365 Ngày Với Cha Thánh Eymard – Tháng 6

365 NGÀY VỚI CHA THÁNH EYMARD – THÁNG 6

 

Ngày 1/6

“Tình yêu Thiên Chúa giống như trận mưa cầu vồng.” [ ]

Trong sách Sáng Thế, ngay sau trận lụt hồng thủy, Thiên Chúa đã hứa với ông Nô-ê là sẽ không bao giờ tiêu diệt con người bằng một trận hồng thủy nữa (St 8,21), và dấu chỉ cũng như sự bảo đảm cho lời hứa ấy chính là chiếc cầu vồng có thể nhìn thấy ngay khi mặt trời xuất hiện sau cơn mưa. Ngày nay, mỗi khi nhìn thấy cầu vồng, chúng ta được nhắc nhớ về lòng thành tín của Thiên Chúa đối với những lời hứa của Người. Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta bày tỏ sự vâng phục như một sự trở về với tình yêu tuyệt diệu mà Người dành cho chúng ta, thế nhưng ngay cả khi chúng ta thất tín và rời xa Người, thì Người vẫn trung thành trong cách đối xử của mình. Vì vậy, nhiều lần trong cách đối xử với dân tộc Ít-ra-en, Thiên Chúa đã nhớ lại giao ước của Người và chúc phúc cho dân Ít-ra-en vốn hay bất trung. Chúng ta có thể trưng dẫn một đoạn Kinh Thánh điển hình để minh chứng cho điều vừa nói trên đây, ‘cũng vì các ngươi, vì máu giao ước của Ta với các ngươi, Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi vũng lầy nhơ nhớp’ (Dcr 9,11). Do đó, đối với muôn thế hệ, chiếc cầu vồng trở thành một dấu chỉ của niềm hy vọng, và của niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.

Chiếc cầu vồng đảm bảo cho chúng ta về tình yêu trung tín của Thiên Chúa, đây không chỉ là một khả năng xa vời, nhưng là một hành động hiện thực. Đó là điều mà chúng ta nhận ra trong lời khẳng định trên của cha Eymard, tình yêu của Thiên Chúa là trận mưa cầu vồng, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ tràn trề trên chúng ta. Giống như cơn mưa, tình yêu của Thiên Chúa sinh hoa kết trái. Trong sách ngôn sứ I-sai-a chương 55, chúng ta đọc thấy ‘Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.’ (10-12). Chúng ta có thể thấy trong thiên nhiên, chẳng bao lâu sau một vài cơn mưa, đất khô cằn bắt đầu làm đâm chồi ngọn cỏ xanh tươi. Điều này cũng xảy ra tương tự trong đời sống tâm linh của chúng ta, nhưng thật không may, trong vấn đề này thì ý chí tự do của chúng ta lại đóng vai trò quyết định. Về phần mình, nếu chúng ta không trung thành, nghĩa là không vâng phục, chúng ta vẫn chỉ ở trong tình trạng khô khan và cằn cỗi.

Tuy nhiên, tình yêu Thiên Chúa vẫn mạnh mẽ và sẽ phát sinh ra những gì tình yêu muốn nói. Trong khi việc đáp trả tự nguyện của chúng ta đối với sự vâng phục là hoàn toàn cần thiết, thì tình yêu Thiên Chúa còn quá tuyệt vời đến nỗi đòi hỏi một nỗ lực siêu việt để có thể cảm nhận được sức hấp dẫn ngọt ngào của tình yêu ấy. Giống như cơn mưa, tình yêu ấy làm cho đất hóa mềm, có thể nói như vậy, làm cho thực vật sinh sôi nảy nở. Sau khi lãnh nhận mưa tình yêu của Người, một con người với trái tim sắt đá cũng không thể nào cưỡng lại nổi, và không thể không đáp trả lại. Ngay cả một Au-gus-ti-nô luôn cố bám víu vào cuộc sống đề cao chủ nghĩa cá nhân và đã từng trả lời rằng ‘Lạy Chúa, con yêu mến Ngài, nhưng không…’, thế nhưng khi không thể cưỡng lại nổi, thánh nhân đã phải thốt lên: ‘Lạy Chúa! Con yêu mến Ngài quá muộn màng’. Khi chịu đựng không nổi, chính chúng ta sẽ tự làm hại bản thân mình, nhưng mặt tích cực của bi kịch này chính là chúng ta có cơ hội làm chứng về lòng trung tín không thể tin nổi của tình yêu Thiên Chúa. Ngáng trở của chúng ta càng lớn, thì bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta càng mạnh mẽ!

 

Ngày 2/6

“Yêu mến Thiên Chúa chính là cốt lõi của cuộc sống, trong cả thời gian và mãi mãi sau này.” [ ]

Trong sách Sáng Thế, chúng ta biết rằng Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh của Người. Sau này, trong Tin Mừng, chúng ta được nhắc nhở rằng Thiên Chúa là tình yêu: ‘Ai không yêu mến thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được bày tỏ nơi chúng ta như thế này: Thiên Chúa đã sai người Con của mình, người Con Duy Nhất, đến trong thế gian để nhờ người Con ấy mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu mến chúng ta, và sai Con của Người đến để làm của lễ đền tội vì tội lỗi chúng ta. Anh em yêu quý, nếu Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu mến nhau.” (1 Ga 4,8-11). Từ đây sẽ dẫn đến bản chất của cuộc đời chúng ta chính là tình yêu, cũng như đây là cốt lõi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thực ra, điều này có nghĩa là con người chỉ có thể thực sự là người khi sống trong tình yêu; mọi thứ khác sẽ là điều trái ý và chấm dứt với sự hủy hoại bản thân. Kinh Thánh đưa ra cho chúng ta một minh chứng xác thực về một con người khép kín đời mình với tình yêu, thì sẽ nhận thấy rằng cá tính và nhân cách của mình gần như bị hạ thấp cho đến lúc người ấy trở nên tệ hại hơn một con vật.

Sách Sa-mu-en quyển thứ nhất cho chúng ta biết Thiên Chúa đã chọn Sa-un để trở thành vị vua đầu tiên của dân Ít-ra-en. Ông cao hơn toàn dân từ vai trở lên, và trước khi trở thành vua, Thiên Chúa đã ban cho ông một trái tim mới, (1 Sm. 10,9) và hứa là sẽ hướng dẫn Sa-un. Thế nhưng, Sa-un đã từ chối chấp nhận sự chọn lựa của Thiên Chúa với lý do là ông chỉ là một người Ben-gia-min và chi tộc của ông là hèn mọn nhất trong các chi tộc, do đó không xứng với ơn gọi cao trọng này. Chúng ta có thể dễ dàng hiểu được sự miễn cưỡng của Sa-un khi trở thành vị vua đầu tiên của Ít-ra-en, thế nhưng những đảm bảo của Thiên Chúa được ban qua ngôn sứ Sa-mu-en sẽ được thể hiện nơi Saun. Thế nhưng Saun vẫn bướng bỉnh, và mặc dù ông đã chấp nhận vị trí này, nhưng ông không bao giờ trông cậy vào Thiên Chúa.

Trước trận chiến đầu tiên, ông đã không kiên nhẫn chờ đợi Sa-mu-en đến để tế lễ; ông đã tự mình dâng lễ vật. Sau này khi quân Phi-li-tinh đe dọa vua Ít-ra-en với sự thách thức của Go-li-át, ông đã nắm lấy sự trợ giúp quảng đại của Đa-vít để đương đầu với thách thức đó. Thế nhưng khi Đa-vít giành chiến thắng cũng như khi toàn dân ca ngợi Đa-vít nhiều hơn là ca ngợi Sa-un, thì ông lại trở nên ghen tức với Đa-vít và tìm cách giết ông này. Thậm chí ông còn đe dọa cả sự sống của con trai mình là Giô-na-than, đơn giản vì ông này là người bạn tốt của Đa-vít và đã ủng hộ Đa-vít. Cuối cùng, ông đã kết liễu đời mình bằng việc tự vẫn, một điều bị ngăn cấm đối với người Do Thái. Nhưng ngay cả việc này ông cũng không thể làm nổi và cuối cùng phải nhờ đến một người lính A-ma-lếch để kết thúc đời ông. Thật là một kết cục đáng thương đối với người được Thiên Chúa tuyển chọn để làm vị vua đầu tiên của dân Ít-ra-en! Chắc chắn Thiên Chúa không sai lầm, nhưng chính sự bướng bỉnh của Sa-un đã đưa đến sự tàn lụi của ông.

Do đó, khi một người chọn lựa sống trong tình yêu và theo kế hoạch của Thiên Chúa, người ấy phải lựa chọn điều gì tốt nhất để trở nên con người thực sự và sống thực sự. Bên cạnh đó, tình yêu mà chúng ta nói đến ở đây chính là ân huệ của Thiên Chúa dành cho chúng ta; tất cả những gì chúng ta phải làm đó là sống tình yêu bằng mọi giá, dĩ nhiên là cả cái tôi cũng như chủ nghĩa cá nhân của chúng ta nữa, và đây chính là điều làm nên sự khác biệt trong mọi lúc!

 

Ngày 3/6

“Nguyện xin Đức Giêsu được tôn thờ, yêu mến và phục vụ. Mọi thứ khác chỉ là không không vậy.” [ ]

Một thực tế được đặt ra đó là con người được ban tặng trí khôn và ý chí tự do, hay như Thánh vịnh 8 đã viết: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài muôn sự phủ phục dưới chân” và con người được truyền lệnh để “chinh phục trái đất” (St 1,28-30), người ta có thể mong chờ những hành động vĩ đại và tuyệt diệu từ con người qua nhiều thế kỷ. Thế nhưng, chinh phục những loài vật hung dữ nhất hay đối chọi với những tàn phá của Thiên nhiên, chẳng hạn như bão tố và động đất thì còn dễ hơn là chinh phục bản năng tự nhiên hướng chiều về sự dữ của con người. Chủ nghĩa cá nhân nơi chúng ta có thể đưa chúng ta đến việc tạo ra những đau khổ không mong muốn cho những anh em của chúng ta, như chúng ta thấy trong sự kiện tàn sát người Do Thái do Đức Quốc Xã gân nên ở thế kỷ trước để xem đó như một ví dụ.

