong đầu những gì Thánh Thể muốn diễn tả, cụ thể là sự hiến dâng trọn vẹn bản thân mình của Đức Giê-su. Khi hiểu ra đây chính là trọng tâm của Thánh Thể, cha Eymard đã tìm cách sống điều đó cho chính mình và khắc ghi cách sống ấy nơi tất cả môn đệ của cha.

Một cách cụ thể, điều cha cảm thấy vui sướng trong lời khẳng định này đó là nỗ lực của cha trong việc sáng lập một hội dòng tận hiến cho Thánh Thể đã kết thúc trong sự thể hiện rõ ràng về ý định của Thiên Chúa qua việc Đức Tổng Giám Mục Paris đã chấp thuận dự án của cha. Vì thế, bây giờ tất cả những việc còn lại cha cần phải làm đó là ra sức gầy dựng nhóm này, từng bước từng bước cho đến khi nó có thể trở thành ánh sáng cho muôn dân, loan truyền lửa Thánh Thể cho khắp bốn cõi nước Pháp. Khi đã đào tạo những học trò của mình thành một nhóm môn đệ nhiệt thành, bấy giờ cha có thể đến bất cứ nơi đâu mà Chúa muốn để chia sẻ lý tưởng của mình với tất cả những ai sẽ đón tiếp các học trò của cha.

Ngay cả trong những ngày đầu, cha Eymard đã sáng suốt khi cho rằng chính việc sống Thánh Thể mới quan trọng hơn là việc chỉ biết về Thánh Thể hay thậm chí là giảng dạy về Thánh Thể cho người khác. Như luật sống đầu tiên của Dòng Thánh Thể ngày nay diễn tả: “Chúng ta được kêu gọi sống như anh em với nhau trong Hội Thánh… để sống sung mãn mầu nhiệm Thánh Thể và trình bày ý nghĩa của mầu nhiệm ấy để Đức Ki-tô được hiển trị và vinh quang Thiên Chúa được rạng tỏ trên trần gian” (LS #1).

Dĩ nhiên, mối nguy hiểm ngày nay đó là chúng ta nhấn mạnh nhi ều đến việc làm hơn tất cả những khía cạnh quan trọng của việc . Điều chúng ta là thì có ý nghĩa hơn điều chúng ta nói, do đó chúng ta cần chú ý đến khía cạnh này của việc sống Thánh Thể và xem đó như một thách đố thường xuyên trong mỗi thế hệ. Đức Giê-su đã ban cho chúng ta những thái độ LÀ, những thái độ này không chỉ được xem như những nguyên tắc được hoàn thành và được giới thiệu trong đời sống chúng ta, nhưng còn là một sự diễn tả về phẩm chất của hiện hữu, phát xuất từ chân lý nền tảng liên quan đến vị thế của chúng ta đó là: chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vì thế, nếu chúng ta chỉ có được mối phúc đầu tiên này, tốt hơn hết chúng ta nên giải thích nó theo nghĩa: chúng ta cố gắng làm cho mình có được tinh thần nghèo khó và bấy giờ Nước Thiên Chúa sẽ là của chúng ta.

Nhưng lời khẳng định này sẽ mạnh mẽ hơn khi chúng ta nhớ lại rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Nước Trời ‘Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.’ (Lc 12,32). Khi chúng ta đón nhận Nước Trời bằng cả tấm lòng và sống như một công dân Nước Trời, chúng ta sẽ thấy rằng ước muốn tích trữ những của cải vật chất hay sự đảm bảo về kinh tế cho cuộc sống của mình hay một điều gì khác sẽ tan biến mất. Khi chứng kiến việc này xảy ra, chúng ta có thể đoan chắc rằng cuối cùng Thánh Thể đã giành chiến thắng trên chủ nghĩa cá nhân của chúng ta, và chúng ta cũng có thể tận hưởng niềm vui cùng với cha Eymard!

 

Ngày 8/12

“Yêu quý tình trạng hiện tại của người ta và thánh hiến những đau khổ cũng như những hy sinh của họ, đó là điều mà Chúa Giê-su yêu chuộng hơn tất cả. Vì thế, hãy vui mừng với ý định của Chúa Giê-su.” [Gửi cho cô Giu-ly An-toan Bốt, 1853]

Đôi lúc, người ta cho rằng vì là những Ki-tô hữu, chúng ta phải sống như thể quê hương của chúng ta ở trên trời vậy. Bấy giờ, chúng ta hoạch địch mọi thứ trong tương lai và cố gắng làm cho mình trở nên xứng đáng để được thừa nhận trước tôn nhan vĩnh hằng của Thiên Chúa. ‘Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa’ (Tv 14/15,1-5)- điều này sẽ trở thành kim chỉ nam của chúng ta khi chúng ta sống trên trần gian này. Nhưng Chúa Giê-su đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng Nước Trời của chúng ta đang hiện diện ngay tại trần gian này. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Nước Trời (Lc 12,32), đó không phải là một nơi, cũng không phải là một tình trạng có nhiều của cải vật chất. Mà đúng hơn, đó chính là mối tương quan tình yêu và việc ở lại với Ba Ngôi Thiên Chúa vốn chỉ có thể tận hưởng một cách độc lập với bất kỳ nơi chốn hay điều kiện nào. Đó chính là ưu phẩm của hữu thể, hơn là kết quả của việc làm nên một điều phi thường. Do đó, chúng ta không cần chìm đắm trong ‘thế gian’ này với những khía cạnh tiêu cực của nó, chắc chắn chúng ta cần nghiêm túc chiếm lấy mọi sự xung quanh mình, vì đây là ‘chất liệu ban đầu’ đem đến cho chúng ta những cơ hội để bước vào tương quan tình yêu với Chúa Cha.

Trong khi Thiên Chúa tiếp tục tuôn đổ tình yêu của Ngài trên chúng ta qua mọi thụ tạo xung quanh ta, thì Ngài cũng mời gọi chúng ta trở nên những khí cụ để chia sẻ tình yêu của Ngài với những ai Ngài gửi tới trong cuộc đời chúng ta. Mỗi cuộc giao tiếp chúng ta có đều là một lời mời gọi đến từ Chúa để ‘mở rộng khả năng yêu thương của chúng ta’. Chúng ta càng thể hiện tình yêu của mình trong mọi tình huống, chúng ta càng phát huy khả năng cảm nghiệm về Thiên Chúa và đó là đấu chúng ta đem bên mình khi rời bỏ thế gian này.

Chúa Giê-su đã giải thích điều này trong dụ ngôn những nén bạc. Mỗi người đều được trao một số tiền (không bao giờ đồng đều cho tất cả) và được mời gọi để đầu tư những gì mình đã nhận được. Số tiền mà người ấy thu được khi trình diện trước mặt Ông Chủ vào ngày sau hết sẽ là phần thưởng đời đời cho người ấy- đúng hơn, người ấy có thể được cho nhiều hơn, chứ không bao giờ bị lấy bớt đi. Vì thế, tất cả những gì chúng ta cần làm là tập trung vào mỗi sự kiện, xem đó như sự diễn tả cụ thể về ý định của Thiên Chúa. Bấy giờ, chúng ta tìm cách để sử dụng nó một cách tốt nhất, không phải chỉ cho bản thân chúng ta nhưng còn cho người khác nữa. Mỗi biến cố dù nhỏ đến đâu cũng đều là một thử thách để chúng ta trưởng thành, để làm sinh lợi ‘nén bạc’ đã được trao cho chúng ta. Việc kinh doanh này sẽ đạt hiệu quả nhất khi tình yêu tự hiến là điểm mấu chốt, chứ không phải việc tìm lại bản thân mình. Tình yêu là dầu mà các phù dâu chuẩn bị để đem theo bên mình khi họ đợi chàng rể đến. Dù là có dầu tình mến hay không, thì điều đó cũng trở thành yếu tố quyết định khi chúng ta ra trình diện trước ngai Thiên Chúa. Tình yêu cũng là ‘điều cần thiết nhất’ mà Maria có khi cô ngồi dưới chân Chúa Giê-su để lắng nghe Người, điều duy nhất này sẽ không bao giờ bị lấy đi khỏi cô.

Khi chúng ta tiếp tục đến gần Chúa Giê-su để thi hành bất cứ điều gì Người phán bảo chúng ta làm, như Mẹ Maria đã nói với các gia nhân ở Cana, thì bấy giờ chúng ta không cần phải sợ để sống sung mãn! Thực ra, chúng ta đã bắt đầu sự diễn tả trọn vẹn về sự kết hiệp của chúng ta với Thiên Chúa cũng như những người khác và tất cả mọi vật ngay bây giờ rồi. Quê Trời của chúng ta sẽ chỉ là một sự biểu lộ hoàn hảo về những gì chúng ta để cho Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta khi còn ở thế gian này mà thôi!

 

Ngày 9/12

Ngày 9 tháng 12 năm 2011 (Kỷ niệm ngày phong thánh của cha Eymard do Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tiến hành vào năm 1962; Đức Gioan Phao-lô II đã đưa lễ kính thánh Eymard vào lịch Phụng vụ, năm 1995). “Chúa nhân lành yêu mến con nhiều, cha đoan chắc rằng con cũng yêu mến Ngài, con chỉ ao ước một mình Ngài- đó là điều chắc chắn.” [Gửi cho bà Lepage, tháng 10/1867]

Câu này của cha Eymard có thể được nói với bất kỳ người nào, vì Chúa Giê-su đã chết cho từng người. Khi Thiên Chúa yêu thương, thì Ngài yêu thương tất cả các thụ tạo của Ngài ngang bằng nhau mặc dù Ngài không ban phát những ân huệ của Ngài là như nhau. Ngay cả trong dụ ngôn những nén bạc, chúng ta thấy Ông Chủ trao năm nén cho đầy tớ này, hai nén cho đầy tớ khác và người cuối cùng chỉ có một nén. Cảm thấy mình bị phân biệt đối xử, người đầy tớ sau cùng này đã không làm gì với nén bạc mà anh được giao, nhưng lại đem chôn giấu nó xuống đất và hoàn trả lại khi Ông Chủ trở về. Anh ta đã không nhận ra rằng mình chỉ được trao một nén không phải vì Ông Chủ ít quan tâm đến anh, nhưng vì đó là thước đo khả năng sinh hoa lợi của anh. Nếu anh nhận ra tình thương của Ông Chủ qua nén bạc duy nhất này, có lẽ anh mới chịu làm ăn bằng nén bạc ấy với sự hăng hái nhiệt tình và do đó anh mới nhận được phần thưởng từ Ông Chủ.

Chúng ta không bao giờ có thể quên rằng chúng ta không nên so đo tính toán tình yêu của Chúa dành cho mình theo số lượng những ân huệ hay của cải vật chất chúng ta có. Đó chính là cách mà dân Ít-ra-en đã làm trước mặt Chúa. Họ tin rằng họ càng có nhiều của cải vật chất, họ lại càng được đẹp lòng trước mặt Chúa. Cũng như những đứa con mà họ được Chúa chúc phúc ban cho; do đó một người đàn bà không sinh nở thì cũng giống như đã bị Thiên Chúa nguyền rủa hay bị chối bỏ. Điều này cũng tương tự đối với một người mang nhiều khiếm khuyết về thể lý, chẳng hạn như sinh ra đã bị mù- họ xem những khiếm khuyết này như một sự trừng phạt vì tội lỗi, tội lỗi của chính người ấy cũng như của cha mẹ người ấy. Họ phải mất một thời gian dài để nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người ngang bằng nhau, ngay cả khi Ngài không ban cho mọi người những ân huệ như nhau.

Tuy nhiên, điều quan trọng được ghi khắc trong đầu khi thực hiện một cuộc trở về với Chúa đó là thước đo lòng quảng đại của chúng ta không phải là những gì người khác đã nhận được, nhưng đúng hơn đó là tình yêu và sự quảng đại của Thiên Chúa thể hiện qua việc ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta có. Khi chúng ta nhận ra rằng ngay cả đến những điều nhỏ nhặt chúng ta đang có, chúng ta cũng hoàn toàn không xứng đáng để lãnh nhận nó, chúng ta biết ơn tất cả những gì Chúa làm cho chúng ta và tìm cách quay trở về với một tấm lòng quảng đại tương tự như thế. Và sau cùng, đó là điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, cha Eymard có thể đảm bảo với người con linh hướng của ngài rằng mọi sự sẽ tốt đẹp bao lâu bà ấy tiếp tục đáp trả lại Thiên Chúa với một sự quảng đại cao cả. Thường thì chính chúng ta không thể cân đo đong đếm được lời đáp trả của mình đối với Thiên Chúa, nên chúng ta cần sự ủng hộ và đảm bảo của người khác, những người nhìn chúng ta một cách khách quan.

Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tập trung vào tình trạng tội lỗi của mình, do đó chúng ta tưởng tượng rằng mình không được Chúa Cha chấp nhận. Dưới mắt Ngài, chúng ta bị đánh giá thấp và đó là lý do vì sao chúng ta nhận được ít ân huệ cũng như ít nén bạc hơn. Điều này đưa đến những nỗi lo lắng bồn chồn và tình trạng tồi tệ hơn, so đo với người khác, và dẫn đến sự không hài lòng cũng như vô số những phiền toái khác.

 

Ngày 10/12

“Hãy trở nên một vị thánh, để trên trời có thể cử hành lễ kính của con! Trở nên một vị thánh, yêu mến Chúa chúng ta, hy sinh ngôi vị của con cho Ngài và vui mừng tận hiến cả cuộc đời con cho Ngài.” [Gửi cho cô Ma-gơ-rít Gui-lốt, tháng 11/1866]

Trước tiên, lời đề nghị của cha Eymard muốn ám chỉ đến việc quy hướng về bản thân mình và ra sức làm việc để tìm kiếm phần thưởng trên trời. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nhìn lời khẳng định này dưới một ánh sáng khác nếu chúng ta tự phác họa mình giống như người con hoang đàng mới trở về nhà. Tiệc mừng anh trở về đã bắt đầu từ lúc anh bước vào nhà cha mình, nhưng bản thân anh tự biết rằng còn nhiều điều khác nữa đang xảy đến, vì thế anh cần phải biết ơn và hướng đến tiệc mừng trọng đại hơn.

Khi để ý đến những ý nghĩa mà cha Eymard đề nghị, chúng ta thấy rằng cha không chấp nhận cách thức của một người làm thuê hay người đầy tớ. Tình yêu là cái cụ thể hóa những thành viên trong gia đình, trong khi người đầy tớ chỉ có thể kính trọng và bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với chủ của mình, nhưng hầu như anh ta không có tình yêu theo đúng nghĩa nhất. Hơn nữa, Quà Tặng Bản Thân (gift of self) là điều được nhiều người mong đợi để liên kết với người khác bằng tình yêu. Nói chung, người làm thuê thì không mong chờ được chung phần gia sản của ông chủ; nhiệm vụ của anh đơn thuần chỉ là làm những gì được chỉ định với một sự trung tín bao nhiêu có thể. Mọi thứ khác sẽ xảy ra từ một mối tương quan sâu đậm hơn. Bây giờ, điều đó trở nên có thể khi Ông Chủ chọn lựa để tương quan với người đầy tớ, không còn như một nô lệ nhưng như một người bạn hay họ hàng ruột thịt.

Chúng ta có một mẫu gương tuyệt hảo về điều này nơi Viên sĩ quan trong Tin Mừng, người đã quá lo lắng cho đầy tớ của mình đến nỗi sai sứ giả đến gặp Chúa Giê-su để xin chữa lành cho người đầy tớ (Lc 7:2-9). Nếu ông ta tiếp tục rộng mở như vậy thì rõ ràng là Viên đại đội trưởng đã yêu mến và xem người đầy tớ này như một đứa con, chứ không phải là một tên nô lệ. Dĩ nhiên, đó là sự chọn lựa tự do của ông và ông có thể làm điều đó cho bất kỳ người nào ông chọn. Thế nhưng, ngược lại thì sẽ không đúng: không đầy tớ nào có thể đòi hỏi mình được đối xử như một thành viên trong gia đình khi mà mối tương quan đơn giản chỉ là của một người đầy tớ. Và thậm chí nếu anh ta đã thực hiện một trăm lần, nhiều hơn những gì anh ta được mong đợi. Như Chúa Giê-su phán ‘Anh em cũng thế, sau khi anh em đã làm xong mọi việc thì hãy nói “chúng tôi chỉ là những đầy tớ bất xứng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận thôi!”’ (Lc 17,10).

Khi nhận ra rằng Chúa Giê-su đã chấp nhận chúng ta như những bạn hữu, không còn phải như những đầy tớ như đã được trình thuật trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly, chúng ta sẽ đặt trái tim và linh hồn mình vào mọi công việc chúng ta làm, biến nó thực sự trở thành một hành động yêu thương vô vị lợi dành cho tất cả những ai Chúa gửi đến trong cuộc đời chúng ta. Tình yêu phải trở nên nguyên lý hướng dẫn của đời sống chúng ta, để chính tình yêu và chỉ có tình yêu mới chiếm hữu cuộc đời chúng ta! Rõ ràng, điều này là không thể bao lâu chúng ta còn có khuynh hướng quy về mình và chẳng làm gì để đẩy lui Cái tôi ra khỏi chính mình. Tình yêu luôn luôn hướng về người khác chứ không phải quy về chính mình. Vì thế, chúng ta hãy tận hiến trọn cuộc đời mình để phục vụ Chúa Giê-su ‘Đấng đã yêu thương tôi và thí mạng vì tôi!’ (Gl 2,20).

 

Ngày 11/12

“Khi đối xử với người trần thế, chúng ta phải dùng đến sự khôn ngoan của con rắn và nhân đức công bình.” [Gửi cho bà Lepage, tháng 10/1866]

Trong việc ứng xử với người khác, điều hữu ích đối với chúng ta đó là phải nhớ rằng không phải mọi người đều hành xử theo nguyên lý của tình yêu Thiên Chúa, xem đó như là quy tắc nền tảng của cuộc sống. Chúa mời gọi chúng ta sống như những đứa con của Ngài, nhưng theo Tin Mừng chúng ta biết rằng mỗi người đều có tự do để đáp trả theo cách mình chọn lựa. Vì thế, người thanh niên giàu có đã tự do và ý thức chọn lựa để không bán hết những gì mình có, cũng như không phân phát tiền của cho người nghèo và vác thập giá mà theo Chúa Giê-su mặc dù anh ta bày tỏ một khao khát có được sự sống đời đời và đã tuân giữ tất cả các giới răn ngay từ tấm bé.

Việc kinh doanh của con người đạt hiệu quả nhất khi chúng diễn ra ở thế bình đẳng. Vì vậy khi giao thiệp với ‘người trần thế’, rõ ràng trước hết người ta cần hiểu rõ vị trí của họ, chứ không phải tìm cách lừa dối hay lợi dụng họ, nhưng đơn giản là việc buôn bán này có thể tốt đẹp cho cả đôi bên. Do đó, nhu cầu cẩn trọng và khôn ngoan có thể giúp chúng ta chọn lựa những chọn lựa đúng đắn. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy linh mục và tu sĩ có lẽ dễ tự kiêu trong những vấn đề này vì họ đã thất bại trong việc thực hành sự cẩn trọng. Họ có khuynh hướng tin cậy bất kỳ người nào cũng như mọi người, và học được từ kinh nghiệm ít ỏi đó là: không phải ai cũng làm vì vinh quang Thiên Chúa cả đâu. Cái Tôi trong nhiều trường hợp là một sự chọn lựa ý thức mà người ta nhắm đến, mặc dù họ biết rằng nó sẽ không đem lại hạnh phúc cho họ trong một chặng đường dài. Thật thú vị khi nhận ra rằng trong Tin Mừng, chúng ta thấy người thanh niên giàu có đã quyết định ‘bỏ đi với vẻ mặt buồn rầu’!

Tuy nhiên, về phần chúng ta, điều quan trọng cần đảm bảo đó là sự công bằng luôn được duy trì, không chỉ vì lợi ích của chúng ta, nhưng cũng vì lợi ích của người khác nữa. Ngày nay, hầu hết những người hiểu biết sẽ nói với chúng ta rằng cách tốt nhất trong việc giao tế với người khác chính là ‘đôi bên cùng có lợi’, qua đó chúng ta tìm kiếm lợi ích cho người khác cũng như lợi ích cho chính mình. Không ai muốn phá hỏng sự nỗ lực ấy, mặc dù thật không dễ để thực hiện những giải pháp ‘đôi bên cùng có lợi’ một cách chân thành, chính xác là vì điều này cho thấy người ta sẽ tìm kiếm điều tốt cho người khác, không chỉ chúng ta cảm nhận được, nhưng người khác cũng nhận thấy điều đó. Một ví dụ điển hình của giải pháp ‘đôi bên cùng có lợi’ này chính là cách mà Chúa Giê-su đã làm đối với trường hợp của người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Sự khôn ngoan đã giúp Người đưa ra luật lệ (‘Ném đá bà, nhưng hãy để những ai không có tội ném trước!’) cũng như lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa (‘Này chị, không ai kế án chị sao? Tôi cũng không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa!’ Ga 8,3-11).

Rõ ràng là sự công bình và lòng thương xót chỉ có thể gặp được nơi Thiên Chúa và nơi những ai gần gũi Thiên Chúa, những ai mặc lấy tâm trí của Đức Ki-tô. Thái độ này là hoa trái của một đời sống Thánh Thể thực sự, nơi mà người ta tìm cách sống những giá trị Thánh Thể một cách chân thành trong suốt ngày sống. Ban đầu chúng ta có thể mắc sai lầm, nhưng dần dần qua sự hướng dẫn của Thánh Linh cũng như những nỗ lực kiên trì của chúng ta, chúng ta sẽ học được nghệ thuật của việc quân bình giữa sự công bình và lòng thương xót, và phân phát chúng bằng sự khôn ngoan.

 

Ngày 12/12

“Hãy trò chuyện với Thiên Chúa giống như một đứa trẻ sáu tuổi trò chuyện với người mẹ yêu dấu của nó. Hãy suy nghĩ trong Người. Hành động trong sự hiện diện của Người. Hãy nói lại với Người tất cả những gì con đã thấy, đã nghe, và đã làm.” [gửi cho cô Stephanie Gourd, tháng 11 năm 1859]

Ở đây, cha Eymard áp dụng nguyên tắc mà Chúa Giê-su đã dạy chúng ta “Nếu anh em không nên giống như trẻ thơ, anh em sẽ không được vào Nước Trời” (Mc 10,16). Chúa Giê-su khuyên dạy chúng ta phải có thái độ giống như trẻ thơ trong tương giao của chúng ta với Thiên Chúa và với người khác, mặc dù chúng ta là những người lớn và cần phải sống như những người lớn. Phẩm chất đơn sơ và hồn nhiên có lẽ là những thái độ giống như trẻ thơ cần thiết nhất mà chúng ta có thể trau dồi, đặc biệt trong tương giao của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta nhấn mạnh rằng đời sống Ki-tô hữu của chúng ta bao gồm việc chấp nhận sự nhỏ bé, sự đổ vỡ, tội lỗi,… mà không che giấu cũng như không biện minh vì bất kỳ lý do gì. Kế đến, chúng ta đặt sự hư không của chúng ta vào bàn tay uy quyền của Thiên Chúa với một lòng cậy trông như trẻ thơ, hoàn toàn vâng theo những gì Người muốn nơi chúng ta. Lòng cậy trông vững mạnh của chúng ta là điều làm cho Thiên Chúa hoàn toàn tự do hành động trong cuộc đời chúng ta. Bấy giờ những điều vĩ đại sẽ xảy đến trong và qua chúng ta – chẳng hạn như mọi người sẽ mau chóng nhận ra rằng chính Thiên Chúa là Đấng hành động qua chúng ta, vì thế vinh quang sẽ dành cho Người.

Chúng ta nhìn thấy thái độ này một cách rõ ràng nơi Đức Ma-ri-a, Đấng mà sự hư không của ngài được diễn tả qua thuật ngữ “Trinh nữ”. Khi được Thiên Chúa mời gọi để đón nhận danh dự cao quý nhất là được trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế, đầu tiên Mẹ đã hỏi Thiên Chúa về sự trinh khiết của Mẹ, sự không phù hợp của Mẹ đối với nhiệm vụ cao cả này; nhưng khi được Thiên Chúa đảm bảo rằng chính Chúa Thánh Thần sẽ lo liệu mọi khó khăn liên quan đến điều đó, Mẹ đã phó thác đời mình một cách hoàn toàn và không do dự vào bàn tay của Thiên Chúa, khi nói: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa; xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói!” (Lc 1,26- 38). Bấ y giờ, Đức Ma-ri-a không chỉ nói những lời ấy, nhưng Mẹ đã sống những lời ấy trong suốt cuộc đời Mẹ. Không bao giờ chúng ta còn tìm thấy lời thắc mắc của Mẹ về sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong cách đối xử của Người dành cho Mẹ. Trong việc phục vụ Thiên Chúa, Mẹ đã làm những việc kỳ diệu tại nhà của Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét, tại tiệc cưới Ca-na và dưới chân thập giá.