Nhưng khi một ai đó có thể làm chủ được cái tôi của mình và để cho tình yêu trổ bông nơi cái tôi, chúng ta sẽ gặp được một trong những mẫu gương tuyệt vời nhất nơi công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Không có người nào hoàn hảo cả, nhưng khi tình yêu ngự trị nơi tâm hồn con người, mọi người sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa hiện diện nơi người ấy. Và qua mọi thời đại, Thiên Chúa nâng cao những con người có lòng quảng đại và cao thượng, họ đóng vai trò như một tia sáng cho người khác.

Kinh Thánh thuật lại cho chúng ta biết rằng người ta không thể nói người ta yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà người ta không xem thấy, trong khi lại không yêu thương anh em mình, những người mà mình trông thấy được. Vì thế, khi chúng ta có thể yêu thương những người thân cận của mình như chính anh chị em mình vậy, thì việc yêu mến Thiên Chúa vô hình sẽ không phải là một rào cản ghê gớm nữa. Nhưng dường như cha Eymard muốn đi xa hơn: cha mời gọi chúng ta trở thành những “chuyên gia” trong lĩnh vực yêu mến Thiên Chúa, và mặc dù cha không đề cập rõ đến điều này, thì nó cũng bao gồm cả việc yêu mến những người thân cận của chúng ta nữa. Cha kêu lên rằng ‘Tất cả mọi sự chỉ là không không vậy!’. Nói cách khác, dành thời giờ và sức lực để yêu thương người thân cận thì tốt hơn là xây những đài tưởng niệm vĩ đại hay khám phá những vùng đất mới. Tuy nhiên, điều này chỉ có ý nghĩa khi được làm vì người khác, hay với một tình yêu sâu đậm dành cho người khác mà thôi.

Vận động viên leo núi nổi tiếng, ngài Edmund Hilary, người đã chinh phục đỉnh cao nhất của ngọn núi Everest, có lẽ sẽ không được nhớ đến nhiều vì thành tích xuất sắc này cho bằng việc ông đã quan tâm và chăm sóc những người nghèo và những người cần giúp đỡ ở nhiều nơi trên thế giới. Cũng thế, ngày nay Alfred Nobel được nhớ đến vì những giải thưởng Nobel do ông phát động hơn là vì phát minh ra đi-na-mô mà khi sử dụng sai chức năng có thể gây ra những hư hoại và đau khổ không mong muốn cho hàng triệu con người.

Lời cầu nguyện và ước muốn của cha Eymard đó là: ngày càng có nhiều người nhận ra sự vĩ đại và giá trị của việc yêu mến Thiên Chúa và Con của Ngài, Đức Giêsu, Đấng được Ngài sai đến; nhận ra sự vĩ đại và giá trị của việc phó thác cuộc đời chúng ta cho Ngài, để Ngài có thể hướng dẫn họ đi đúng đường, hầu mưu cầu lợi ích cho toàn thể nhân loại. Tất cả những nhà phát minh cũng như những nhà khám phá vĩ đại, chẳng hạn như Thomas Edison, người đã chế tạo ra bóng đèn dây tóc, quả là một quà tặng dành cho nhân loại. Họ mời gọi tất cả chúng ta theo bước họ và dùng cuộc đời mình để trở nên những bài suy niệm hoàn hảo về tình yêu Thiên Chúa khi chúng ta có thể.

 

Ngày 4/6

“Tình yêu của Đức Giê-su mạnh hơn những nỗi buồn của chúng ta.” [ ]

Người ta nói rằng nếu bạn cầm một hạt cát nhỏ đưa sát vào mắt, trong khi mắt kia nhắm lại, thì hạt cát nhỏ ấy sẽ thu hẹp hoàn toàn tầm nhìn của bạn; bạn sẽ chẳng nhìn thấy gì trước mặt cả! Nhưng nếu bạn đặt hạt cát ấy ra xa chừng hai feet (khoảng 0,6 mét) khỏi mắt của bạn, bạn sẽ thấy hạt cát ấy cũng như mọi thứ xung quanh. Bài học thật đơn giản: mọi vật khi được nhìn dưới một góc độ phù hợp thì sẽ đẹp mắt và có ý nghĩa. Vận dụng bài học này vào trong những đau khổ của mình, chúng ta thấy rằng khi chúng ta chỉ tập trung vào những đau đớn và lo lắng của mình, thì dường như chúng sẽ ngày càng lớn dần hơn thực tế. Chúng không chỉ chi phối tất cả thời giờ và năng lực của chúng ta, nhưng còn có khuynh hướng lôi kéo nhiều thứ khác vào bức tranh này. Phá vỡ sự cân xứng, chúng đè nặng trên chúng ta và gây ra cho chúng ta một cảm giác về sự bất lực.

Trong một đoạn của thánh vịnh 32, chúng ta đọc thấy, ‘người trung thành và kẻ bất trung đều phải chịu những lo lắng và bất toàn trong cuộc sống, nhưng con cái Thiên Chúa thì luôn luôn cậy dựa vào tình yêu của Chúa Cha. Đó là lý do vì sao có ánh sáng ngay giữa đêm đen, niềm vui không hiểu nổi ngay giữa nỗi buồn và chúng ta có thể tìm được một cách đo lường hạnh phúc và niềm vui trong những tình cảnh xung quanh chúng ta (Leslie Brandt, Psalms Now, trang 52).

Khi chúng ta cảm thấy bị đè nặng bởi những thập giá của mình, đó là lúc để chúng ta điều chỉnh chúng cho phù hợp với những chân lý khác mà Đức Giê-su đặt ra trước mặt chúng ta. Chúng ta cần nhớ lại những câu, chẳng hạn ‘Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thưở’… (Gr 31,3) ‘ngươi là của riêng Ta’ (Is 43,1) ‘tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi và không ai sa ngã nếu Cha Thầy không cho phép’ (Lc 21,18) ‘đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ…’ (Mt 10,29). Khi trải qua con đường thập giá, nếu chúng ta có thể nhớ lại rằng Đức Giê-su cũng phải vác một gánh nặng suốt con đường đến núi Can-va-ri-ô và cuối cùng chết trên thập giá như một tội nhân, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng những thập giá của chúng ta chẳng là gì so với Người mặc dù Người hoàn toàn vô tội trong đám tội nhân! Hơn nữa, trên đường đến núi Can-va-ri-ô, chính ông Si-mon thành Ky-rê-nê là người đã giúp đỡ Đức Giê-su vác thánh giá, giờ đây cũng chính Đức Giê-su là Đấng sẽ giúp chúng ta vác thánh giá của mình. Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong những thảm cảnh này.

Chân lý này được làm nổi rõ trong câu chuyện “dấu chân trên cát”. Ở những dòng cuối của câu chuyện này, chúng ta thấy dường như chỉ có một dấu chân trong suốt cơn thử thách. Đó là vì trong những lúc khó khăn ấy, “Ta đã bồng ẵm con trên tay Ta, và những dấu chân ấy là của Ta, chứ không phải của con!” Khi nhìn vào những đau khổ của mình dưới một góc độ thích hợp, chúng ta sẽ nhận ra nơi chúng một cơ hội không chỉ để cảm nghiệm tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhưng còn là một cơ hội để chúng ta thể hiện tình yêu kiên vững của mình đối với Thiên Chúa. Tình yêu chỉ được kiểm chứng bằng việc trả giá chính mình; nếu không có sự hy sinh chính mình, tình yêu của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì cả. Sự hy sinh chính mình càng lớn, tình yêu mà nó biểu hiện càng mạnh mẽ! Vì thế, trong những lúc thử thách, điều tốt nhất không phải là tập trung vào chính mình, nhưng quy hướng về Thiên Chúa và người khác, vì những người này có lẽ chịu nhiều đau khổ hơn chúng ta và chúng ta cũng có thể trở thành sự trợ giúp cho họ trong những lúc thử thách.

 

Ngày 5/6

“Khi bạn ra đi với ân sủng của Thiên Chúa, công việc của bạn sẽ tốt đẹp.” [ ]

Ngày nay, các nhà khoa học ngày càng khám phá ra vẻ đẹp không thể đo lường nổi trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, đặc biệt là trong Vũ trụ bao la bát ngát mà Thiên Chúa đã dựng nên. Bất cứ điều gì Thiên Chúa dựng nên đều sắc sảo và là một sự phản ánh về chính sự hoàn thiện cũng như vẻ đẹp của Người. Chẳng hạn như đôi mắt của con người: nó có một năng lực thích nghi thật phi thường cho phép nó thích nghi với muôn vàn ánh sáng, bụi và sự ô nhiễm trong không khí, với sức mạnh của các nơ-ron liên kết nó với não bộ và kết quả là chúng ta có thể nhìn thấy đối tượng với tất cả màu sắc sặc sỡ của chúng. Máy chụp hình chỉ là một sự bắt chước của đôi mắt con người, phải cần đến rất nhiều phần tử li ti để cho phép nó hoạt động lên đến 1/100 khả năng của đôi mắt con người. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng mọi sự Thiên Chúa dựng nên đều là một công trình nghệ thuật, tràn đầy vẻ đẹp và sự hoàn hảo.

Đó là lý do tất cả những gì con người chúng ta làm cũng sẽ là một công trình nghệ thuật và hoàn hảo khi chúng ta biết đặt mình hoàn toàn vào bàn tay của Thiên Chúa, và để Người làm việc trong và qua chúng ta. Để cho việc này xảy ra ở mức độ cao nhất, chúng ta cần loại bỏ hoàn toàn Cái Tôi, như Mẹ Ma-ri-a ngay từ đầu đã chấp nhận thưa tiếng Fiat và Magnificat. Mẹ Ma-ri-a mãi mãi là một ‘nữ tỳ của Chúa’ vì Chúa đã thực hiện cho Mẹ như lời Chúa phán.  Và đó là lý do vì sao mọi sự được thực hiện qua Mẹ Ma-ri-a đều được xem là một phép lạ, ‘điều lạ lùng trước mắt chúng ta, nên chúng ta mừng rỡ hân hoan’ (Tv 126).

Nếu chúng ta cũng biết từ bỏ hoàn toàn Cái Tôi, thì bất cứ điều gì chúng ta làm sẽ tràn đầy quyền năng của Thiên Chúa, và kỹ năng cũng như cùng đích sẽ trở thành một điều kỳ diệu và đáng ngợi khen. Nếu điều này là đúng trong những gì chúng ta làm, thì nó cũng đúng trong khía cạnh tâm linh. Nếu chúng ta tự đào luyện chính mình để chỉ nói khi được tác động bởi Thần Khí Chúa và theo cách mà Chúa muốn chúng ta nói, chúng ta có thể đoan chắc rằng những lời nói của chúng ta sẽ là lời đem lại sự sống và là lời linh hứng, và không làm hại gì đến người khác. Như thánh Phao-lô nói, ‘anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu mến tha nhân, thì đã chu toàn lề luật’ (Rm 13,8).

Chúng ta sẽ có được những cộng đoàn đầy tràn bình an nếu tất cả chúng ta hành động theo nguyên tắc này, những gì chúng ta làm, chúng ta phải làm trong sự hiệp nhất với Chúa, Đấng ngự trong chúng ta! Thánh Phê-rô đã hành động trong sự hiệp nhất với Chúa Giê-su nên ngài có thể làm cho người ăn xin bị què đi được: “Nhân danh Đức Giê-su, tôi truyền cho anh, đứng dậy mà đi!” (Cv 3,1-12). Sau đó khi dân chúng tụ tập xung quanh để tôn vinh Phê-rô và Gio-an, ngay lập tức Phê-rô đã nhắc nhở cho họ biết rằng chính nhờ danh Đức Giê-su mà ngài mới có thể làm được điều kỳ diệu đó, chứ không phải bởi quyền năng của chính ngài và vì thế lời ngợi khen phải dành cho Đức Giê-su. Khi chúng ta hành động trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, công việc của chúng ta không những mạnh mẽ, nhưng còn tuyệt vời nữa, dễ dàng nhận thấy và cảm nghiệm được, và lời ngợi khen chỉ dành cho một mình Thiên Chúa mà thôi!

 

Ngày 6/6

“Đừng suy niệm quá nhiều trong lúc chiêm ngắm; tốt hơn là hãy luyện tập nhân đức” [ ]

Câu định nghĩa phổ biến của cầu nguyện chính là “một cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim với Thiên Chúa”. Hiển nhiên là phần chính yếu trong việc cầu nguyện của chúng ta phải bao gồm một cuộc đối thoại thân thương, chứ không đơn thuần là việc suy niệm bằng cái đầu. Vì khi chúng ta suy niệm, chúng ta chỉ tập trung vào chính mình là chủ yếu. Sự chú ý của chúng ta không tập trung quá nhiều vào người mà chúng ta đang đối thoại; chúng ta vướng bận vào việc hiểu biết chân lý hay đánh giá sứ điệp của đoạn Sách Thánh. Việc suy niệm thì quan trọng trong lúc cầu nguyện và không thể bỏ qua, vì nó đem lại cho chúng ta những ý tưởng mà sau này sẽ giúp chúng ta trò chuyện với Chúa. Nhưng suy tưởng đơn thuần chỉ là điểm khởi đầu và người ta không nên dừng lại ở đó quá lâu. Nhìn chung, nguyên tắc này sẽ đúng với mọi lời cầu nguyện: càng đặt con tim nhiều vào lời cầu nguyện và hạn chế bớt suy nghĩ bằng cái đầu thì càng tốt; Cái Tôi càng hạn chế, thì càng có nhiều lời cầu nguyện thích hợp! Hay, càng ít suy tưởng trong việc cầu nguyện, thì việc cầu nguyện ấy lại càng tràn ngập ngọn lửa bừng cháy của lời ngợi khen và tạ ơn.

Thật không may, chúng ta thường bỏ nhiều thời giờ vào việc suy niệm, có lẽ vì điều này thích hợp với lý trí của chúng ta; dường như chúng ta thích đi từ tiến bộ này đến tiến bộ khác trong việc hiểu biết về chân lý cụ thể. Chúng ta không hiểu rằng đây không phải là mục đích và điểm nhắm đến của cầu nguyện. Lối suy niệm đó sẽ đúng hơn khi ở ngoài việc cầu nguyện, hay thậm chí nó chỉ là một sự chuẩn bị cho việc cầu nguyện mà thôi. Nhưng thời giờ ấn định cho việc cầu nguyện nên được dành cho mối dây liên kết thực sự với Thiên Chúa.

Những hành vi được nói đến ở đây có thể là những hành vi ngợi khen và tạ ơn, thỉnh nguyện và thống hối, hay thờ lạy và yêu mến, tùy theo trường hợp. Ở đây, cũng thật là hữu ích để thực hiện những hành vi tự phát, thậm chí nếu ngôn ngữ của chúng ta không mấy đúng văn phạm hay thiếu tao nhã và mất đi những thành ngữ cũng như những cụm từ hay. Điều nên tránh bằng mọi giá, đó là: trích dẫn những lời cầu nguyện từ một quyển sách nào đó. Điều này có thể chấp nhận đối với một người mới bắt đầu, thậm chí là sau đó nữa, nhưng không nên kéo dài quá lâu. Chúng ta càng biết đặt mình vào việc cầu nguyện bao nhiêu, thì việc cầu nguyện sẽ tốt hơn bấy nhiêu. Thiên Chúa muốn đối thoại với chúng ta, và ngôn ngữ mà chúng ta dùng chỉ là một phương tiện để đạt đến sự kết hiệp đó. Những cụm từ nghe có vẻ cao siêu thường là một sự thay thế việc thực sự đặt chính tâm hồn chúng ta vào lời cầu nguyện, và chúng mang tính giả tạo và không thân thiện. Không cấm chúng ta dùng một thánh thi hay bài thơ để diễn tả những cảm xúc của mình, miễn là chúng ta vẫn tiếp tục quy hướng về Chúa.

Khi một ai đó trưởng thành trong nghệ thuật cầu nguyện, cần lưu ý rằng việc cầu nguyện sẽ ngày càng trở nên thinh lặng hơn; chỉ nói vài lời mà thôi. Lúc đó chính ‘trái tim’ nói và trái tim không cần nhiều lời để diễn tả một cách tương xứng. Thường chỉ là một ‘cái nhìn đầy yêu thương’ là đủ. Thậm chí, ngay cả một người bình thường, không được học hành, nhưng có lòng yêu mến nhiều, thì vẫn có thể dành nhiều giờ đồng hồ cho việc cầu nguyện hiệu quả này. Đối với một người như vậy, thời gian dành cho người mình yêu sẽ trôi qua mau đến nỗi người ấy không ý thức được sự trôi qua ấy.

 

Ngày 7/6

“Hiệp Lễ là sức mạnh và ân sủng cho đời sống thiêng liêng của bạn” [ ] 

Vào thời của cha Eymard, việc Hiệp Lễ được xem là quan trọng hơn việc cử hành Thánh Thể. Do đó, không lấy gì làm ngạc nhiên khi cha xem sức mạnh và ân sủng của đời sống thiêng liêng bắt nguồn từ việc Hiệp lễ. Ngày nay, với một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Thánh Thể, chúng ta nhận ra và nhấn mạnh rằng điều diễn ra trước tiên đó là việc cử hành Thánh Thể. Chính nơi đây, Chúa Cha gợi lại cho chúng ta về tình yêu vô biên của Người qua việc đọc Sách Thánh. Kế đến, Người mời gọi chúng ta bước vào Giao Ước với Người, qua đó Người mong chờ một lời đáp trả. Chúng ta đáp trả bằng lời khi khẳng định lại niềm tin của chúng ta vào Người, cũng như chấp nhận Thiên Chúa là tâm điểm của đời sống chúng ta. Chúng ta đem những của lễ là bánh và rượu, biểu trưng cho hy lễ của chúng ta, và sau khi những hy lễ này được biến đổi thành Đức Ki-tô qua Kinh Tạ ơn, chúng ta dâng “lễ hy sinh được chấp nhận” (lễ hy sinh của Đức Ki-tô cùng với lễ vật của chúng ta) lên Chúa Cha.

Chỉ trong bối cảnh của Giao Ước, chúng ta mới tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể của tình yêu. Trước hết, chúng ta nhớ lại căn tính Ki-tô hữu của mình khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha và sau phần chuẩn bị, chúng ta chia sẻ bánh đã được bẻ ra và Chén đã được sẻ chia. Quả thật, việc chia sẻ này đem lại sức mạnh cho chúng ta, nó không xảy ra một cách máy móc hay thần kỳ. Chúng ta được mời gọi bước vào mối dây hiệp thông liên vị với Chúa, mối dây hiệp thông này ám chỉ sự nhận thức về chiều sâu của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, và một sự trao đổi tình yêu của chúng ta với Người.

Ngày nay, chúng ta không xem việc Hiệp Lễ như nguồn sức mạnh được ban cho tôi để sống đời sống của một Ki-tô hữu tốt, nhưng chúng ta xem đó như một sự ủy thác của toàn thể Hội Thánh qua mối dây liên kết thâm sâu với Đức Giê-su để chúng ta có thể ra đi và hoàn tất sứ vụ của mình trong suốt ngày sống. Một Ki-tô hữu trước hết là một nhà truyền giáo được Đức Giê-su sai đi, cũng như Đức Giê-su được Chúa Cha sai đi! Sứ vụ của họ là trở nên muối cho đời, ánh sáng cho trần gian cũng như men trong bột, bất cứ họ ở vị trí nào cũng như bất cứ công việc hay nghề nghiệp của họ là gì. Chúng ta thực thi sứ vụ này không phải như những cá thể tách rời khỏi Đức Ki-tô, phụ thuộc vào những năng lực của mình. Nhưng, chính Chúa sẽ thực thi sứ vụ cùng với chúng ta vì chúng ta là những công cụ của Người. Do đó, tất cả những gì chúng ta cần làm là ở gần Người và tổ chức trật tự, giờ giấc của mình từ nơi Người, Đấng là Chúa và là Thầy. Người đảm bảo cho chúng ta rằng Người sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần, để hoàn tất sứ vụ này vào thời điểm thích hợp và bằng phương tiện thích hợp.

Chúng ta giống như những người thợ được mướn vào làm vườn nho (Mt 21, 33-41). Trước khi đi xa, ông chủ canh tác đất, rào giậu, xây một tháp canh, thậm chí trồng những cây con, rồi sau đó giao phó cho chúng ta. Công việc của chúng ta tuy nhỏ, nhưng quan trọng và cần thiết cho một mùa bội thu. Vào ngày thu hoạch, chúng ta được mời gọi nộp lại cho ông những thành quả chúng ta đã gặt hái được. Trong trường hợp của chúng ta, thành quả ấy sẽ là những con người mà chúng ta đã chia sẻ Tin Mừng cho họ. Chúng ta dẫn đưa họ vào Nước Trời, dạy dỗ họ tất cả những gì Chúa đã dạy chúng ta. Chúng ta lưu ý rằng điều này liên quan đến khía cạnh chủ động về phía chúng ta hơn là việc hiệp thông thụ động!