Đây chính là thái độ mà cha Eymard khuyên những người con linh hướng của ngài nếu họ muốn tìm được sự trọn hảo cá nhân cũng như là làm được những việc lớn lao cho Thiên Chúa. Với thái độ này, cầu nguyện sẽ trở nên đơn giản-hành động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta sẽ nhiều hơn những gì chúng ta hoàn thành. Sống trong cộng đoàn với những con người có những thái độ và cách làm khác nhau cũng sẽ trở nên dễ dàng khi chúng ta biết tôn trọng mỗi người và nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi người ấy. Trong tương quan với người khác, chúng ta càng nhận ra mình như những “tôi tớ” trước mặt họ, những tôi tớ của Thiên Chúa được sai đi để đem những điều tốt nhất đến cho họ nếu họ ước muốn cộng tác với Thiên Chúa. Chúng ta không tìm cách để lừa gạt người khác, nhưng chúng ta hoàn toàn trung thành với sứ vụ mở mang Nước Chúa.

Việc biến mình trở nên như trẻ nhỏ có thể rất khó khăn trong thời đại này vì khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là nhấn mạnh đến Cái Tôi bằng những hình thức phô trương, nhưng chỉ với một chút quan tâm và để ý, chúng ta có thể để cho Thiên Chúa biến đổi chúng ta thành những đứa con yêu dấu của Người.

 

Ngày 13/12

“Tự bản chất, người nghèo luôn có những nỗi sợ hãi; họ ao ước một cuộc sống có nhiều sứ giả” [gửi cô Marguerite Guillot, tháng 11 năm 1859]

Trong lời nhận xét đơn giản này, cha Eymard nhắc nhở chúng ta về một nguyên tắc quan trọng trong đời sống thiêng liêng. Khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta ký kết Giao ước với Người, ý định của Người đó là chúng ta hành động như những cộng tác viên với Người. Người nâng chúng ta lên ngang tầm với Người và xem chúng ta ngang hàng. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa chỉ dẫn Nô-e, đối thoại và mặc cả với Áp-ra-ham, trao đổi với các ngôn sứ và nhiều việc khác, chính xác là Người thực hiện điều đó bằng Ngôi Vị khác của Ba Ngôi.

Giờ đây, nếu đó là một đặc ân cao cả dành cho chúng ta, những thụ tạo được nâng lên tầm cao như vậy, chúng ta phải để ý đến khuynh hướng kỳ lạ nơi chúng ta để mong muốn làm được nhiều hơn thế - để ‘tiến đến Thần Khí’. Nói cách khác, chúng ta bắt đầu làm nhiều hơn, nhưng lại ít nhận ra rằng Thiên Chúa định thời gian cho mỗi bước tiến. Kinh Thánh gọi đó là ‘thời gian hồng ân’, ‘giờ’ (kairos) cho thấy mọi cơ hội đều đã chín mùi và sẵn sàng cho bước đi mà Thiên Chúa đã sắp đặt. Nếu chúng ta tìm cách hành động vượt ra khỏi kế hoạch này, tất cả những gì chúng ta đạt được đều sẽ phá hủy kế hoạch của Thiên Chúa và buộc Người phải tiến hành theo một cách khác.

Một ví dụ điển hình cho cách làm này được tìm thấy nơi cuộc đời của Chúa Giê-su khi nhiều người đến và nói với Ngài bỏ chốn vì vua Hê-rô-đê đang tìm cách bắt Ngài. Cách mà Chúa Giê-su trả lời quả thực rất thẳng thắn. “Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: ‘Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được’” (Lc 13,32-33). Nói cách khác, Chúa Giê-su cho thấy rằng Ngài ao ước thi hành theo kế hoạch của Thiên Chúa đã dành cho Ngài - Có một thời để làm việc và một thời để đau khổ vì những hành động đó, hay như ông Cô- he-lét nói, ‘Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy; một thời để quăng đá, một thời để lượm đá; một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn; một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất; một thời để giữ lại, một thời để vất đi; một thời để xé rách, một thời để vá khâu; một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hoà’ (Gv 3,1-8).

Nhận thấy khuynh hướng này nơi con người, cha Eymard cho rằng khuynh hướng ấy phát xuất từ nỗi sợ hãi. Nhưng khi chúng ta hành động vì tình yêu, tính bốc đồng này sẽ không xuất hiện trong những tương giao của chúng ta với Chúa Cha. Chính chúng ta sẽ hài lòng về bất cứ điều gì mà Chúa Cha đã ấn định cho chúng ta, và chúng ta cảm thấy hạnh phúc để mau mắn thi hành - và vào thời của Thiên Chúa cũng vậy! Sự kiên trì sẽ trở thành bản chất thứ hai của chúng ta, những chậm trễ và những thất vọng sẽ không làm chúng ta lo lắng. Cuộc đời chúng ta sẽ bình an dường bao khi chúng ta thực thi theo kế hoạch của Thiên Chúa đã dành sẵn cho chúng ta trong mọi sự! Khi Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi, mọi thứ đều nằm dưới quyền kiểm soát của Người, đặc biệt nếu sự kiểm soát ấy diễn ra ngay trong cuộc đời của chúng ta.

 

Ngày 14/12

“Qua việc hiệp lễ, chúng ta có Chúa Giê-su nơi mình. Hiệp lễ chính là mục tiêu của Mầu Nhiệm Nhập Thể” [Đợt tĩnh tâm dài ngày ở Rô-ma, tháng 3 năm 1867]

Cha Eymard sẽ không dùng thuật ngữ mà chúng ta sử dụng ngày nay sau Công Đồng Vaticano II. Ngày nay, thuật ngữ “Giao ước” là một điều hết sức bình thường và nó ám chỉ đến mối dây liên kết mật thiết mà Thiên Chúa muốn dành cho tất cả nhân loại từ thưở tạo thiên lập địa. Tuy nhiên, Ngài đã khởi sự việc đó như một dự án thử nghiệm khi mời gọi một dân tộc, dân Ít-ra-en, bước vào mối dây hiệp thông đó với Ngài, sau khi giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai-Cập. “Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân Ta,” (Xh 19,3-5; 24,3-8) là cách mà Thiên Chúa diễn tả sự thân mật này. Điều kiện duy nhất đối với một ân huệ cao quý này chính là sự vâng theo, sẵn sàng bước theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa để Ngài có thể dẫn họ vào miền Đất Hứa, một biểu tượng cho lựa chọn tự do của họ để sống như con cái của Thiên Chúa.

Sau này, khi Thiên Chúa sai người Con duy nhất của Ngài là Chúa Giê-su sinh ra như một con người bình thường, trong số những công việc đầu tiên mà Chúa Giê-su làm khi Người bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, đó chính là quy tụ một nhóm người lại quanh Người. Mục đích mà Người có trong đầu là, ‘để các ông lại với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ...’ (Mc 3,13-17). Người giữ những người được tuyển chọn này ở gần với mình và họ trở thành những bạn hữu thân thiết của Người; họ nghe tất cả ‘mầu nhiệm Nước Thiên Chúa’ (Mc 4,10-11) và làm chứng về tất cả những dấu chỉ hay những phép lạ kỳ diệu mà Người đã thực hiện! Vì thế, Chúa Giê-su đã hiện tại hóa ý niệm ban đầu về Giao ước với Chúa Cha.

Kế đến, trước khi rời bỏ thế gian, Người đã ban cho các môn đệ Thánh Thể mà qua đó một lần nữa Người ban chính mình Người cho tất cả những ai đã chuẩn bị để đón nhận tình yêu của Người, dưới hình bánh được bẻ ra và dưới hình rượu được chia sẻ. Vì thế, trước tiên là qua Lời và sau này là qua Bánh và Chén rượu, một lần nữa Chúa Giê-su thiết lập Giao ước, nhưng lần này là Giao ước mới và vĩnh cửu, được ký kết trong máu của Người, dấu chỉ sâu xa về sự vâng phục hoàn toàn đầy yêu thương của Người. Do đó, mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Thể, chúng ta được Chúa Cha mời gọi bước vào Giao ước một lần nữa- không chỉ như một nghi thức, nhưng như một cách sống. Vì vậy, chúng ta có thể thực sự nói như thánh Phao-lô “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà chính Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Điều quan trọng cần lưu ý là mục đích của việc Đức Giê-su trở nên người phàm chính là để bước vào mối dây liên kết cá nhân và thâm sâu với tất cả nhân loại. Tất cả những gì Người nói với chúng ta đó là một sự mở lòng thực sự, một sự trông cậy vững vàng vào Người để nhận ra rằng Người sẽ luôn luôn ban cho chúng ta nhiều hơn là chúng ta dâng tiến cho Ngài, và tất cả những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta thì luôn luôn tốt đối với chúng ta. Bao lâu chúng ta còn kết hiệp mật thiết với Người, đặc biệt là ở mức độc ảm giác, biến cố Nhập Thể của Người có thể trở nên rất hữu hiệu. Tuy nhiên, nên biết rằng chúng ta chỉ có thể thăng tiến từng bước, Người mời gọi chúng ta nỗ lực mỗi ngày để bước vào mối dây liên kết với Người, trước hết là trong suốt việc cử hành Thánh Thể như một dấu chỉ và sau đó là trong suốt ngày sống khi chúng ta sống cam kết của mình để thuộc về Người, chứ không phải thuộc về bản thân chúng ta. Những thất bại sẽ không ngăn cản chúng ta thăng tiến, vì Người sẽ cùng hiện diện để trợ giúp chúng ta.

 

Ngày 15/12

“Như các môn đệ đầu tiên trong Phòng Tiệc Ly, các tu sĩ của chúng ta cũng phải một lòng một ý trong việc phục vụ Đức Giêsu” [T. Herve, sss “những nghiên cứu về hành trình thiêng liêng của cha Eymard”, quyển 3, trang 83]

Có lẽ điều mà cha Eymard nhắm đến không chỉ là các môn đệ đầu tiên trong Phòng Tiệc Ly, nhưng còn là các Ki-tô hữu thời sơ khai vì họ tìm cách sống theo những đòi hỏi của đời sống Ki-tô hữu. Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại cho chúng ta biết “các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung. Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và tất cả các ông được ân sủng dồi dào. Không ai trong các tín hữu phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, đem số tiền thu được đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4,32-35). Đây là lý tưởng mà cha Eymard muốn cho các tu sĩ của mình.

Khi nhìn vào các môn đệ tụ họp nơi Phòng Tiệc Ly, thánh sử Luca nhắc nhở chúng ta rằng ngay trong thời khắc trang nghiêm và thánh thiện này, các ông vẫn tranh luận về việc ai là người được xem là lớn nhất giữa họ. ‘“Đã hẳn Con Người ra đi theo như điều đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Người’. Các ông bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong các ông lại là kẻ toan làm chuyện ấy” (Lc 22,22-24). Luca lập lại chi tiết này ở 9,46-48 vì lối xử sự này vẫn được xem như một phần trong đời sống của các thành viên trong cộng đoàn của ông. Và bằng kinh nghiệm, chúng ta biết rằng đây cũng chính là một phần trong đời sống cộng đoàn của chúng ta ngày nay.

Phương thuốc chữa trị dành cho những thử thách ghê gớm này trước hết chính là kinh nghiệm cá nhân sâu sắc về tình yêu của Chúa Giêsu dành cho mỗi người chúng ta. Khi chúng ta tin rằng chúng ta là một người nào đó trong sự quan phòng của Người, dường như chúng ta sẽ không còn lệ thuộc vào sự đánh giá của người khác. Kế đến, chính chúng ta cũng cần tin chắc rằng mỗi chúng ta có một sứ vụ đặc biệt đối với Nước Trời. Và vì Thiên Chúa ban phát những ân huệ cho con người không giống nhau, nên hai người không thể sở hữu cùng một ân huệ.

Hơn nữa, mỗi người sẽ chịu phán xét và bị đánh giá theo những ân huệ đã lãnh nhận cũng như về việc đáp trả của mỗi người. Vì vậy trong thực tế, không cần so sánh mình với người khác. Thật ra, hầu hết các tác giả hướng dẫn tâm linh khuyên rằng chúng ta đừng so sánh mình với người khác, nhưng chỉ so sánh với chính mình thôi... những gì chúng ta đang có ở hiện tại chính là kết quả của sự hợp tác với Thiên Chúa, và với những gì chúng ta có thể đã có trước đó, chúng ta đáp trả với tất cả lòng quảng đại đối với những ân huệ mà Thiên Chúa tuôn đổ trên chúng ta. Sự so sánh này chắc chắn sẽ giúp chúng ta sẵn sàng ước muốn đáp trả một cách tốt hơn ngày từng ngày. Giống như chàng thanh niên giàu có, câu hỏi của chúng ta sẽ luôn là: “Lạy Thầy, tôi phải làm gì để có sự sống đời đời” (Lc10,17-22)

 

Ngày 16/12

“Thiên Chúa nhân từ đang chúc phúc cho chúng ta bằng những thập giá” [gửi cho thầy Jean, tháng 12 năm 1862]

Nhìn chung, khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa đang chúc phúc cho chúng ta, chúng ta nghĩ mình đang nhận được những đặc ân cao quý, những điều chúng ta thích và cả những điều có thể làm cho cuộc sống ngày càng thuận lợi hơn cho chúng ta. Hầu như chúng ta không nghĩ đến việc mình sẽ nhận những thập giá và những khó khăn như là những phúc lành từ Thiên Chúa. Đó là vì cách suy nghĩ của chúng ta khác xa với Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa gửi những thập giá đến cho chúng ta, Người cũng làm như vậy, trước hết là để kéo chúng ta ra khỏi tình trạng thoải mái. Khi chúng ta yên vị trong trạng thái an bình, thì hầu như mọi việc chúng ta làm sẽ chỉ theo thói quen mà thôi. Hầu như chúng ta không toàn tâm toàn ý vào bất kỳ công việc mình làm. Nhưng khi chúng ta phải đương đầu với những hoàn cảnh mới và khó khăn, chúng ta sẽ trở nên thận trọng và những năng lực của chúng ta sẽ bắt đầu đốt nóng tất cả các xi-lanh; chúng ta sẽ đầu tư năng lực tối đa vào những công việc chúng ta làm, và thường thì cuối cùng chúng ta sẽ xử lý công việc sắp xảy đến một cách rất hiệu quả.

Công việc thứ hai trong cách làm của Thiên Chúa đó là với mỗi nỗ lực phi thường chúng ta thực hiện, khả năng của chúng ta ngày càng gia tăng, và vì thế trong cuộc hành trình dài, chúng ta mới có thể cho đi nhiều hơn. Chúng ta tiếp tục trưởng thành và còn gì hơn nữa, chúng ta sẽ tận hưởng sự trưởng thành này cũng như cảm nghiệm được nỗ lực mới, tất cả những cái đó đều là sự tiến bộ của chúng ta. Một ích lợi khác của việc nhận lấy những thập giá chính là chúng ta sẽ mau chóng nhận ra rằng chính chúng ta muốn đón nhận tất cả những thập giá ấy, vì thế cần phải ở gần Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ không chần chừ để giúp đỡ chúng ta khi chúng ta không muốn Người giúp đỡ hoặc thậm chí không biết ơn về sự trợ giúp đó. Nhưng lúc chúng ta biết mở lòng ra để đón nhận ân sủng của Người và thật tình tìm kiếm sự trợ giúp của Người, Người sẽ tuôn đổ trên chúng ta tất cả những gì Người dự định cho chúng ta.

Vì thế, qua thập giá mà chúng ta vác, chúng ta là những người đầu tiên nhận được lợi ích. Và trên tất cả, khi chúng ta phải đương đầu với những thập giá của chính mình cũng như những thắng lợi tức thời, chúng ta sẽ hiểu được lòng trắc ẩn là gì, thậm chí nếu người khác không đến giúp đỡ chúng ta trong những tình huống này. Như thánh Phao-lô nói, có lẽ ngài đã dựa vào chính kinh nghiệm của bản thân ‘Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. Chúng tôi có phải chịu gian nan thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng tôi có được an ủi, thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu’ (2 Cr 1,3-6).

Rất ít người hiểu và biết ơn vì những đau đớn và khổ cực phải chịu cho đến khi chính họ trải qua những đau khổ ấy. Khi cảm nghiệm được điều ấy, sự cảm thông cũng như lòng trắc ẩn của chúng ta sẽ trở thành một phẩm chất thực sự và khi chúng ta biết đến với người khác, quà tặng tình yêu cũng như tình hiệp nhất của chúng ta sẽ càng có ý nghĩa hơn đối với người nhận, vì nó phát xuất từ trái tim. Vì thế, thật là chính đáng để chúc tụng Thiên Chúa vì tất cả những thập giá chúng ta đã nhận được. Thực tế, khi chúng ta chúc tụng Thiên Chúa vì những thập giá ấy, chúng ta cũng sẽ nhận được tất cả những kết quả tốt vốn thuộc về chúng ta và qua chúng ta để đến với những người khác.

 

Ngày 17/12

“Chúng ta phải ao ước Nước Trời vì đó là gia sản của Thiên Chúa, là vinh quang tuyệt hảo của Thiên Chúa. Bấy giờ sẽ không còn tội lỗi nữa, không còn cám dỗ, không còn những thử thách đối với tình yêu của Người và của chúng ta” [gửi cho bá tước D’Andigne, tháng 11 năm 1865]

Trong lời khuyên dành cho người con linh hướng của mình, một lần nữa chúng ta lại ngưỡng mộ khả năng mà cha Eymard có để đi đến trọng tâm của vấn đề. Khi tất cả chúng ta suy nghĩ về việc giành lấy Nước Trời, chúng ta sẽ nhận thấy rõ hơn qua việc chính chúng ta sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng với sự cố gắng về mặt tinh thần của mình. Tuy nhiên, về phần chúng ta, phải chăng chúng ta sẽ không rơi vào chủ nghĩa cá nhân? Cha Eymard trở lại vấn đề này và đề nghị rằng chúng ta nên ao ước và cố gắng vì Nước Trời không phải vì lợi ích của chính mình, nhưng vì điều đó sẽ đem lại cho chúng ta cơ hội để dâng vinh quang cao cả hơn cho Thiên Chúa, Cha chúng ta. Sự thực là chúng ta sẽ giành được tình yêu của Thiên Chúa trong sự viên mãn ở trên Trời (sự viên mãn theo khả năng mà chính chúng ta đã chuẩn bị ngay tại thế này), nhưng đó là điều đem lại vinh quang cho Thiên Chúa, dù cho chủ nghĩa cá nhân bẩm sinh của chúng ta, Người có thể biến đổi chúng ta đến giới hạn mà chúng ta có thể đạt tới. Sự tiến triển của chúng ta ở trên Trời chính là mức độ đo lường sự thành công của Thiên Chúa trong việc giải cứu chúng ta khỏi chính bản thân mình và khỏi những gông cùm của Tội ác.

Trong toàn bộ Kinh Thánh, hình ảnh sát thực của Thiên Chúa chính là hình ảnh về Đấng Cứu Độ, Đấng giải thoát chúng ta vì chính chúng ta và cái Tôi của chúng ta. Công trình cứu độ của Người chủ yếu là giải thoát chúng ta khỏi những xích xiềng của Tội Lỗi nhờ sức mạnh tình yêu của Người. Hơn nữa, vì chúng ta sẽ diện đối diện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ hoàn toàn không còn nghi ngờ gì về tình yêu của Người dành cho chúng ta, cũng như sẽ không còn Cái Tôi khép kín tâm hồn chúng ta với việc hoàn toàn mở lòng ra với tất cả những gì Người muốn ban cho chúng ta. Có lẽ ở đây, nỗi buồn duy nhất chính là việc chúng ta không phát huy khả năng của mình để đến cùng Thiên Chúa nhiều hơn thông qua lòng bao dung cao cả hơn ngay tại trần thế này. Chúng ta sẽ nhận ra sự hạn hẹp của mình và hối tiếc về lời đáp trả hà tiện của mình đối với Chúa Cha. Tuy nhiên, chúng ta vẫn sẽ cảm thấy hạnh phúc về những gì chúng ta có.

Mặt khác, lời đáp trả của chúng ta đối với việc hiểu biết sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa cũng sẽ bằng cả tâm hồn và rộng lượng. Sẽ không còn cái Tôi ngăn cản lòng bao dung của chúng ta, cũng như việc dâng vinh quang của chúng ta cho Thiên Chúa sẽ không thay đổi và không ngắt quãng, rất quảng đại và tràn đầy! Tuy nhiên, ở đây thước đo của việc dâng lời ngợi khen và việc tôn vinh Thiên Chúa sẽ tỉ lệ với khả năng của chúng ta được phát huy ngay tại thế gian này. Tuy thế, thước đo ấy sẽ là duy nhất và là điều đụng chạm đến trái tim đầy yêu thương của Thiên Chúa!

Hơn nữa, tất cả tình yêu và con người của chúng ta vốn được Chúa Cha yêu mến sẽ là vô tận mà không lo sợ chúng ta dao động và thay đổi quyết định hay thái độ của mình đối với Người và với những người khác. Khi biết cách kính sợ như thế, chúng ta sẽ tận hưởng những gì mình có, mặc dù ít, nhưng chúng ta không so đo mình với người khác và không thèm muốn niềm hạnh phúc của họ. Trái lại, chúng ta sẽ vui mừng một cách chân thật và không ích kỷ vì những gì họ có thể đạt được, và chúng ta cũng sẽ tôn vinh Thiên Chúa vì cuối cùng chúng ta có thể loại bỏ cái tôi của mình và vui mừng về sự may mắn của người khác.

 

Ngày 18/12

“Hãy luôn luôn giản dị trong thái độ, hiền dịu trong tâm hồn và hân hoan vui mừng trong cách sống của con” [Gửi cho bà Mathilde Giraud-Jordan, tháng 1 năm 1866].

đây, chúng ta tìm thấy một lời khuyên khác rất thực tế và không viển vông từ cha Eymard. Người ta nói rằng sự đơn giản là điểm mấu chốt của những con người vĩ đại, vì họ nhận biết rằng mình được ban tặng không phải là để khoe khoang những tài năng của mình cốt để gây sự chú ý đối với người khác, là những người sau đó sẽ khen ngợi mình vĩ đại. Sự vĩ đại thực sự là điều chúng ta có được trước mặt Chúa. Chúa Giê-su đã cảnh báo chúng ta đừng tìm kiếm sự tán dương của người đời như những người Pha-ri-sêu thường làm, vì cách làm này có nghĩa là họ đã được thưởng công rồi (Ga 5,41-47). Người con linh hướng trong trường hợp này dường như đã có được phẩm chất giản dị này, nhưng cha Eymard khuyến khích bà tiếp tục phát huy phẩm chất ấy.

Có một mối nguy hiểm hơn nữa đó là sau khi khởi đầu êm xuôi, người ta có thể từ bỏ và đánh mất mọi thứ. Những người này giống như Phê-rô, người có đức tin đủ mạnh, đã dám xin Chúa Giê-su cho mình đi trên những ngọn sóng dữ dội của mặt nước biển đầy bão tố. Với lệnh truyền của Đức Ki-tô, ông đã bước đi với đức tin vững mạnh và can đảm, nhưng khi nhìn thấy những đợt sóng lớn xung quanh mình, thì ông ngã lòng và bắt đầu chìm (Mt 14,27-33). Chúng ta cũng có thể có kết cục như vậy cho dù sự khởi đầu rất tốt và đáng khích lệ.

Theo nguyên nghĩa, từ pious (lễ độ) diễn tả một thái độ tin tưởng, thái độ của những đứa con hướng về cha mẹ của chúng và đó chính là thái độ sẽ giúp cho người Ki-tô hữu đứng vững trong mọi hoàn cảnh. Mặc dù chúng ta thường đọc kinh Lạy Cha, nhưng ít khi chúng ta nhận ra rằng chính giây phút chúng ta thưa lên tiếng “Lạy Cha” thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng mình là con cái của Ngài! Ngoài ra, chúng ta không có quyền gọi Ngài là Cha trừ khi chúng ta dùng từ đó như một tiêu đề. Vì thế, tất cả chúng ta cần đào sâu sự nhận thức của mình về tình trạng là con cái của Thiên Chúa, nỗ lực để sống điều đó bao nhiêu có thể.

Khi chúng ta đã nội tâm hóa thái độ nền tảng của việc trở nên con cái Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy rằng tự động chúng ta sẽ hoan lạc trong tâm hồn. Lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô gửi cho tín hữu Phi-líp-phê vẫn mãi còn giá trị thậm chí đối với chúng ta ngày nay, ‘Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: vui mừng lên anh em! Chớ gì mọi người biết đến lòng khoan dung của anh em, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ dùng lời cầu khẩn, van xin với lời tạ ơn, mà giãi bày cùng Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su.’ (Pl 4,4-7). Bình an và hoan lạc là những món quà Phục Sinh đặc biệt của Chúa Phục Sinh và chúng là đặc trưng của người Ki-tô hữu dù họ ở bất cứ nơi đâu. Một Ki-tô hữu buồn tẻ và hay than khóc là một cả nh tượng đáng buồn, vì “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, ai chống lại được chúng ta? Chính Con của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta; lẽ nào, cùng với người Con ấy, Người lại chẳng rộng ban mọi sự cho chúng ta?... Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô?.. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dù là sự chết hay sự sống, thiên sứ hay quản thần,... hoặc bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,31-39).