 

Ngày 8/6

“Những thử thách nhỏ luôn luôn sinh ích lợi” [ ]

Chúng ta có thể áp dụng lời nhận xét này của cha Eymard cho nhiều điều khác nữa theo nghĩa là, tất cả những thử thách đều sinh ích lợi cho chúng ta. Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta rằng mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa (Rm 8,28). Chúng ta sẽ nhìn lại những ơn lành phát sinh từ những thập giá nhỏ mà Chúa gửi đến cho chúng ta mỗi ngày. Trước hết, mỗi khó khăn hay mỗi thập giá nhắc nhở chúng ta về sự yếu đuối của mình, và nhắc nhở chúng ta cần phải ở lại trong mối dây liên kết mật thiết với Chúa. Như Đức Giê-su đã nói, ‘Thầy là cây nho, anh em là cành… không có Thầy anh em chẳng làm gì được… nếu cành không liên kết với cây thì không thể sinh hoa trái… Cha Thầy là người trồng nho… cành nào sinh hoa trái, Người sẽ cắt tỉa để nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,1-7). Chúng ta biết rằng khi mọi sự diễn ra êm xuôi, chúng ta có khuynh hướng lãng quên Thiên Chúa và việc cần đến Người. Vì thế những thử thách này sẽ đem chúng ta trở lại đường ngay nẻo chính.

Thứ hai, khi Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những thử thách, Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong những lúc khó khăn. Nhưng sự trợ giúp mà Người dành cho chúng ta cũng được chuyển cho người khác khi chúng ta thấy họ đang gặp khó khăn. Thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta, ‘Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó’ (2 Cr 1,3-4). Vì thế, những đau khổ sẽ giúp chúng ta hiểu được nhu cầu của anh chị em mình, cũng như khuyến khích chúng ta tiến đến với họ. ‘Hãy làm cho người khác những gì anh em muốn người khác làm cho mình’ (Mt 7,12) là một quy luật giá trị cần phải theo trong những hoàn cảnh này.

Thứ ba, mỗi thử thách xảy đến với chúng ta đều mang theo một thông điệp cho biết: chúng ta có thể học được gì từ những thử thách ấy. Khi chúng ta biết dùng thời giờ và sự nỗ lực để khám phá ra sứ điệp ấy muốn nói gì cũng như chúng ta có thể học được gì từ sứ điệp ấy, chúng ta sẽ biết cách chuẩn bị tốt hơn cho tương lai. Như thế, chúng ta sẽ tiếp tục tiến bộ về mọi phương diện trong Đức Ki-tô, Đấng là mục tiêu của cuộc đời chúng ta trên thế gian này. Hơn thế, nhìn chung, những thử thách của chúng ta bắt nguồn từ những người xung quanh chúng ta, từ sự thiếu quan tâm của họ, sự lãng quên hoặc thậm chí đôi lúc còn có tà ý nữa. Khi chúng ta nhận ra rằng biết bao hiểm họa do họ gây ra không làm thay đổi những thái độ nơi họ, chúng ta nhớ rằng chính chúng ta cũng mắc phải những sai lầm và thất bại khiến người khác phải đau khổ. Chúng ta ngày càng nhạy bén hơn với những thói quen và cách cư xử của mình, đặc biệt là những khía cạnh có ảnh hưởng đến người khác. Ở đây, chúng ta trưng dẫn một cách nói khác của câu nói ở trên: ‘Đừng làm cho người khác những gì mà anh em không muốn người khác làm cho mình!’

Và sau cùng, những thử thách cũng như những đau khổ của chúng ta góp phần ‘mang vào thân cho đủ mức những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu’ (Cl 1,24) vì ơn cứu độ của thế gian. Nhờ đau khổ, chúng ta thông phần vào công trình cứu chuộc. Chúng ta cũng nhận ra rằng chúng ta đang lữ hành trên trần gian này. Chỉ khi nào chúng ta về tới nhà Cha, bấy giờ chúng ta mới thoát khỏi đau khổ. Vì thế, chúng ta mạnh dạn trông chờ “miền đất hứa” cũng như nỗ lực để vào được vùng đất ấy. Chúng ta cũng nhớ rằng không ai vào Nước Trời một mình (hay thậm chí là vào hỏa ngục, đó là vấn đề) chúng ta luôn luôn cùng đi với người khác. Và vì thế, chúng ta ra sức làm việc bao nhiêu có thể, để hiểu được giá trị cứu độ từ sự đau khổ, cũng như lợi ích mà chúng mang lại.

 

Ngày 9/6

“Tình Yêu của Đức Giê-su ví như ngọn lửa, chúng ta phải đặt mình cạnh ngọn lửa ấy để cảm nhận được nó.” [ ]

Để đánh giá lời nhận xét của cha Eymard, chúng ta cần nhớ lại rằng chúng ta chỉ cảm thấy cần hơi ấm khi chúng ta lạnh. Môi trường xung quanh càng lạnh, chúng ta càng phải đến gần lửa, nếu chỉ có một sự lựa chọn. Khi chúng ta cảm nghiệm được sự bất lực bẩm sinh của mình, sự đổ vỡ cũng như sự thiếu khả năng để đương đầu với những tình huống khó khăn, thì chúng ta mới hiểu rõ được sức mạnh và quyền năng của Đức Ki-tô, là Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Thánh Phao-lô giải thích điều này một cách mạnh mẽ khi viết ‘Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Như vậy, nếu theo lý trí, thì tôi làm nô lệ luật của Thiên Chúa; nhưng theo xác thịt, thì tôi làm nô lệ luật của tội.’ (Rm 7,22-25).

Một người đang đói sẽ dùng những đồ ăn mà anh ta nhận được, dù cho đồ ăn đó không hợp với sở thích và mùi vị của anh ta; một người té xuống nước sẽ chộp lấy bất cứ vật gì với hy vọng tránh được nguy cơ chết đuối. Vì vậy, chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm được sống mà không có tình yêu thì nào có nghĩa lý gì, hay sống với một tình yêu sai lầm thì nào có ích chi, khi đó tình yêu của Chúa Giê-su mới trở thành một ngọn lửa, mời gọi chúng ta đến tận hưởng hơi ấm phát ra từ ngọn lửa ấy. “Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh, như chiếc ấn trên cánh tay anh. Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể.” (Dc 8,6-7).

Chúng ta được mời gọi để cảm nhận ngọn lửa tình yêu của Đức Ki-tô (của Thiên Chúa) trong mỗi Thánh Lễ chúng ta cử hành. Các bài đọc, trong khi chỉ cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đối xử với nhiều người trong những tình huống khác nhau trong quá khứ, đảm bảo cho chúng ta rằng ngày nay, Ngài cũng sẽ đối xử với chúng ta theo cách thức đó, chẳng hạn như bằng tình yêu vô biên và vô điều kiện. Nếu chúng ta có thể ra công làm việc một cách có ý thức để khám phá những ưu phẩm của tình yêu Thiên Chúa trong mỗi bài đọc chúng ta lắng nghe, trong hay ngoài Phụng vụ, thì chắc chắn chúng ta sẽ cảm nhận được ngọn lửa tình yêu ấy và sẽ bị lôi cuốn vào đó nhiều hơn là những thứ tình yêu khác. Dĩ nhiên, vấn đề là chúng ta thường không tìm kiếm những ưu phẩm của Thiên Chúa khi lắng nghe các bài đọc Sách Thánh; dường như chúng ta chỉ tập trung nhiều hơn vào chính mình cũng như vào những việc chúng ta cần làm, để đáp trả lại những gì được nhắc đến trong bài đọc. Chắc chắn điều này cũng cần được thực hiện, thế nhưng nó phải đến sau, khi chúng ta đã khám phá ra những ưu phẩm của Thiên Chúa.

Để làm được việc này một cách hiệu quả, chúng ta cần lắng nghe ‘bằng con tim’ mà đôi lúc khác xa với việc lắng nghe bằng ‘cái đầu’. Khi chúng ta dùng lý trí để lắng nghe, thì chúng ta chỉ tìm kiếm những ý tưởng, ý nghĩa cũng như việc trợ giúp để hiểu biết. Nhưng việc lắng nghe bằng con tim sẽ đưa chúng ta vào những cảm nhận, và đem đến một sự hiệp thông giữa con tim và lý trí. Đây là những nguyên tố thực sự đem lại hơi ấm cho con tim lạnh giá của chúng ta. Và điều quan trọng nhất, đó là: khi chúng ta cảm nếm được tình yêu này cũng như học được cách liên hệ với tình yêu này, chúng ta sẽ không đánh mất tình yêu ấy để đổi lấy bất cứ thứ gì khác ở thế gian!

 

Ngày 10/6

“Mọi sự sẽ đến khi chúng ta cần” [ ]

Không bận tâm đến bối cảnh đã khiến cha Eymard đưa ra lời nhận xét này, quả thực là có nhiều chân lý chứa đựng trong lời nhận xét ấy, nếu chúng ta có thể hiểu được lời nhận xét ấy có ngụ ý gì. Khi Thiên Chúa tạo dựng thế giới, chắc chắn Ngài đã có một kế hoạch cụ thể về việc làm thế nào để thực hiện công trình vĩ đại này. Nhiều tác giả gọi đó là “ý định” của Thiên Chúa, các tác giả khác xem đó là “tầm nhìn” Ngài dành cho Vũ Trụ. Bất kể là chúng ta dùng tên gì đi nữa, sự thực là trong thế gian này mọi sự không xuất hiện một cách ngẫu nhiên, nhưng theo một kế hoạch do Thiên Chúa xếp đặt trong công trình sáng tạo. Về cơ bản, kế hoạch này là ‘đặt mọi sự quy phục dưới chân Đức Kitô’ trong sự duy nhất, hiệp thông, tình yêu và bình an (Ep 2,1-22).

Vì thế, khi một ai đó hướng đời mình theo kế hoạch của Thiên Chúa một cách có ý thức và có chủ đích, kinh nghiệm cho thấy mọi sự sẽ được đặt để vào đúng vị trí. Người ta sẽ gặp được những con người xứng đáng, tìm được những chất liệu hay nguồn lực thích hợp nhất từ những gì cần thiết nhất có thể có được, khám phá ra cách tốt nhất để đạt được nó. Thật vậy, mọi sự sẽ được đặt vào đúng chỗ, giống như trò chơi ghép hình vậy. Khi chúng ta thấy điều này xảy ra, chúng ta không nên gán ghép cho khả năng của mình đã sắp xếp mọi thứ, hoặc nhớ lại những chi tiết và những sự việc đã đọc được ở đâu đó hay đã làm trong quá khứ… cũng không phải do tình cờ hay do may mắn. Chỉ đơn giản là kế hoạch của Thiên Chúa đang được hoàn tất. Thánh Phaolô đã xác quyết điều này “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8,28)

Điều quan trọng cần biết, đó là chúng ta được định hướng theo kế hoạch của Thiên Chúa. Điều duy nhất cản trở công trình của Thiên Chúa chính là Cái Tôi, vì thế chúng ta càng quyết tâm loại bỏ cái tôi, hay đúng hơn, chúng ta càng biết đặt trọn Cái Tôi mỏng dòn vào bàn tay Thiên Chúa, Đấng là căn nguyên của mọi sự, thì càng dễ dàng để mọi sự xảy đến đúng thời và đúng chỗ.

Một ví dụ từ cuộc đời của cha Eymard có thể giúp ích cho chúng ta. Cha đã cố gắng gia nhập vào chủng viện Grenoble để trở thành linh mục. Nhưng chính vì điều này, cha cần một lá thư giới thiệu của cha sở, là người vốn không có thiện cảm với cha Eymard. Vì thế, cha đã quyết định đi mà không cần lá thư ấy và chờ xem điều gì sẽ xảy ra. Trước khi vào chủng viện, cha đã đến một nhà thờ cách đó không xa. Và ở đó, cha đã gặp Đức Giám mục Mazenod, cha đã trình bày ý định của mình với ngài. Đức Giám mục đã đến và giải thích mọi vấn đề với cha Giám đốc chủng viện. Cuối cùng, cha Eymard được chấp nhận để trở thành một chủng sinh mà không cần bất kỳ một lá thư giới thiệu nào!

Nhiều người đã có được kinh nghiệm này trong cuộc đời mình, thậm chí là cả ngày nay nữa. Đó không phải vì họ là những người thánh thiện hay những vị đại thánh. Điều quan trọng đó là: điều chúng ta mong ước phải nằm trong ý muốn của Thiên Chúa, chỉ khi ấy chúng ta mới có thể mong chờ mọi sự sẽ diễn ra như cha Eymard nói. Thực tế, chúng ta không cần làm bất cứ điều gì để có được điều này, ngay cả không cầu nguyện đi chăng nữa. Điều này xảy ra là do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn điều tốt nhất cho chúng ta, là những đứa con yêu dấu của Ngài.

 

Ngày 11/6

“Chân lý của Đức Giê-su tựa như ánh sáng” [ ]

Đức Giê-su tuyên bố với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tăm tối nhưng sẽ có ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Và chỉ một lát sau đó trong Tin Mừng, Người đã lặp lại: “Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình đi đâu. Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,35-36). Đức Giê-su là ánh sáng vì Người sống trước mặt Chúa Cha và trong Chúa Cha, Người nhận ra sự viên mãn của chân lý. Và “quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. Chưa ai đã từng thấy Thiên Chúa. Nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,17-18).

Thật là hữu ích để nhắc nhở chính chúng ta rằng ánh sáng không tạo ra mọi sự xung quanh chúng ta. Đơn giản, nó chỉ cho chúng ta thấy điều gì đã xuất hiện. Khi một ai đó bước vào một căn phòng tối om, người ấy không dễ dàng thấy được những trang thiết bị nội thất có sẵn trong phòng; thực tế, dù người ấy có thể nhận thấy căn phòng trống rỗng và không có trang thiết bị nội thất nào trong phòng cả. Nhưng, khi ánh sáng được thắp lên, người ấy sẽ nhìn thấy mọi thứ có trong phòng. Tương tự như vậy, chân lý mà Đức Giê-su mặc khải cho chúng ta sẽ cho chúng ta biết rằng dưới cái nhìn của Thiên Chúa, chúng ta là những đứa con đáng yêu và quý giá của Ngài! Thật không may, nhiều người cảm thấy khó có thể tin được điều này vì tất cả những gì họ thấy chỉ là những lỗi lầm, yếu đuối và giới hạn của mình. Vẻ đẹp thực sự của họ vẫn còn ẩn tàng bên dưới đống “rác rưởi”. Và khi biến đống rác rưởi này thành ‘chân lý’, họ tự kết án chính mình và thậm chí còn có kết cục tệ hại hơn nữa!

Nếu chúng ta muốn sống nhờ ánh sáng do chính Đức Giê-su đem lại cho chúng ta, chúng ta phải sống nhờ lời của Người: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ làm cho các ông được tự do” (Ga 8,31-33). Chúng ta sẽ không cảm nghiệm được quyền năng trong những lời nói của Đức Giê-su cho tới khi chúng ta bắt đầu đem những lời ấy ra thực hành. Chúng ta cần phải luôn luôn nhắc nhở chính mình rằng chúng ta là những đứa con yêu dấu của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta một cách điên cuồng, để luôn thấy rằng chúng ta hãy dành cho Ngài một cơ hội để biểu lộ những ơn phúc của Ngài trên chúng ta. Trong Thánh vịnh 81, Thiên Chúa than khóc: “Hỡi Is-ra-el, phải chăng ngươi chịu nghe Ta! Há miệng ngươi ra, Ta sẽ cho đầy ứ. Nhưng dân Ta đã chẳng nghe lời, Is-ra-el nào đâu có chịu. Ta để chúng lòng chai dạ đá, muốn đi đâu thì cứ việc đi. Ôi dân Ta mà đã nghe lời, Is-ra-el chịu theo đường Ta chỉ!” (8-13).

Chân lý của Thiên Chúa nghe có vẻ xa lạ hơn chuyện tiểu thuyết, và tình yêu của Ngài dành cho chúng ta dường như là không thể tin nổi. Nhưng, nếu chúng ta có thể hiểu được chân lý này, chúng ta sẽ là những kẻ luôn luôn đứng vững. Ánh sáng sẽ chỉ cho chúng ta thấy những điều tốt cũng như những điều xấu; nếu chúng ta có thể tập trung vào điều tốt, thì chẳng cần phải sợ ánh sáng! Tuy nhiên, chỉ nhận biết chân lý thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải sống nhờ chân lý ấy và nhận ra tất cả tiềm năng của chân lý ấy. Và khi chúng ta thực hành điều mà chân lý dạy chúng ta, chúng ta sẽ thấy rằng nếu mọi sự ngày càng trở nên dễ hiểu, thì những chân lý sâu xa sẽ càng đến được với chúng ta. Và vì thế, chúng ta sẽ đi từ sức mạnh này đến sức mạnh khác cho tới sự viên mãn của Thiên Chúa!

 

Ngày 12/6

Còn gì tốt hơn hay đẹp hơn Thánh Thể nữa?” [ ]

Mặc dù vào thời đại của mình, cha Eymard không nhận được những ích lợi do Công đồng Vaticano II và cuộc cải cách mang lại, thế nhưng cha lại có một sự hiểu biết rất sâu sắc về ý nghĩa của Thánh Thể trong đời sống của một Ki-tô hữu đích thực. Đối với cha, Thánh Thể không chỉ đơn thuần là sự hiện diện thực sự của Chúa Giê-su dưới hình bánh, hay Chúa Giê-su thực sự cư ngụ trong các Nhà Tạm của chúng ta trên khắp thế giới. Mà hơn thế, Thánh Thể là Việc Cử hành mà qua đó Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến chia sẻ sự sống và tình yêu của Ngài. Chắc chắn, cha Eymard không thể dùng những từ ngữ như chúng ta dùng ngày nay, những từ và những khái niệm chẳng hạn như: Giao ước, Mầu Nhiệm Vượt Qua, Kinh Beraka, … nhưng đối với cha: Thánh Thể là mầu nhiệm tình yêu vô biên của Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta.

Thực tế, đây chính là mầu nhiệm cao cả mà chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiểu hết được sự sâu rộng của mầu nhiệm ấy trong cuộc đời mình. Thậm chí, khi chúng ta chỉ tập trung vào một khía cạnh của mầu nhiệm ấy trong một thời điểm nào đó, chúng ta có thể đồng hóa một cách nghèo nàn tất cả những gì mà mầu nhiệm ấy đem lại cho chúng ta, cũng như đòi hỏi chúng ta. Cha Eymard thường quay trở về chủ đề “bàn tiệc” để ý thức rằng chính nơi đây chúng ta được nuôi dưỡng về tâm linh, và được trang bị để thi hành sứ mạng loan báo sự hiểu biết và cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa. Đối với cha, Phụng vụ Lời Chúa không chỉ đơn thuần là một phần của Thánh lễ, nhưng là khởi đầu cho sự hiệp thông của chúng ta với Chúa. Hơn nữa, sự hiệp thông bí tích này là cuộc gặp gỡ thực sự của hai con người trong cuộc giao tiếp thân mật. Chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng những tư tưởng thâm sâu nhất, và ngay cả những ơn linh hứng liên quan đến việc thành lập Hội dòng Thánh Thể của cha đều nhận được trong suốt thời gian “cám ơn” sau Thánh lễ.

Hơn nữa, trong suốt kỳ đại tĩnh tâm ở Rô-ma vào năm 1865, cha nhận được một đặc ân để khám phá ra một kho tàng đích thực: Phòng Tiệc Ly Nội Tâm, nơi đó Đức Ki-tô ở lại với chúng ta suốt cả ngày sống. Vả lại, đây không phải là một ý tưởng thoáng qua, chỉ nhận được trong sự say mê của một kỳ tĩnh tâm rồi sau đó vụt tan biến đi, hay chỉ đến một cách tình cờ mà thôi. Cha đã nuôi dưỡng ý thức về sự hiện diện nội tâm, để từ đó tạo ra một sự khác biệt thực sự trong cách cư xử của cha. Kể từ đó, mối tương quan của cha với các anh em, khả năng đón nhận mọi đau khổ, cả về thể lý lẫn cảm xúc, quả thực là rất phi thường. Ban đầu, niềm vui của cha đơn giản chỉ là có được một căn phòng gần nhà nguyện. Thực tế, khi làm một căn phòng có một cánh cửa sổ mở toang để hướng nhìn về gian cung thánh của Nhà nguyện, cha cảm thấy rất vui, mặc dù việc đó ít đem lại những tiện nghi khác.