 

Ngày 19/12

“Một tu sĩ Thánh Thể phải thuộc về Đức Vua và theo bước Người đến bất cứ nơi đâu” [Gửi cho thầy Marie Ratons, tháng 4 năm 1864]

Điều mà cha Eymard nói đến ở đây quá đủ để cho thấy rằng Ông Chủ ở đâu thì tôi tớ của Ông cũng sẽ ở đó với Ông. Tuy nhiên, trong tình yêu vô biên dành cho chúng ta, Chúa Giê-su đã làm một điều thực sự trái ngược, nghĩa là chúng ta ở bất cứ nơi đâu, chính Chúa cũng sẽ hiện diện với chúng ta, không tách rời chúng ta, nhưng luôn luôn là một phần của chính chúng ta. Đây là một chân lý rõ ràng mà chính cha Eymard đã khám phá ra trong suốt cuộc Đại Tĩnh Tâm tại Rô-ma của cha, khi cha chờ đợi quyết định xem các linh mục Dòng Thánh Thể có được sở hữu Phòng Tiệc Ly hay không. Mặc dầu, ước mơ vĩ đại của cha đó là các linh mục Dòng Thánh Thể một ngày nào đó sẽ sở hữu nơi mà Chúa Giê-su đã ban Thánh Thể cho chúng ta, nhưng cha đã dần dần nhận ra rằng Chúa Giê-su đã thực hiện những việc vượt xa những mong đợi thô sơ của chúng ta qua việc ban cho mỗi người một Phòng Tiệc Ly cá nhân trong chính con người của Ngài- ở đó Ngài sẽ cư ngụ rất gần gũi bao lâu con người để ý đến chiều sâu của mối tương quan này.

Chúa Giê-su khuyến khích chúng ta khi nói rằng, ‘Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. Ai thắng, Ta sẽ cho ngồi bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngồi bên Cha Ta trên ngai của Người.’ (Kh 3,20-21). Cách làm này là một cách làm cụ thể của Chúa Giê-su, Đấng không bao giờ áp đặt chính mình lên người khác; Ngài tôn trọng tự do của chúng ta, mời gọi chúng ta đáp trả tình yêu của Ngài với lòng quảng đại lớn lao, không phải vì Ngài kiếm được lợi lộc gì từ điều đó, nhưng đúng hơn vì chúng ta là những người lãnh nhận được nhiều nhất. Thật không may, nhiều Ki-tô hữu bận rộn suốt ngày và suốt tuần mà không có thời gian rảnh rỗi để dành cho vị Thượng Khách, nhưng Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi và tỏ lòng yêu thương đối với những quan tâm ít ỏi mà họ dành cho Ngài.

Như Chúa đã đánh giá cao sự hiện diện của chúng ta, thì các tu sĩ Thánh Thể cũng phải biết đón nhận Đức Ki-tô đến hiện diện nơi mình. Chúng ta cần tự đào luyện mình để ý thức được sự hiện diện của Chúa cũng như là thực thi kế hoạch và thánh ý của Ngài, tất cả những gì làm nên cuộc sống của chúng ta. Khi cuộc đối thoại sống động ấy tiếp tục diễn ra trong suốt cả ngày, người ta có thể tưởng tượng ra những ơn phúc mà chúng ta sẽ nhận được. Có một điều là chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn, vì chính Chúa Giê-su đã hứa với chúng ta rằng, ‘Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến với anh em. Một ít nữa thôi, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có các điều răn của Thầy và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy!.’ (Ga 14,18-21).

Tuy nhiên, việc chúng ta ở gần Chúa Giê-su không phải là nguồn gốc của sự ích kỷ cá nhân, nhưng đúng hơn đó là sự diễn tả về ước muốn phục vụ Ngài trong yêu thương bao nhiêu có thể. Đó cũng sẽ là niềm vui tột đỉnh và thành công của chúng ta, và mặc dầu chúng ta có thể thất bại hết lần này đến lần khác, nhưng chúng ta sẽ trở về với nguồn mạch và cội nguồn của hạnh phúc bằng chính sức mạnh được đổi mới.

 

Ngày 20/12

“Hãy để Thánh Thể trở thành tâm điểm cho lòng sùng kính và tình yêu của con” [Gửi cho cô Mariette Guilot, 9/1858]

Việc cha Eymard nhận ra vai trò thiết yếu của Thánh Thể trong đời sống Ki-tô hữu vượt ra khỏi hình bóng của một sự nghi ngờ. Ở đây, chúng ta thấy ngài đang khuyên bảo chân tình một trong những người con linh hướng của ngài. Vào thời đại của chúng ta, đặc biệt sau Công đồng Vaticano II, Thánh Thể đã chiếm giữ được nhiều vai trò thiết yếu; nhiều thánh lễ được cử hành mỗi ngày ở hầu hết các nhà thờ Công giáo ít nhất là trong những thành phố của chúng ta. Ngay cả đối với những việc sùng kính khác, chẳng hạn như tuần cửu nhật và những hình thức khác, thì không hình thức nào mà lại không đi kèm với việc cử hành Thánh Thể, bằng không nó sẽ chẳng phải là việc sùng kính. Do đó, dù có làm tuần cửu nhật kính Đức Mẹ hay một vị thánh lớn nào đó, chẳng hạn như thánh An-tôn, thì các Ki-tô hữu ngày nay vẫn quen với việc tham dự Thánh lễ như là một phần không thể thiếu của những hình thức sùng kính ấy.

Tuy nhiên, chúng ta có thể quả quyết rằng: Phải chăng Thánh Thể là trung tâm của đời sống Ki-tô hữu ngày nay? Vì chắc chắn đó là một hình thức sùng kính. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu người thực sự hiểu biết về mục đích và những sức năng động của Thánh Thể? Cũng như về vai trò của Thánh Thể trong cuộc lữ hành tìm về Thiên Chúa của người Ki-tô hữu? Có một điều đáng lưu ý là rất ít người nhận ra đó chính là việc nhắc lại lời tuyên xưng, ở những mức độ sâu xa hơn, chính là việc từ bỏ Cái Tôi và từ bỏ Satan đã được tuyên xưng trong ngày Lễ Rửa Tội của họ! Vì là biểu tượng của việc từ bỏ Cái Tôi và việc sẵn sàng chết đi cho chính mình nên người lãnh nhận bí tích rửa tội trước hết cần phải cởi bỏ mọi thứ quần áo cũ là chính con người cũ và con người tội lỗi. Kế đến, cùng với Đức Ki-tô, người lãnh nhận bí tích rửa tội chấp nhận chết đi khi được dìm vào nước. Sau đó họ sẽ bước vào một sự sống mới được diễn tả qua việc nhận lấy chiếc áo trắng và bước theo Đức Ki-tô được thể hiện qua phần cuối cùng của nghi lễ diễn ra tại bàn thờ chính ở gian cung thánh.

Như thánh Phao-lô đã khuyên nhủ các tín hữu ở Roma: “Hay anh em không biết rằng: tất cả chúng ta đã chịu phép rửa để được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta đã chịu phép rửa để được kết hợp với cái chết của Người sao? Vì được chịu phép rửa để kết hợp với cái chết của Đức Ki-tô, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã trỗi dậy từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, thì chúng ta cũng bước đi trong đời sống mới. Thật vậy, nếu chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ cái chết giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người nhờ sự sống lại giống như sự sống lại của Người. Chúng ta biết rằng: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, ngõ hầu thân xác tội lỗi này bị hủy đi, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội nữa. Quả thế, ai đã chết thì được thoát khỏi án tội. Nhưng nếu chúng ta đã chết cùng với Đức Ki-tô, chúng ta tin rằng chúng ta sẽ cùng sống với Người” (Rm 6,3-8).

Ngày nay, cũng chính động lực thánh thiêng của việc chết đi cho Cái Tôi được diễn tả trong Thánh Lễ khi cộng đoàn, qua vị thừa tác viên, “cùng bẻ bánh và cùng uống chén” mà Đức Giê-su đã phán xưa ‘Này là Mình Thầy- Này là Máu Thầy’. Nhưng điều này xem ra không có ý nghĩa gì đối với những người tham dự. Họ tham dự Thánh Lễ để mong nhận lãnh được càng nhiều những ân huệ, sự bình an cũng như nhiều điều khác nữa từ nơi Thiên Chúa chứ không phải là để dâng hiến chính mình, bẻ ra và chia sẻ! Nếu động lực này có thể được thực hiện một cách đầy ý nghĩa và có ý thức, thì chẳng bao lâu Thánh Thể sẽ thực sự trở thành trung tâm của đời sống Ki-tô hữu!

 

Ngày 21/12

“Hãy yêu mến vị Thầy nhân lành của chúng ta, Đấng cư ngụ trong nhà của con và chỉ mình con mà thôi.” [Gửi cho cô Stephanie Gourd, 11/1859]

Bằng nhiều cách thế khác nhau và với sự trợ giúp của những phép so sánh và ẩn dụ, cha Eymard đã nhấn mạnh đến chân lý nền tảng: Thiên Chúa cư ngụ nơi chúng ta, bằng tình yêu dành cho chúng ta. Đây chính là mục đích của Nhập Thể, điều mà cha thánh đã sớm đề cập đến ở một trong số những bài suy niệm của chúng ta, lý do vì sao mà Con Thiên Chúa lại trở nên người phàm để chia sẻ cuộc sống với chúng ta, không còn gì có thể đơn sơ và tầm thường đến như vậy. Tuy nhiên, cuộc đời không thể được chia sẻ nếu cả hai bên hoàn toàn giả tạo đối với nhau. Về phần mình, Thiên Chúa đã chia sẻ tất cả với chúng ta, như thánh Phao-lô nói với tín hữu Roma trong thư của ngài: “Chính Con của mình, Thiên Chúa đã không tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta; lẽ nào, cùng với người Con ấy, Người lại chẳng rộng ban mọi sự cho chúng ta?” (Rm 8,31-32). “Tất cả những gì Ta có là của các ngươi”, “Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”- Với những diễn tả như vậy, Thiên Chúa tìm cách thuyết phục chúng ta rằng Ngài đã ban cho chúng ta ‘muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần từ cõi trời, trong Đức Ki-tô’ (Ep 1,3-4). Quả thực, không có gì Thiên Chúa ban cho chúng ta ngày hôm nay mà lại không ban qua người Con của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô.

Câu hỏi vẫn còn đặt ra là chúng ta dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa được bao nhiêu? Thiên Chúa ở lại trong nhà chúng ta, nhưng chúng ta có ở lại trong Ngài không? Chúng ta có dành thời giờ và gạt bỏ vướng bận để chia sẻ những suy nghĩ cũng như ước muốn của chúng ta với Ngài, giống như một đứa trẻ chia sẻ với cha mẹ của nó không? Thiên Chúa có can thiệp sâu vào phạm vi cuộc đời chúng ta không? Trong nhiều trường hợp, điều này không xảy ra, và có lẽ lý do là vì chúng ta lo sợ rằng nếu Đức Giê-su chi phối cuộc đời chúng ta, thì chúng ta sẽ đánh mất quyền tự chủ trên cuộc đời mình và không thể làm theo những gì mình muốn! Trên thực tế, đây là con đường chân thật vì khi Đức Giê-su nắm quyền kiểm soát, thì nhiều khả năng chúng ta sẽ tận hưởng trọn vẹn cuộc sống trong Ngài.

Vì vậy, trong thực tế, quả bóng nằm ngay trên phần sân của chúng ta vì Đức Giê-su nói ‘Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. Ai thắng, Ta sẽ cho ngồi bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngồi bên Cha Ta trên ngai của Người’ (Kh 3,20-21). Đức Giê-su muốn dùng bữa với chúng ta, có lẽ còn hơn cả việc cư ngụ trong chúng ta hay có lẽ đó là cách cư ngụ hay nhất. Có vấn đề gì khi chúng ta không biết mở rộng lòng ra để tiếp đón Ngài bằng một thái độ tự do và quảng đại như Ngài hằng mong ước không? Dĩ nhiên, một trong những lý do giải thích vì sao chúng ta không để Đức Giê-su tiến lại gần là vì chúng ta vẫn muốn trở thành những ông chủ đối với định mệnh của mình. Và Đức Giê-su đã thấu suốt sự thực ấy ‘không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được’. Người Pha-ri-sêu vốn ham mê tiền bạc, nên nghe tất cả những điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su. Người bảo họ “Các ông tỏ ra mình là người công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông, bởi vì điều cao quý đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa”’ (Lc 16,13-15).

 

Ngày 22/12

Khiêm nhường và sự sỉ nhục là hoa trái của thập giá” [Gửi cho Marguerite Guillot, 3/1853]

Đối với các Ki-tô hữu, thập giá là một biểu tượng của sự sống đời đời- đó là con đường mà Thiên Chúa đã chọn và Chúa Giê-su đã đón nhận một cách đầy yêu thương để bất cứ ai vui vẻ đón nhận thập giá ấy trong cuộc đời mình thì chắc chắn sẽ có được sự sống đời đời. Về cơ bản, thập giá biểu hiện cho việc chết đi cho chính mình và cho tất cả những gì là tội lỗi hay chống lại thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta, và vì thế rõ ràng là khi cuộc đời chúng ta được giải thoát khỏi sự ích kỷ và tội lỗi, chắc chắn chúng ta sẽ có được sự sống của Thiên Chúa. Nhưng chủ nghĩa cá nhân là một thứ tai họa, chẳng hạn như nếu chúng ta không luôn luôn cố gắng để loại bỏ nó ra khỏi cuộc đời mình thì nó sẽ quay trở lại quấy rầy chúng ta. Hay đúng hơn, như điều mà chính Đức Giê-su đã cảnh báo chúng ta khi nói, ‘Khi thần ô uế xuất khỏi một người, nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói “Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi. Đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo theo mình bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước. Thế hệ gian ác này rồi cũng sẽ bị như vậy” (Mt 12,43-45).