Từ năm 1865 trở đi, việc cha đã sống ở đâu, hay cha đã đi đâu không còn là vấn đề nữa, vì cha đã mang Thầy Chí Thánh cùng đi với mình đến khắp mọi nơi. Cha đã trò chuyện với Ngài suốt cả ngày, và vì thế chúng ta có thể tưởng tượng ra chiều sâu của sự hiệp thông của cha với Chúa là gì trong suốt buổi cử hành Thánh Thể. Cha sẽ không đưa ra quyết định nếu trước đó cha không tham khảo ý kiến của Thầy mình, cha sẽ không hành động mà không tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa. Thực tế, qua việc sống Giao ước một cách thực sự mà Thiên Chúa và cha đã trở nên một, có thể nói như vậy. Cha luôn luôn mong muốn trở nên giống Chúa Giê-su, điều mà chính Chúa Giê-su đã dâng lên Chúa Cha, hoàn toàn suy phục và phục vụ Chúa. Vì thế, khi cha nhận xét rằng không còn gì đẹp hơn Thánh Thể, cha biết chắc điều cha đang nói là gì. Điều cha ao ước nhất cho các học trò của mình, đó là: họ cũng khám phá ra kho tàng quý giá này, không bận tâm đến cái giá phải trả như thế nào!

 

Ngày 13/6

“Phúc thay ai không có thứ gì và không bám víu vào bất cứ thứ gì.” [ ]

Có lẽ một chân lý quan trọng khác mà cha Eymard nhận ra, đó chính là sự tàn phá mà Cái Tôi gây ra trong đời sống tâm linh. Từ kinh nghiệm bản thân, cha nhận ra rằng: không cần biết người ta đã cẩn trọng như thế nào, nhưng Cái Tôi vẫn có thể len lỏi một cách rất khôn khéo, và thậm chí nó còn phá hủy cả những nỗ lực vẻ vang nhất trong đời sống tâm linh. Và đó là lý do vì sao cha luôn tìm cách loại bỏ Cái Tôi ngay khi cha phát hiện ra bất kỳ một thủ đoạn xảo quyệt nào của nó trong cuộc đời mình. Cụ thể, cha đã ý thức rằng một trong những khuynh hướng khôn khéo của Cái Tôi chính là làm cho người ta bám víu vào những cái bên ngoài, của cải vật chất vì tin rằng những thứ này đem đến cho người ta một địa vị, ý nghĩa và giá trị.

Ngay cả khi là một linh mục trẻ, cha thường đem đồ ăn, quần áo và thậm chí là những thứ cần thiết khác cho những người nghèo, những người mà cha cho là cần những thứ này hơn cha. Thực tế, các chị của cha luôn để ý đến những nhu cầu vật chất của cha giống như những người chăm nom nhà xứ của cha vậy. Họ đã cất giấu nhiều của cải đi, để cha không thể đem phân phát cho những người túng thiếu tìm đến với cha. Sau này, khi trở thành một tu sĩ, cha còn quảng đại hơn nữa với những người nghèo và những người cần giúp đỡ, cha luôn tìm cách để không bám víu vào bất cứ thứ gì cũng như không để cho bất kỳ của cải vật chất nào cản lối đi của cha. Do đó, cha thường quở trách chính mình về sự quyến luyến với những điều nhỏ nhặt, chẳng hạn như: việc phải dùng thuốc hít để cảm thấy dễ chịu, nhưng đôi lúc việc này cũng bị loại bỏ trước khi cha qua đời.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần chú ý là việc từ bỏ của cải vật chất không ngụ ý nói rằng người ta đang ở gần Thiên Chúa. Đây chỉ là một mặt của đồng xu, và là một khía cạnh tiêu cực. Mặt khác, việc hiệp thông với Thiên Chúa, không xảy đến một cách tự động, nhưng cần sự trau dồi chu đáo. Đây là điều mà cha Eymard đã thực hiện. Tuy nhiên, cha đã nghiệm thấy được sự tự do phát xuất từ việc không quyến luyến với những của cải vật chất. Cha không bao giờ khó chịu về những đồ ăn mà cha ăn, cũng như về hình thức bên ngoài của cha. Như một phần của cách làm này, cha đoan chắc rằng cha vẫn tiếp tục quan tâm đến hàng ngàn dự án khác, để luôn tìm cách dâng hiến điều tốt đẹp nhất cho Thiên Chúa, Đấng mà cha được mời gọi để phục vụ.

Sau khi sáng lập Hội Dòng, một trong những nỗi thất vọng lớn nhất của cha, đó là: một vài người gia nhập vào cộng đoàn mới được thành lập này chỉ lo quan tâm đến việc xây đắp tổ ấm cho mình hơn là xây đắp cho vương quốc của tình yêu và bình an của Thiên Chúa. Thậm chí, những tập sinh do cha đào tạo cũng không tiến bộ như cha mong muốn. Tuy nhiên, ước vọng chính của cha, đó là họ không nên đặt bất kỳ một chướng ngại nào trên tiến trình thăng tiến trong đời sống tâm linh của mình! Ước muốn tha thiết của cha là họ sẽ đạt đến mức cao nhất trong việc kết kiệp với Chúa Cha, bởi vì đó là cùng đích và mục đích của Thánh Thể mà Đức Giê-su đã hiến ban chính mình cho chúng ta một cách quảng đại. Cần lưu ý rằng khi cha sáng lập Dòng Thánh Thể, tất cả những gì cha có chỉ là một con dao và một cái thìa cũng như một ít phrăng (francs) Pháp, nhưng cha đã sở hữu một niềm vui nội tâm mà không ai có thể lấy mất được! Thậm chí sau này, không điều gì làm cha cảm thấy tự hào cho bằng là cha đã tự huấn luyện mình để không dính bén đến những thứ mà người khác nghĩ là cần thiết.

 

Ngày 14/6

Cuộc sống không có bất kỳ sự hấp dẫn hay sức mạnh nào khác, ngoại trừ Thánh Thể.”. [ ]

Lời tuyên bố này chỉ có thể đến từ một người đã cảm nếm được sự vui sướng sâu thẳm của Thánh Thể, cụ thể là sự trung tín của Thiên Chúa đối với lời hứa của Ngài. Sau hết, mỗi người đều tìm kiếm bình an và hạnh phúc, và trên hết là sự hoàn thiện bản thân trong cuộc sống. Nhưng cùng lúc đó, mỗi người nhận ra rằng họ không thể đạt được mọi thứ bằng chính sức lực của mình. Nghịch lý của Ki-tô giáo nằm ở chỗ người ta càng đánh mất bản thân vì Chúa và vì vương quốc của Ngài, người ta lại càng tìm được sự sống. Chỉ khi biết cho đi thì chúng ta mới nhận lại được, chỉ khi biết tha thứ thì chúng ta mới được thứ tha và khi biết chết đi thì chúng ta mới sinh lại trong đời sống vĩnh cửu, như thánh Phan-xi-cô Asixi đã nhận xét trong lời kinh hòa bình đầy ý nghĩa của ngài.

Thật không may, thực sự là khó chấp nhận chân lý này nếu chỉ đơn thuần dựa vào uy quyền của một ai đó, không cần biết người ấy được đề cao như thế nào! Dù đã nghe vấn đề này nhiều lần và dưới nhiều cách thức khác nhau, người ta vẫn cảm thấy mình có thể đạt đến sự sống viên mãn mà không cần theo kế hoạch và ý định của Thiên Chúa. Vì thế, con người đi theo nhiều hướng khác nhau để tìm kiếm sự hoàn thiện trong nhiều tình huống, nhưng rồi họ chỉ trở về với vạch xuất phát, thất vọng, trống rỗng và vỡ mộng. Phúc thay ai sớm khám phá ra lỗi lầm của mình trong cuộc sống, để có thể tận hưởng những gì còn lại, dựa trên sự khôn ngoan của bản thân mà người ấy có được. Có lẽ ví dụ điển hình nhất về vấn đề này trong Tin Mừng đó là câu chuyện “người con hoang đàng” (Lc 15,11-32).

Không biết cha của anh đã thuyết phục anh bao nhiêu để anh không thực hiện kế hoạch mạo hiểm của mình, sự mạo hiểm này ảnh hưởng đến những giá trị chân thực và đời sống nội tâm sâu thẳm của anh, anh sẽ không để ý đến sự khôn ngoan và kinh nghiệm của người cha. Chẳng bao lâu sau khi rời khỏi nhà cha, khi nghiệm ra được những thất vọng của cuộc sống và cảm thấy đói bụng, anh ta mới bừng tỉnh và nhận ra sự thật “những người đầy tớ của cha tôi ăn ngon hơn, tôi phải ở nơi khổ sở này. Vâng, tôi sẽ đứng lên, và trở về với cha tôi. Được làm đầy tớ trong nhà cha tôi còn tốt hơn là sống tự do và nghiệm ra điều mong muốn này!” Sự trớ trêu của cuộc sống chính là người ta thường không có cơ hội để bắt đầu lại tất cả; hay thậm chí khi nhìn thấy ánh sáng, người ta sẽ dành nhiều năm để vui hưởng sự tự do mới tìm được và niềm hạnh phúc của mình! Thường thì, người ta phải sống với sự đổ vỡ mà họ gây ra cho chính bản thân mình và chỉ xấu hổ vì điều đó với bản thân mình mà thôi.

Tuy nhiên, khi tương giao với Thiên Chúa, Người Cha yêu thương của chúng ta, chúng ta có thể đoan chắc rằng Ngài sẽ không bao giờ chối bỏ chúng ta cả. Thậm chí là trong giờ phút cuối cùng, sự hoán cải trên giường bệnh cũng được tôn vinh và được tưởng thưởng như trường hợp của tên trộm lành trên đồi Can-vê. Người khôn ngoan thực sự là người học được cách chọn lựa điều mà Chúa ban cho, dù khi điều đó không được xem là tốt nhất cũng như không hứa hẹn nhất. Thế nhưng, chẳng phải là hợp lý để nghĩ rằng Đấng đã tạo dựng nên chúng ta sẽ biết rõ điều gì sẽ đem đến cho chúng ta sự hoàn thiện đích thực? Thánh Thể, qua đó Chúa Giê-su hiện diện một cách đích thực trong cuộc đời chúng ta, quả thực là một bậc thầy vĩ đại dẫn chúng ta đến sự sống viên mãn trong mọi cách thức có thể! Nhưng, những sự giàu có này sẽ là của chúng ta khi chúng ta đi từ việc cử hành Thánh Thể đến việc sống những đòi hỏi của việc cử hành ấy trong đời sống hàng ngày.

 

Ngày 15/6

Đối với một Ki-tô hữu, yêu mến Chúa có nghĩa là chịu đau khổ vì Người.”. [ ]

Trong lời khẳng định này của cha Eymard, chúng ta lại đụng chạm đến mầu nhiệm tình yêu và mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời mình. Thực ra, lời khẳng định này thậm chí còn đúng với cả tình yêu dành cho người khác vì tình yêu có nghĩa là trao hiến hoàn toàn bản thân mình cho người khác. Không thể yêu nếu không thực sự chết đi cho cái tôi, vì tình yêu chỉ bắt đầu lớn lên khi người khác trở nên quan trọng hay thậm chí là quan trọng hơn cả bản thân mình! Nếu tình yêu không đưa người ta đến việc hạ mình xuống thậm chí là sẵn sàng rửa chân cho người mình yêu, và nếu tình yêu không đưa người ta đến chỗ lúc nào cũng sẵn sàng làm như vậy, nhưng chỉ khi nào thích mới làm, thì tình yêu ấy không thể xem là “tình yêu đích thực” được.

Quả thực, yêu có nghĩa là cho đi, không chỉ những quà tặng bề ngoài cho người yêu, nhưng là một sự trao ban bản thân cho người yêu, chia sẻ với người mình yêu một cách hoàn toàn và không cần đền đáp gì cả. Như chính Chúa Giê-su đã chỉ cho chúng ta thấy, dấu chỉ vĩ đại nhất của tình yêu nơi Người chính là việc trao ban thân mình cho cả Chúa Cha qua sự vâng phục và cho anh em Người qua việc phục vụ yêu thương, thậm chí là đưa đến việc rửa chân cho các môn đệ của Người. Vì vậy, chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi một Ki-tô hữu nói rằng anh ta yêu mến Thiên Chúa hoặc thậm chí muốn yêu mến Chúa mà lại không sẵn sàng chịu đau khổ vì Người thì quả thực là một sự mâu thuẫn trong ngôn từ.

Hơn nữa, đau khổ mà con người ta gặp phải trong khi yêu, bất luận là đến từ Thiên Chúa hay người khác, thì chắc chắn không phải là đau khổ mà người ta chọn lựa cho bản thân mình. Nói chung, đó sẽ là điều mà người ta không bao giờ chọn lựa cả, ngoại trừ là vì yêu mà thôi. Và chính tình yêu sâu thẳm mà người ta dành cho người mình yêu mới biến sự hy sinh này thành có thể và chấp nhận được. Thực ra, nơi nào có tình yêu chân thật, thì người ta sẽ không còn để ý hay toán tính gì nữa, nó đến một cách tự nhiên. Có người mẹ nào mà lại không dám hy sinh giấc ngủ để ở bên canh chừng đứa con đang ốm của mình, nhận lấy sự bất tiện về phần mình, dù bà biết rằng ngày mai bà phải làm việc suốt cả ngày tại văn phòng, phải xử lý nhiều chuyện quan trọng? Tình yêu sâu đậm dành cho đứa con cho phép bà chấp nhận tất cả những bất tiện trong vai trò làm mẹ, vì con cái của mình, không cần biết chúng bao nhiêu tuổi.

Một điểm nữa cũng đáng lưu ý, đó là: sự sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa của chúng ta phải được hiện thực hóa qua sự đau khổ của chúng ta vì anh chị em mình. Thiên Chúa đến với chúng ta qua những người xung quanh chúng ta, vì thế chính những tương quan hằng ngày với người khác cho thấy chúng ta đang diễn tả tình yêu của mình với Thiên Chúa. Đây là điều quan trọng cần lưu ý, bởi vì một người có thể sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, nhưng lại không sẵn sàng chịu đau khổ vì những người ở gần anh ta nhất! Vài người không thể nhận ra sự mâu thuẫn liên quan đến điều này, mà lại tự hào rằng mình rất yêu mến Thiên Chúa nhưng lại không yêu thương người thân cận, ngay cả sau khi lắng nghe lời của Chúa Giê-su “việc các ngươi làm cho một người anh em bé mọn nhất của Ta là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy!” Và sự hy sinh bản thân vì người khác phải bắt đầu nơi chính gia đình, ngay những thành viên trong gia đình của chúng ta. Thường thì yêu thương những người trong gia đình khó hơn là yêu thương người ngoài! Nói chung, các thành viên trong gia đình thường được cho là bị đối xử thiếu kính trọng và thiếu tình thương hơn.

 

Ngày 16/6

“Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm những người được mến chuộng.” [ ]

Khi nói về Thiên Chúa, cần nhớ rằng chính vì sự hiểu biết và sự tiện lợi của chúng ta mà chúng ta đã tách rời những ưu phẩm khi nói về Thiên Chúa. Nhưng thực ra, tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, sự tốt lành và kiên nhẫn của Ngài cũng chỉ là một và là như nhau. Vì thế, trong câu nói ở trên, chúng ta có thể nói một cách tương tự rằng tình yêu Thiên Chúa luôn tìm kiếm những người được mến chuộng. Tuy nhiên, thậm chí ở đây chúng ta phải nhớ rằng Thiên Chúa không tìm kiếm chúng ta chỉ vì Ngài muốn trục lợi một điều gì đó từ cuộc gặp gỡ. Bản chất của Thiên Chúa, đó là: Ngài luôn trao ban, chia sẻ chính mình cho tất cả những ai muốn đón nhận tình yêu của Ngài. Do vậy, nếu Thiên Chúa theo đuổi ai đó mà Ngài yêu mến, đó là vì Ngài muốn tuôn đổ những ân huệ cao cả hơn xuống trên họ. Tất cả những gì Ngài muốn đề nghị chúng ta đó là: chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận tất cả những gì Ngài muốn trao ban cho chúng ta.

Ở đây, chúng ta nhớ lại điều mà Thánh vịnh 81 nói tới: “Chính Ta là Thượng Đế Chúa ngươi, đã đưa ngươi lên từ miền Ai-cập, há miệng ngươi ra, Ta sẽ cho đầy ứ.  “Nhưng dân Ta đã chẳng nghe lời, Ít-ra-en nào đâu có chịu. Ta đành mặc họ lòng chai dạ đá, muốn đi đâu thì cứ việc đi! “Ôi dân Ta mà đã nghe lời, Ít-ra-en chịu theo đường Ta chỉ, thì hết những địch thù của chúng, những kẻ hà hiếp chúng xưa nay, Ta tức khắc trở tay quật ngã… còn dân Ta, Ta sẽ nuôi bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Ta cho hưởng thỏa thuê” (Tv 81,10-82,1). Thật không may, chúng ta không nhận ra rằng chúng ta là những người muốn trục lợi từ việc mở lòng ra với Thiên Chúa, chúng ta có khuynh hướng thờ ơ với những công trình của Ngài và chỉ nhận ra sau này khi chúng ta trở nên khốn khó hơn vì sự chối từ của mình. Thiên Chúa không bao giờ ép buộc chúng ta đón nhận những ân huệ của Ngài. Ngài đứng trước cánh cửa cuộc đời của chúng ta và gõ, kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi chúng ta để ý đến sự hiện diện của Ngài. Thế nhưng, dù việc chối bỏ của chúng ta đối với những quà tặng của Ngài vẫn thường xảy ra trong quá khứ, thì Ngài cũng sẽ không bao giờ loại bỏ chúng ta ra khỏi danh sách những người được nhận lãnh. Niềm tin của Ngài vào sự tốt lành nơi chúng ta thật không thể nào tin nổi. Nhưng nếu chúng ta tạo lập được một chút tín nhiệm của Ngài đối với chúng ta khi chúng ta tìm cách đáp lời Ngài, thì chẳng phải cuộc đời chúng ta sẽ thật hạnh phúc đó sao!

Và còn gì hơn nữa khi Ngài đến với chúng ta trong mọi hoàn cảnh, Ngài sẽ không bao giờ lần giở lại những lỗi lầm quá khứ để chống lại chúng ta. Mỗi lần Ngài đến như thể là lần đầu tiên vậy- Ngài tôn trọng tự do của chúng ta biết chừng nào! Nhưng nên biết rằng chúng ta là những người trục lợi, Ngài sẽ không cho chúng ta có cơ hội để trục lợi đâu. Ngài biết chúng ta được dựng nên bằng gì, và chúng ta thật ngu muội biết bao dù những lời nhắc nhở và mời gọi của Ngài vẫn lặp đi lặp lại. Khi diễn tả tình yêu này cho dân Ít-ra-en, ngôn sứ Hô-sê nói: “Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành! Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma, để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được? Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (Hs 11,8-9)

Còn một điều nữa, đó là Thiên Chúa sẽ vui sướng đón nhận từ chúng ta, mặc dù Ngài sẽ không đặt một điều kiện nào đối với lòng quảng đại của Ngài khi trao ban cho chúng ta, và đó là điều mà chúng ta cần có khi đối xử với anh em mình, theo như cách mà Ngài đã đối xử với chúng ta!

 

Ngày 17/6

Yêu thương người thân cận chính là xây dựng vương quốc của Chúa chúng ta.” [ ]

Khi cố gắng tìm hiểu lời khẳng định này của cha Eymard, chúng ta sẽ nhận ra rằng từ ngữ “vương quốc” khi áp dụng cho Thiên Chúa thì không đề cập đến bất kỳ vùng lãnh thổ địa lý nào mà Ngài cai trị. Nhưng đúng hơn, hạn từ ấy muốn nói đến phẩm chất của mối tương quan vốn tồn tại, giữa Thiên Chúa với những ai chọn lựa để đáp trả một cách tích cực lời mời của Ngài để bước vào Giao ước với Ngài. Đó là lý do vì sao ngày nay nhiều người thích dùng lối diễn tả “vương quyền” của Thiên Chúa để chỉ một điều gì đó mang tính riêng tư hơn. Vì thế, khi Thiên Chúa mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài trong việc mở mang vương quyền của Ngài cho mọi người, điều Ngài đòi hỏi chúng ta chính là giúp đỡ những người xung quanh chúng ta để họ có được một sự cảm nếm, một kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa. Khi điều này xảy ra, thì chính họ sẽ đáp trả lại tất cả những lời mời gọi sau này mà Chúa trao cho họ.