Vì thế, Thập giá đem lại cho chúng ta phương thuốc chữa trị; Thập giá cũng mời gọi chúng ta biết kiềm chế tính ích kỷ của mình qua việc đề phòng và hãm mình ép xác. Thực tế, khi chúng ta cảm nếm được sự sống đời đời mà Chúa Giê-su hứa ban cho chúng ta, chúng ta sẽ vui mừng tìm mọi cách để chiếm được kho tàng ấy bằng bất cứ giá nào, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông đi bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,44-46). Khi chúng ta thực sự gặp được Đức Ki-tô, chúng ta sẽ sẵn sàng bán đi tất cả những gì mình có để chiếm lấy Ngài.

Bên cạnh đó, khi một ai đó biết thông phần với những đau khổ và sự khiêm nhường của Chúa Giê-su một cách yêu thương và sẵn lòng, thì người ấy sẽ không còn phải lo sợ về bất kỳ điều gì mà thế gian sẽ đem lại cho mình. Bởi vì người ấy là môn đệ của Chúa Giê-su và điều ấy sẽ không bao giờ sánh được với đau khổ mà Chúa Giê-su đã trải qua. Đến đây chúng ta lại nhớ tới những lời của Chúa Giê-su, “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt đặt anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu bất cứ điều gì anh em xin Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu mến nhau. “Nếu thế gian thù ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã thù ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã mến thương cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, nên thế gian thù ghét anh em. Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ đã ngược đãi Thầy, họ cũng sẽ ngược đãi anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em vì danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai phái Thầy” (Ga 15,16-21). Do đó, sự khiêm nhường thực sự là hoa trái của việc chia sẻ Thập giá với Chúa Giê-su.

 

Ngày 23/12

“Sống hoàn toàn theo Chúa Giê-su và cho Chúa Giê-su, không phải như một kẻ làm thuê luôn tìm kiếm phần thưởng cho mình sau mỗi công việc” [Trích trong ‘Thánh Thể và sự hoàn thiện Ki-tô giáo trong đời sống Thánh hiến’,1927]

Nhiều lần chúng ta đã nghe cha Eymard nói rằng Chúa Giê-su phải là trung tâm đời sống Ki-tô hữu của chúng ta. Một minh chứng cụ thể cho điều này chính là chúng ta sống hoàn toàn theo Chúa Giê-su: Ngài trở thành nguồn mạch và cội nguồn cho mọi biến cố trong cuộc đời chúng ta. Như thánh Phao-lô, chúng ta biết quay đầu trở lại với Ngài sau mỗi lần vấp ngã, “Lạy Chúa! Chúa muốn con làm gì?” (Cv 22,10). Khi chúng ta đã hoàn toàn đặt trọn cuộc đời mình vào tay Chúa, chúng ta cần nhìn vào câu hỏi thứ hai, đó là: Vì lý do nào mà tôi phụng sự Chúa? Nếu chỉ vì mong nhận được phần thưởng dù chỉ là một phần thưởng nhỏ nhoi nhất, thì chúng ta sẽ trở thành những kẻ làm thuê chỉ biết tìm kiếm lợi lộc cho mình.

‘Người nào làm việc, thì tiền công trả cho người ấy không được kể là ân sủng mà là nợ. Còn người nào không làm việc nhưng tin vào Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì đức tin của người ấy được kể là điều công chính. Cũng vậy, vua Đavít nói về hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là công chính mà không xét đến việc làm:

“Hạnh phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung!

Hạnh phúc thay người Chúa không kể là có tội!’ (Rm 4,4-8)

Chúng ta biết rằng những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta bằng lòng quảng đại và tình yêu của Ngài thì còn hơn cả tiền lương mà chúng ta đã từng nhận được. Bên cạnh đó, việc làm của chúng ta đầy những khiếm khuyết từ khởi sự cho đến hoàn thành, cố gắng vượt qua bằng chính cái tôi, và sau khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì chúng ta hãy nói: “chúng tôi là những đầy tớ vô dụng” (Lc 17,10).

Do đó sẽ còn tốt hơn nữa khi ta đặt trọn đời mình vào bàn tay yêu thương của Đấng cứu độ chúng ta, và đón nhận tất cả những gì Ngài gửi tới cho chúng ta, tạ ơn Ngài vì chúng ta không bị đối xử như những tôi tớ, nhưng được xem như bạn hữu của Ngài (Ga 15,15). Bên cạnh đó, chính Ngài nói với chúng ta rằng Ngài chọn ‘những kẻ Ngài muốn. Và Ngài lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3,14-15). Do đó, ngay cả khi chọn chúng ta, (và Ngài làm điều này trước khi chúng ta được thụ thai trong lòng mẹ), Chúa Giê-su đã chọn chúng ta là những bạn hữu của Ngài, liên kết với Ngài bằng tình yêu hơn là bằng ý thức về bổn phận.

Tuy nhiên, một điều đáng buồn trong cuộc đời chúng ta là mặc dù chúng ta sống trong nhà Chúa, tự nhận mình là những người con, nhưng nhiều người trong chúng ta lại có thái độ của những kẻ tôi tớ, như đã xảy ra đối với trường hợp người con cả trong dụ ngôn “người con hoang đàng”. Khi anh từ ngoài đồng về… anh đã trả lời cha ‘Cha coi! đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng bao giờ trái lệnh, thế mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, thì cha lại giết bê béo mừng nó!”’ (Lc 15,29-30). Thật là một bi kịch: Thực sự là một người con, nhưng lại sống như một đầy tớ, một người ngoài cuộc- trong nỗi sợ hãi và thái độ quỵ lụy thấp hèn! Và nếu đây thực sự là thái độ thường xuyên của chúng ta, thì việc Chúa Giê-su đến có tạo ra sự khác biệt gì ngay cả khi điều đó có liên quan đến chúng ta không?

 

Ngày 24/12

“Hãy yêu mến tình trạng hiện tại và hãy thánh hóa những đau khổ cùng mọi hy sinh, vì đó là điều Chúa Giê-su yêu thích hơn cả và quả là hạnh phúc với thánh ý của Chúa Giê-su.” [Mlle J.A. Bost, tháng 5 năm 1853]

Khi viết cho các tín hữu ở Phi-líp-phê, Phao-lô nhắc nhở họ rằng ‘quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Chúa Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu độ. Người sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người, nhờ quyền năng khiến Người cũng có thể làm cho vạn vật phải quy phục mình’ (Pl 3,20 – 4,1). Nếu đúng như vậy, chúng ta không thể quên rằng Nước Trời của chúng ta bắt đầu ngay tại dương thế này và sẽ được thể hiện qua cách chúng ta sống. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải đón nhận mọi cơ hội dành cho mình, đau khổ cũng như sung sướng. Đặc biệt, chúng ta cần học cho biết cách biến đổi hay thánh hóa những đau đớn và đau khổ của chúng ta, vì những đau khổ này thường có khuynh hướng làm cho chúng ta xa rời lòng tốt cao thượng của chúng ta. Nếu không được rọi chiếu bằng đức tin, chúng ta dễ có khuynh hướng xem đau khổ chỉ như là một hình phạt vì việc làm sai trái. Chúng ta không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong đau khổ lúc này và lúc khác, Kinh Thánh cho chúng ta thấy Thiên Chúa có thể gánh chịu những thập giá nặng nề nhất vì bạn hữu của Ngài. ‘Vì vậy, những ai chịu khổ theo ý của Thiên Chúa, trong khi làm việc thiện hãy phó thác mạng sống mình cho Đấng Tạo Hóa trung thành’ (1 Pr 4,19 – 5,1).

Ý nghĩa đích thực của đau khổ được thể hiện rõ rệt nhất trong cuộc đời của Chúa Giê-su. Mặc dù Người vô tội, nhưng những kẻ thù của Người tìm cách giết Người, Người đã chấp nhận đau khổ tột cùng vì tình yêu dành cho Chúa Cha và chính sự vâng phục khiêm hạ đã làm cho Người có thể biến tất cả những đau khổ thành vinh quang muôn đời. ‘Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người rằng (Chúa Giê-su), ‘Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa đã dạy con biết đường về cõi sống, và sẽ cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan’ (Cv 2,25-28). ‘... vì vậy ở Thánh vịnh khác, lại có lời rằng: Ngài sẽ không để Đấng Thánh của Ngài phải hư nát’ (Cv 13,35).

Kinh nghiệm chỉ cho chúng ta biết chân lý không sai lầm trong quan điểm của thánh Phao-lô ‘không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá khả năng; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho một lối thoát, để anh em có khả năng chịu đựng’ (1 Cr 10,13). Dĩ nhiên, loại bỏ khuynh hướng đưa cái Tôi của mình lên ngôi, chúng ta cần trau dồi cách làm này trong lúc đau khổ. Điều này sẽ giúp ích nếu chúng ta biết nhìn xa, như cha Eymard đã từng nói với chúng ta, đây chính là điều mà Chúa Giê-su thích nhìn thấy nơi chúng ta... hơn là một sự đáp trả tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Khi chúng ta biết đón nhận tất cả mọi đau khổ mà Chúa Giê-su chọn lựa cho chúng ta, chúng ta bày tỏ niềm trông cậy vững mạnh nơi Ngài và chúng ta cần biến nó thành một thói quen để luôn thực thi thánh ý của Ngài, và thực thi một cách đầy yêu mến. Vì chính Ngài đã nhắc nhở chúng ta rằng ‘nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ điều răn của Thầy’ (Ga 14,15).

 

Ngày 25/12

“Thiên Chúa chỉ cho chúng ta bước theo lối này để chúng ta không thể cậy dựa vào những việc lành cũng như những nhân đức của chúng ta, nhưng là vào ân sủng của Người” [gửi cho bà Lepage, tháng 4 năm 1867]

Đời sống thiêng liêng thường được diễn tả như một cuộc hành trình, nó gợi lại cuộc hành trình lịch sử mà dân Ít-ra-en được giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai Cập để tiến về miền Đất Hứa. Giờ đây, nếu sự so sánh này đầy đủ ý nghĩa, nó phải bao gồm một sự ra đi tiến về phía trước hơn là ngồi yên một chỗ. Điều này được minh chứng qua sự kiện đó là trong suốt cuộc hành trình này, tất cả dân Ít-ra-en đã sống trong các lều trại được dựng vào ban đêm một cách dễ dàng và nhổ lên vào buổi sáng khi cuộc hành trình tiếp tục. Trong hành trình thiêng liêng cũng vậy, người ta luôn phải hướng về phía trước, vì không có nơi nào dừng chân bao lâu chúng ta còn sống.

Lý do giải thích cho điều này là Thiên Chúa nhân lành muốn ban cho chúng ta cùng được chia sẻ đến mức tối đa sự sống và tình yêu của Người, nhưng chính vì điều này mà người ta cần phải loại bỏ hoàn toàn Cái Tôi. Vì thế, mỗi ngày, khi biết chia sẻ những thập giá và khó khăn của chính mình cũng như những nỗ lực của bản thân, người ta sẽ đặt những điều này vào trong Đức Ki-tô như là cách để đảm bảo cho sự trưởng thành. Giống như những cuộc hành trình khác, người ta cần kiểm tra xem trước tiên mình có tiến bộ không, và thứ hai là xem hướng đi của mình có đúng không. Trong hành trình thiêng liêng, hướng đi luôn được xem là sự trưởng thành trong tình yêu, vì tình yêu là bản chất sự sống của chính Thiên Chúa mà Người chia sẻ cho chúng ta. Vì thế, bất kỳ một sự gia tăng nào về những khía cạnh của tình yêu (lòng nhân từ, sự kiên nhẫn, không nghĩ xấu người khác và nhiều điều khác như được diễn tả ở chương 13 trong thư thứ nhất gửi Cô-rin-tô) sẽ cho thấy sự trưởng thành tâm linh thực sự. Cách hướng dẫn cũng vậy, nó phải luôn nằm trong dòng chảy của việc chết đi cho Cái Tôi một cách cao cả hơn, tự phát và rộng lượng hơn cũng như là phải biết chia sẻ với người khác.

Vì vậy, ở giai đoạn khởi đầu của đời sống thiêng liêng, chúng ta có thể gặp khó khăn trong việc gạt bỏ những dự định riêng của mình để hướng đến những nhu cầu của anh em, để được lớn lên trong Đức Ki-tô, bấy giờ chúng ta sẽ nhận thấy điều ấy đang xảy ra hoàn toàn vô ý thức và không bình thường. Chúng ta có được kỹ năng bẻ chính mình cho người khác mà không cần phải bộc lộ quá nhiều, để ‘tay trái không biết việc tay phải làm’ (Mt 6,3). Đây là lý tưởng mà chúng ta nhắm tới như đã được diễn tả qua hình ảnh của Cuộc Phán Xét sau cùng. Bấy giờ, vị thẩm phán sẽ nói với những người công chính ‘khi ta đói, các ngươi đã cho ăn’, họ sẽ đáp lại trong sự ngỡ ngàng rằng ‘Lạy Chúa, có khi nào con thấy Chúa đói mà cho ăn đâu?’ Điều này cho thấy rằng họ thậm chí không ý thức được là họ đang làm những điều phi thường, nhưng lại xoay xở một cách dễ dàng!

Và vì thế, sẽ không có vòng nguyệt quế dành cho chúng ta khi chúng ta thực hiện cuộc hành trình thiêng liêng. Chỉ duy nhất một điều chúng ta nhắm đến: Tình yêu vô biên của Thiên Chúa luôn ra hiệu cho chúng ta luôn hướng về phía trước cho tới khi chúng ta đạt đến sự trưởng thành hoàn toàn trong Đức Ki-tô, ‘và chính Người đã ban cho kẻ này làm tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm mục tử và làm thầy dạy. Nhờ đó, các thánh được chuẩn bị nhằm làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hợp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức Ki-tô’ (Ep 4,11-13).

 

Ngày 26/12

“Chúng ta cần sống trong sự tạ ơn vốn thúc đẩy một tâm hồn cảm nghiệm được niềm vui về những ân huệ và phúc lành của Chúa” [ gửi cho bà Lepage, tháng 3 năm 1867]

Việc trưởng thành trong đời sống thiêng liêng cũng có thể được đánh giá qua sự thanh thoát và thoải mái với việc một ai đó nhận được những dấu chỉ và sự linh hứng của Thánh Thần mời gọi chúng ta liên kết mật thiết hơn với Đức Ki-tô. Ban đầu, khi hành trình thiêng liêng mới bắt đầu, người ta luôn cần người khác dẫn dắt và động viên như thánh Mác-cô trích dẫn lời trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng ‘phần anh em, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, để họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy, có nghe đi nghe lại cũng chẳng hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ’ (Mc 4,11- 12). Nhưng khi cái nhìn của chúng ta tỏ tường dưới sức mạnh và bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra những điều kỳ diệu mà Chúa chúc lành cho chúng ta mỗi lúc trong ngày sống.

Đó là lúc chúng ta bắt đầu sống trong sự tạ ơn để hoàn thành tất cả những gì đã được nhắc đến trong phần mở đầu của mỗi Thánh Lễ, ‘Lạy Cha trên trời, thật là chính đáng để chúng con dâng lời cảm tạ và ngợi khen trong mọi lúc mọi nơi’. Vào thời điểm này của cuộc hành trình, người ta bắt đầu nhận thấy bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, không chỉ nơi những ơn lành của Người, mà còn nơi những biến cố khác mà dường như là sự từ bỏ, trừng phạt hay bất cứ điều gì khác. “người trung tín cũng như kẻ bất tín đều phải gánh chịu những bấp bênh và bất an trong cuộc đời này, nhưng con cái Thiên Chúa luôn luôn cậy dựa vào tình yêu của Chúa Cha. Chính vì lý do này mà ánh sáng chiếu rọi vào giữa đêm tối, niềm vui không thể hiểu nổi ngay giữa nỗi buồn và chúng ta có thể tìm thấy cái giá của hạnh phúc cũng như hiểu rõ hơn về những tình cảnh xung quanh chúng ta” (trích thánh vịnh 32- Psalms Now, Leslie Brandt).

Thực tế, khi điều này bắt đầu xảy ra, những người được yêu sẽ nhận ra Thiên Chúa nơi mọi sự và trong mọi người, điều mà họ không có được khi không kết hiệp với Thiên Chúa. Và hơn thế, với mỗi thành công trong việc “khám phám” tình yêu của Người, sự hồi hộp và niềm vui của việc kiếm tìm càng tăng lên, nhiều đến mức sau đó cuộc sống sẽ giống như một cuộc săn tìm kho báu. Bấy giờ những lời của Chúa Giê-su sẽ ứng nghiệm, ‘anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó. Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào! Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được’ (Mt 6,19-24).

Tâm hồn chúng tôi đợi trông CHÚA, bởi Người luôn che chở phù trì.......

Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy CHÚA, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.

(Tv 32, 20.22)

 

Ngày 27/12

“Ôi, có hạnh phúc nào lớn hơn là được ở lại với Bí Tích cực Thánh! Để chỉ sống cho Ngài mà thôi ?!” [gửi cho hai chị Maria Eymard và Nanetete Bernard, tháng 1 năm 1867]

Điều đầu tiên đánh động chúng ta trong lời trích dẫn ngắn ngủi từ cuộc trò chuyện của cha Eymard với hai chị gái yêu dấu của ngài chính là đối với cha, Thánh Thể không chỉ là một điều gì đó linh thánh hay quý giá, mà hơn thế nữa còn là một Ngôi Vị, Ngôi Vị của chính Chúa Giê-su. Thậm chí trong thời đại chúng ta ngày nay, ít tín hữu nhận ra chân lý sâu xa rằng sự liên kết của chúng ta chính là liên kết với một Ngôi Vị, đang sống và đang hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách. Niềm hạnh phúc mà chúng ta cảm nghiệm không phải phát xuất từ việc chúng ta hiện diện trước mặt Ngài, nhưng là Ngài chọn lựa để ở lại với chúng ta bao lâu chúng ta quan tâm để ở lại với Ngài.

Mặc dầu trong thực tế, sự hiện diện này trở thành một khoảnh khắc có ý nghĩa mà chúng ta nhắc đến và vì thế trong việc cảm nghiệm được niềm hạnh phúc vì sự hiện diện của Ngài, quả banh đang nằm bên phần sân của chúng ta. Ngài là vị Thượng Khách mà chúng ta dành chỗ tốt nhất trong nhà chúng ta cho Ngài; nhưng nếu chúng ta để Ngài lẻ loi một mình khi chúng ta chỉ chú ý đến những công việc riêng của mình trong suốt cả ngày, thì làm thế nào chúng ta có thể tìm được ích lợi từ việc Ngài đến thăm chúng ta? Bấy giờ, chúng ta lại chẳng giống như Mát-ta, người đã tiếp đón Chúa Giê-su vào nhà mình nhưng sau đó lại quá bận tâm vào việc chuẩn bị bữa tiệc xa hoa cho Ngài, để Ngài một mình. Maria là người đã chọn phần tốt hơn, khi cô nhận ra rằng Chúa Giê-su không bận tâm nhiều đến những gì chúng ta dâng cho Ngài, không quan tâm đến giá trị hay đáng giá, nhưng là chính chúng ta: ‘Con yêu dấu, hãy dâng cho Ta tâm hồn của con, và hãy bước theo đường lối của Ta’ (Cn 23,26).

Tuy nhiên, việc ở lại với Chúa Giê-su của chúng ta, hay ‘liên kết trong tình yêu của Ngài’, phải đưa đến việc hoàn toàn ‘sống cho Ngài’. Như thánh Phao-lô nói ‘Tình yêu của Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: một người đã chết thay cho mọi người; thì mọi người đều chết. Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để nhưng ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì họ’ (2 Cr 5,14-15). Nếu Đức Ki-tô đã chết(có thể nói là, ‘thay cho’, ‘nhân danh’) chúng ta, thì bây giờ chúng ta cũng sống vì Ngài. Hay như những lời của thánh Phao-lô, ‘vì Lề Luật, tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Cùng với Đức Ki-tô, tôi bị đóng đinh vào thập giá; tôi sống, nhưng không còn phải tôi mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Đời sống của tôi hiện nay trong xác phàm, tôi sống đời sống ấy trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi.’ (Gl 2,19-20). Hơn nữa, ‘đối với tôi, sống là Đức Ki-tô và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc đem lại kết quả cho tôi, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: khát vọng của tôi là ra đi và ở với Đức Ki -tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn vì anh em’ (Pl 1,21-24).

Vậy làm thế nào để người ta biết mình có sống hay không sống cho một mình Đức Ki-tô? Chúa Giê-su nhắc nhở chúng ta rằng ‘vì thế, hễ ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy cũng tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời; nhưng bất cứ ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì Thầy cũng sẽ chối bỏ người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời... Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy; và ai yêu con trai hay con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy... Ai tìm kiếm sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được sự sống ấy. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy’ (Mt 10,32-40).

 

Ngày 28/12

“Hãy ở gần Chúa chúng ta và chiêm ngưỡng thánh ý của Ngài trong mọi biến cố đang xảy ra” [Gửi cho bà Benoite Richard, tháng 5 năm 1867]

Trong lời khuyên ngắn ngủi này, một lần nữa cha Eymard đi đến trọng tâm của vấn đề, nghĩa là trong mối tương quan của chúng ta với Chúa Giê-su, Ngài đã làm tất cả mọi sự mà Ngài có thể không có gì mà Ngài không làm. Khi đã hoàn tất nhiệm vụ được trao phó, Ngài đã trở về cùng Chúa Cha! Giờ đây, quả bóng đang nằm trên phần sân của chúng ta và đến lượt chúng ta đáp trả một cách tốt nhất bằng chính khả năng của mình. Bài ca của Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô tóm lược điều này một cách đầy đủ khi nói rằng “chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ của Chúa chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã chúc lành cho chúng ta bằng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Quả thế, trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để ta trở nên thánh thiện, vô tỳ tích, trước thánh nhan Người, trong tình yêu. Theo như ý muốn Người ưa thích, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử của Người nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để nên lời ngợi vinh quang của ân sủng Người, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu...

“Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được ơn cứu chuộc, được ơn thứ tha các sa ngã theo lượng ân sủng phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết mầu nhiệm ý muốn của Người, theo như điều Người ưa thích mà Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô, để thực hiện kế hoạch khi thời gian tới hồi viên mãn: đó là quy tụ muôn loài trên trời dưới đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong Đức Ki-tô, chúng tôi đã được thừa hưởng gia nghiệp: theo ý định của Đấng làm nên mọi sự theo quyết định của ý muốn Người, chúng tôi đã được tiền định, là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Ki-tô, để nên lời khen ngợi vinh quang Thiên Chúa. Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa sau khi đã nghe lời sự thật là Tin Mừng cứu độ anh em; cũng trong Đức Ki-tô, sau khi đã tin, anh em được đóng ấn tín Thánh Thần, đã được hứa ban. Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, cho đến khi những người là sở hữu của Thiên Chúa được cứu chuộc, để khen ngợi vinh quang của Người” (Ep 1,3-14).

Chúng ta càng sống lời cam kết của mình để chết đi cho cái tôi và để Chúa Giê-su cai trị cuộc đời chúng ta, thì chúng ta càng cảm nghiệm được sự gần gũi cũng như tình yêu của Ngài. Hệ quả quan trọng nhất của việc ở gần Ngài chính là chúng ta sẽ mau mắn thi hành thánh ý của Ngài, trước hết là qua việc cẩn thận hiểu biết những gì Ngài nói với chúng ta, và cũng có thể qua việc nhận ra lý do mà Ngài có ý định trong đầu khi nói điều này với chúng ta, và kế đó là một sự thi hành trọn vẹn những yêu cầu của Ngài. Đôi lúc, điều này rõ ràng là sẽ khó khăn và đi ngược lại với kết quả, nhưng đó là lúc tình yêu và lòng trung thành của chúng ta bị thử thách. Chúng ta có thể thất bại hết lần này đến lần khác. Nhưng đó lại là điều không thể tránh khỏi khi chúng ta trải qua tiến trình học cho biết cách dâng chính mình cho Ngài.

Điều quan trọng là không phải là bao nhiêu lần chúng ta thất bại, nhưng chúng ta có hăng hái đứng dậy và trở về với Ngài không. Những thất bại của chúng ta cũng là cách chúng ta học và không làm giảm bớt tình yêu của Ngài dành cho chúng ta dưới bất cứ hình thức nào. Người ta nói rằng nếu chúng ta tưởng tượng mối tương quan của chúng ta với Chúa Giê-su như một sợi dây cột chặt chúng ta lại với Ngài, thì mỗi lần chúng ta làm đứt sợi dây ấy bằng lỗi lầm của mình, thì Ngài sẽ thắt lại sợi dây ấy để kết nối lại với chúng ta. Điều này sẽ giúp chúng ta liên lạc lại với Ngài, cũng như sẽ đem chúng ta xích lại gần hơn khi sợi dây được rút ngắn lại vì những cái nút. Vì thế, một cách nào đó, những thất bại của chúng ta có thể đem chúng ta tiến sâu vào mối dây liên kết với Chúa! Ôi tội hồng phúc!

 

Ngày 29/12

“Hãy sống trọn vẹn trong Chúa chúng ta bằng chính tâm hồn con, vì đó là ngôi nhà đích thực và là cuộc sống đích thực của con” [Gửi cho cô Virgine Danion, tháng 2 năm 1867]

Lời trích dẫn này của cha Eymard gợi nhắc cho chúng ta về những lời của Chúa Giê-su: ‘“Hãy nghe và hiểu cho rõ: Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế; nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế”. Anh em không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng, rồi bị thải ra ngoài sao? Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.” (Mt 15,10-20). Chúa Giê-su đã chỉ dạy các môn đệ rằng khi xử sự với Thiên Chúa, thì không chỉ bằng những cái bề ngoài, nhưng bằng chính bằng tâm hồn. Tuy nhiên, khuynh hướng tự nhiên của con người là luôn xét đoán sự vật qua những hình thức bề ngoài và cảm thấy hài lòng chỉ vì những cái bề ngoài.

Cha Eymard đưa ra một áp dụng cụ thể và thực tiễn cho nguyên tắc này khi cha khuyên người con linh hướng của mình rằng quy hướng vào sự hiện diện của Chúa nơi bản thân thì quan trọng hơn và có lẽ khó khăn và đòi hỏi nhiều hơn là chỉ đơn thuần chú ý đến những cái bên ngoài. Để thực hiện được điều này một cách tốt đẹp, đem lại ích lợi, chúng ta cần phát huy nghệ thuật hay kỹ năng nhận thức về bản thân. Điều này có nghĩa là ngay cả khi bận tâm về những sao lãng từ bên ngoài, chúng ta cũng vẫn ý thức về những phản ứng bên trong của mình- sợ hãi, những chương trình bị che đậy, những lý do kép... đã từng gặp. Nhìn chung, những điều đó không được chú ý lắm và vì thế, chúng ta chỉ sống với những cái bề ngoài và thực hiện những hành vi của mình một cách thuần túy từ quan điểm này. Nhưng khi chúng ta có thể đụng chạm đến những gì đang diễn ra bên trong, chúng ta có thể ngạc nhiên về kho tàng kiến thức chúng ta có được về bản thân mình, cả điều tốt lẫn điều không tốt!

Thiên Chúa đang cư ngụ nơi sâu thẳm nhất của cõi lòng chúng ta, chính nơi đó Người trò chuyện với chúng ta, với những vấn đề thực sự đang diễn ra trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta mong ước đào sâu mối tương quan của chúng ta với Người, thì đó chính là nơi chúng ta cần phải tập trung sự chú ý của mình cũng như thực thi những gì cần sửa đổi mà Người đề nghị. Mức độ đó là ngôi nhà đích thực và là cuộc sống đích thực của chúng ta, và khi những người khác có thể hài lòng về cách cư xử với chúng ta bằng những cái bề ngoài, thì Thiên Chúa đọc được tâm hồn chúng ta cũng như liên lạc với chúng ta nơi những cái bên trong và chân thực nhất. Khi chúng ta đạt đến cách sống ở mức độ sâu xa nhất của con người chúng ta, thì chúng ta sẽ nghiệm thấy được niềm vui cũng như sự hồi hộp sâu xa về việc nắm bắt được chính mình. Bấy giờ, ít nhất chúng ta có chọn lựa để rút ngắn qua việc loại bỏ những khó khăn cũng như những biểu hiện của cái Tôi để Thiên Chúa càng có tiếng nói mạnh hơn trong cuộc đời chúng ta, hay là tiếp tục thủ đắc cái tôi.

Đây chẳng phải là “một điều cần thiết” mà Chúa Giê-su đã đề cập về sự chọn lựa của cô Maria đó sao? (Lc 10,38-42). Và Ngài nói thêm “sẽ không bị ai lấy mất”. Khi chúng ta thực hiện tốt điều này, thì cũng sẽ không bị lấy mất khỏi chúng ta, ở đây hoặc sau này! Bấy giờ niềm vui đó sẽ là của chúng ta!?!

 

Ngày30/12

“Đó là lý do vì sao con chưa sẵn sàng ra đi với việc bồi thường này... và một đời sống hoàn toàn chiêm niệm. Phần chúng con, chúng con không chỉ muốn tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa Giê-su nơi Bí Tích Thánh Thể, mà đặc biệt là còn làm cho Bí Tích ấy được mọi tâm hồn biết đến, tôn thờ, phụng sự và yêu mến” (Cha Eymard, 1867)

Rõ ràng, ước muốn của cha chính là quy hướng hoàn toàn vào Mầu Nhiệm Thánh Thể bởi vì đó là cách diễn tả chiều cao và sâu, chiều dài và rộng về tình yêu của Chúa Giê-su dành cho chúng ta, cha Eymard giải thích vì sao cha gạt bỏ được vấn đề nóng hổi liên quan đến việc bồi thường, đó là nhờ vào một đời sống chiêm niệm. Cách làm này có thể phù hợp với chiều kích tạ ơn Chúa Giê-su vì ân huệ cao quý này, nhưng sẽ không làm được gì để tôn trọng và mong đạt được ước muốn cao hơn đó là làm cho mọi người biết ơn và tìm được lợi ích từ công việc này. Đây là ngọn lửa đang bùng cháy trong tâm hồn của cha Eymard, người đã thề rằng sẽ hăng hái tìm kiếm để làm cho ngọn lửa Thánh Thể thắp lên trước tiên trên khắp Paris, rồi sau đó là toàn nước Pháp.

Trải qua nhiều năm, các tu sĩ Thánh Thể đã chú trọng đến khía cạnh thứ hai này qua việc xuất bản các tạp chí hàng tháng đề cập chủ yếu đến các chủ đề về Thánh Thể, giảng dạy trong các chủng viện và trong các cộng đoàn đào tạo khác, giảng tĩnh tâm chủ yếu về Thánh Thể, khuyến khích và cổ võ việc cầu nguyện trước Thánh Thể, không chỉ như một bài thực hành, nhưng như một sự trưởng thành và thăng tiến trong đời sống thiêng liêng, linh hướng cho các linh mục, các tu sĩ và các giáo dân. Họ tham gia vào công cuộc đại kết, nghiên cứu Kinh Thánh, Giáo phụ (Các tác phẩm của các Giáo phụ), làm việc với và cho các linh mục triều, viết sách và báo đặc biệt về Thánh Thể, chuẩn bị những tập suy niệm giúp mọi người cầu nguyện trước Thánh Thể một cách sốt sắng, và nhiều việc khác.

Ngày nay, đặc biệt trong các thế kỷ của Thế giới thứ ba cũng như các thế giới khác, công tác xã hội cũng được các tu sĩ Thánh Thể tham gia một cách hăng hái, bao gồm việc mục vụ trong nhà tù, hỗ trợ các anh chị em di dân đang gặp khó khăn; bênh vực chị em phụ nữ qua các nhóm thiện nguyện, động viên những người bỏ học giữa chừng trong các trường học và đại học đi học lại và tìm được một việc làm có ý nghĩa, chăm sóc y tế cho những người nghèo và người có nhu cầu, đặc biệt là các bệnh nhân nhiễm HIV cũng như các gia đình của họ. Tư vấn cho giới trẻ, những gia đình tan vỡ và những người khác, tìm chỗ ở cho những người sống lang thang trên các đường phố làm mất trật tự - Thực tế, bất kỳ một công tác từ thiện nào thể hiện lòng nhân từ của Đức Ki-tô đều được khuyến khích.

Điều quan trọng là sứ vụ này được nhìn nhận và được thực hiện khi trực tiếp liên kết với việc cử hành Thánh Thể. Khi xem xét đến điểm chính yếu của Thánh Thể, vẫn còn nhiều khía cạnh cần được khám phá; điều làm cho chúng ta khựng lại chính là sự thiếu hụt nhân sự, và vì thế một nhánh quan trọng khác của sứ vụ Thánh Thể tập trung vào các ơn gọi của cả Dòng Thánh Thể cũng như các Hội Dòng khác trong Giáo Hội. Mặc dầu điều này cũng đáng được nhắc lại, sứ vụ đó không chỉ là điều mà các tu sĩ Thánh Thể phải làm, điều mà họ cố gắng làm là biến mình trở nên những người bạn đặc biệt của Chúa Giê-su Thánh Thể nơi Bí Tích Tình Yêu- nếu được như thế thì các hoạt động tông đồ của họ sẽ làm cho sự hiện diện của Chúa Phục Sinh ngày càng tỏ lộ và biến đổi những nơi mà họ đến.

 

Ngày 31/12

“Hãy trở nên tông đồ của Bí Tích Thánh Thể, như ngọn đuốc chiếu sáng và sưởi ấm, như sứ giả của Thánh Tâm Ngài sẵn sàng ra đi để giới thiệu Ngài cho những ai chưa biết Ngài, động viên những ai yêu mến Ngài và những người đang gặp đau khổ” (gửi cho bà Antoinette de Grandville, tháng 7 năm 1859)

Trong câu ngắn gọn này, cha Eymard đã tóm tắt ơn gọi của một người thờ đích thực. Noi gương Thầy Chí Thánh của mình, người thờ sẽ trở nên một tông đồ nhiệt thành cho tình yêu của Chúa để giới thiệu cho tất cả mọi người được Ngài gửi đến. Đối với những người vẫn còn chưa ý thức được tình yêu vô biên của Chúa Cha, người tông đồ phải làm cho tình yêu ấy tỏ hiện và cảm nghiệm được thông qua cuộc sống từ bỏ chính mình mà người ấy đang hướng tới. Một khi người ấy có thể làm cho mọi người liên kết được với Chúa Giê-su, người ấy biết được rằng công việc cơ bản của mình đã được thực hiện. Chúa Giê-su sẽ quan phòng và hoàn tất mọi sự. Thật ngạc nhiên là trong thời đại chúng ta ngày nay, sau khi Kinh Thánh được loan truyền cho mọi Ki-tô hữu thông qua Thánh Lễ cũng như qua những nghiên cứu cá nhân hay những nghiên cứu khác về Kinh Thánh, thì hình ảnh mà dân chúng nghĩ về Thiên Chúa vẫn là hình ảnh của một vị quan tòa xét xử. Họ không thể làm rõ cách này, nhưng thực tế đây là cách mà họ liên hệ đến Thiên Chúa. Và vì thế, ơn gọi của một người tôn thờ thậm chí còn quan trọng hơn nữa trong thời đại ngày nay.

Một nhóm người cảm thấy khó khăn để nhận ra tình yêu của Thiên Chúa sẽ là những người đang chịu đau khổ. Đau đớn, khốn cực, bắt bớ và những điều khác đại loại như thế có khuynh hướng thu hẹp tầm nhìn của một người và vì thế tạo ra sự khó khăn để suy nghĩ về những hạn từ của tình yêu. Hơn thế nữa, theo cách suy nghĩ quen thuộc của người Do Thái, bất kỳ đau khổ nào cũng đều là một sự trừng phạt vì tội lỗi gây ra, và vì thế nhiệm vụ của người Tôn thờ thậm chí vừa quan trọng lại vừa khó khăn hơn!

Bên cạnh việc loan báo về Thiên Chúa như một người Cha yêu thương, người tôn thờ cũng phải đưa ra lời đáp trả phù hợp với tình yêu của Thiên Chúa- dĩ nhiên là không sợ hãi, hay hành động chỉ vì bổn phận, nhưng là một sự từ bỏ chính mình vì tình yêu, thể hiện chủ yếu qua việc vâng phục và phục vụ người thân cận một cách vô vị lợi. Khi người ta nhận ra rằng tình yêu tự hiến của Thiên Chúa thì luôn luôn hiện thực và hiệu quả, họ sẽ dễ dàng hiểu rằng lời đáp trả tốt nhất và phù hợp nhất đối với tình yêu chính là tình yêu. Và tình yêu được bày tỏ chủ yếu qua sự vâng phục, như Chúa Giê-su đã dạy, ‘Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ những điều răn của Thầy’ (Ga 14,15). Thật là dễ dàng để yêu mến Chúa trong những dịp đặc biệt hay khi mọi thứ diễn ra một cách êm xuôi; nhưng để yêu mến trong mọi hoàn cảnh thì chỉ có thể xảy ra với sự trợ giúp của Thần Khí. Nhưng, chính Chúa Giê-su đã đảm bảo cho chúng ta rằng Ngài sẽ ban Thần Khí xuống trên những môn đệ của Ngài để họ không còn phải lo lắng nữa. Ngài sẽ làm tất cả những gì cần thiết, nếu họ biết cộng tác với Ngài. “Đây là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không nhìn thấy Người cũng như không nhận biết Người. Nhưng anh em biết Người vì Người nói trong anh em, và ở lại trong anh em. ‘Thầy sẽ không để anh em mồ côi; Thầy đến cùng anh em’” (Ga 14,17-18).

 Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, SSS

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.