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ: Nếu chúng ta yêu thương người khác theo cách mà Chúa yêu thương họ, thì tình yêu của chúng ta dành cho họ sẽ không có điều kiện, hay ít là gần gần như vậy, bao nhiêu có thể! Con người đã cảm nghiệm được tình yêu có điều kiện, vì đó là tất cả những gì họ nhận được từ một ai đó cũng như mọi người xung quanh họ. Họ biết điều gì bị khước từ khi họ gặp thất bại trong những mong đợi của mình; họ cũng biết ý nghĩa của việc sống những đòi hỏi của người khác mà không có nó thì chẳng có tình yêu nào được mở ra cho họ cả. Vì thế, họ không cần thứ tình yêu đó nữa. Nhưng khi chúng ta có thể vươn đến tầm mức trao cho họ tình yêu vô điều kiện, thì sẽ xuất hiện một điều gì đó hoàn toàn khác lạ làm cho họ nhận ra và đánh giá được sự khác biệt đó!

Nhưng để có thể trao ban cho người khác thứ tình yêu vô điều kiện đó, thì chính chúng ta cần phải cảm nghiệm được lòng trung tín của Thiên Chúa trong cuộc đời mình một cách tỏ tường. Nếu bản thân chúng ta không cảm nhận được, thì chúng ta không thể đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho người khác, ít là không thường xuyên và liên tục được. Khi người khác từ chối hiểu hay từ chối chấp nhận, bản thân chúng ta sẽ cảm thấy bị tổn thương hay bị chống đối và có khuynh hướng rút lui vì chúng ta không thể nhận lấy những lời lăng nhục và chối từ ấy. Nhưng khi chúng ta được gìn giữ trong tình yêu của Thiên Chúa, bấy giờ chúng ta không cần bất kỳ một lời động viên nào từ bên ngoài. Ngài che chở chúng ta bằng bàn tay vinh hiển của Ngài, vì thế chúng ta có thể đương đầu với mọi thử thách ở phía trước và phía sau. Thực tế, chúng ta còn có thể đi xa hơn để bắt chước con đường của Thiên Chúa, qua đó chúng ta làm tươi mới vẻ hấp dẫn của tình yêu cho những anh em chống đối chúng ta vì đó là con đường duy nhất mà Nước Trời có thể được thiết lập. Trong những vấn đề này, không phải chính lý thuyết mới có sức thuyết phục và chinh phục được người ta cho vương quyền của Thiên Chúa, nhưng là chính gương sống của chúng ta trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Và chính xác là chính tình yêu này, tình yêu của chính Thiên Chúa tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta trong ngày Rửa tội cũng như cho tất cả mọi người nhờ đời sống Ki-tô hữu của chúng ta. Vì Thiên Chúa sẽ không đòi buộc chúng ta làm một điều gì đó mà trước hết lại không trang bị cho chúng ta một cách tương xứng với nhiệm vụ này. Vì thế, chúng ta không cần nghi ngờ về sự trợ giúp của Thiên Chúa mỗi khi cần. Bên cạnh đó, Ngài là Đấng sai chúng ta ra đi làm sứ giả cho Ngài, đến với những con người được tuyển chọn một cách đặc biệt mà Ngài đã chuẩn bị bằng nhiều phương thế khác nhau. Thực vậy, đây là lý do Thiên Chúa tuyển chọn chúng ta trở thành những môn đệ của Ngài ở vị trí trên hết, để chúng ta có thể cộng tác với Ngài trong việc loan báo Tin Mừng và tình yêu của Ngài cho tất cả mọi người!

 

Ngày 18/6

Chúa nhân lành rất giàu sang, và Đức Trinh Nữ diễm phúc cũng vậy.” [ ]

 Không một ai cần người khác phải nói cho mình biết là Thiên Chúa giàu sang, và biết rằng Ngài ban ơn cho chúng ta một cách dư tràn mỗi khi Ngài chúc lành cho chúng ta. Ơn lành của Ngài chính là sự sống và phúc cho ai biết mở lòng ra để lãnh nhận tình yêu Thiên Chúa, bao nhiêu có thể. Thực tế, Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta trong mỗi thời khắc của ngày sống, mỗi hơi thở chúng ta hít vào đều là một ơn lành mà Ngài ban cho ta một cách tự do và đầy yêu thương. Mọi người sẽ dễ dàng nhận ra rằng mọi sự tốt lành họ có đều là những ơn lành đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều khiến cho nhiều người cảm thấy khó hiểu là: làm thế nào mà những điều tiêu cực xảy đến với chúng ta cũng là những ơn lành từ Thiên Chúa.

Hầu hết mọi người sẽ hiểu hạn từ “tài năng” theo nghĩa là một ơn lành tích cực, nghệ thuật, kỹ năng hay ân huệ mà Thiên Chúa ban cho họ. Thế nhưng, đó chỉ là cách hiểu cục bộ của hạn từ này. Thậm chí những điều tiêu cực xảy ra cũng là một cơ hội dành cho một người nào đó để anh ta có thể vượt lên trên tình cảnh hiện tại của mình, để vươn mình lên một chút và dùng khả năng mình có mà lướt thắng được khó khăn này. Do đó, nếu Thiên Chúa không tạo cho chúng ta những cơ hội để chúng ta có thể vượt qua chính bản thân mình, thì chúng ta sẽ không có kinh nghiệm gì về những tình cảnh còn khó khăn hơn và kết quả là sẽ không bao giờ trưởng thành cả. Vì thế, sự tước đoạt, chống đối, khó khăn, trở thành nạn nhân hay có được thuận lợi, … tất cả đều có thể và được xem như những ơn lành, những tài năng hay những cơ hội đến từ Chúa để mở tấm lòng và cuộc sống của chúng ta ra hơn nữa.

Thiên Chúa thì rộng lượng với chúng ta trong mọi thời khắc của cuộc sống, và trong mọi tình huống có thể xảy ra. Thực ra, chúng ta có thể nói không có điều gì xảy đến với chúng ta, một cách nào đó, lại không phải do Thiên Chúa cho phép điều đó xảy đến với chúng ta… và cả vì lợi ích của chúng ta nữa! Thiên Chúa luôn đổ tràn tình yêu của Ngài trên chúng ta bằng những cách thức khác nhau, và những ai đến gần Ngài thì cũng cư xử theo cách như vậy. Chúng ta không băn khoăn về lời chú thích của cha Eymard khi cha cho rằng Đức Maria cũng làm như vậy. Bởi vì Đức Maria đã mở rộng lòng ra với Thiên Chúa, Mẹ được “đầy ân sủng”. Khi Đức Maria chia sẻ ân sủng của mình với người khác, Mẹ không mất đi những gì mình có vì đã chia sẻ bớt cho người khác. Nhưng đúng hơn, Mẹ càng chia sẻ, Mẹ càng trở nên trống rỗng và lại sẵn sàng nhận lãnh từ Thiên Chúa. Giống như Chúa Cha, và giống như thái độ hóa mình ra không của chính Ngài, Mẹ Maria cũng tuôn đổ những ơn lành cho tất cả những ai được Chúa Cha yêu mến.

Tuy nhiên, trong hành động của Mẹ Maria, chúng ta có thể thêm vào một chiều kích khác, có nghĩa là Mẹ cũng đứng về phía chúng ta, cho phép chúng ta vui vẻ đón nhận lòng nhân từ của Thiên Chúa mà không đánh mất bất kỳ một ân huệ nào, thậm chí là những điều nhỏ nhặt, có thể nói như vậy. Đức Maria đã làm điều này trong chính cuộc đời Mẹ, và Mẹ sẽ rất hạnh phúc khi dạy chúng ta cũng biết cách đáp trả tương tự như vậy. Nhưng đây là thuận lợi của chúng ta để ở gần Mẹ Maria và học từ nơi Mẹ cách đón nhận, và đến lượt mình, chúng ta cũng biết quảng đại chia sẻ với những người xung quanh chúng ta. Vì đấu chúng ta dành cho người khác, thì rõ ràng cũng sẽ trở thành đấu mà sau này chúng ta nhận được. Hơn nữa, qua gương sống của mình, Mẹ Maria nhắc nhở chúng ta rằng những gì chúng ta được chúc phúc, chúng ta phải biết ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch và ngọn nguồn của mọi ơn phúc. “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả… Người đoái nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn, từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phúc!” (Lc 1,46-55)

 

Ngày 19/6

“Việc tạ ơn Thiên Chúa là khởi đầu cho những ân sủng của một Can-va-ri-ô chất chứa tình yêu và ân phúc.” [ ]

Lòng biết ơn là một trong những hiệu quả của việc cử hành Thánh Thể có ý nghĩa mỗi ngày. Thực ra, từ “Eucharist” tự nó có nghĩa là tạ ơn và nhờ Thánh lễ, chúng ta dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha vì những ơn lành chúng ta đã nhận được. Thế nhưng, khi chúng ta chúc tụng Thiên Chúa mặc dù chúng ta là những người nhận lãnh ân huệ, thì hành động này đem lại một hiệu quả nào đó cho chúng ta. Nó làm cho chúng ta ngày càng ý thức hơn về bản chất của chúng ta là những thụ tạo bất toàn, bất lực, và cần được hoàn thiện. Nó phủ lấp chúng ta bằng sự khiêm nhường chân thật và làm cho chúng ta biết chấp nhận sự trống rỗng của mình, nhưng chúng ta tin tưởng rằng bao lâu chúng ta biết chạy đến với Ngài bằng một tâm hồn rộng mở, thì Ngài sẽ không bao giờ gửi đến cho chúng ta sự trống rỗng khi chúng ta tìm đến với Ngài.

Đúng hơn, chúng ta càng biết chấp nhận sự yếu đuối của mình một cách chân thành, thì Thiên Chúa lại càng tuôn đổ những ơn lành của Ngài xuống trên chúng ta, không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng nữa. Hết ơn này đến ơn khác… cho đến khi chúng ta được tràn đầy những gì Thiên Chúa có thể và muốn chia sẻ với chúng ta. Những ơn lành của Ngài hướng chúng ta đến việc đón nhận những đau khổ, đặc biệt là đau khổ sinh ơn cứu độ cùng với Đức Giêsu; chúng ta biết đón nhận thập giá mà không cằn nhằn hay than phiền, không tìm cách để cắt xén hay trút bớt gánh nặng. Hơn nữa, chúng ta cũng bắt đầu mở lòng mình ra với những người đau khổ xung quanh chúng ta, và đến với họ bằng sự cảm thông và tình yêu. Như Đức Giêsu bị treo trên thập giá đã cầu nguyện cho những người khác, chúng ta cũng phải biết nghĩ đến những người đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Liên kết với Người, chúng ta cũng trở nên nguồn ơn phúc cho người khác. Chúng ta có thể đến với anh chị em mình, thậm chí cả những người chúng ta chẳng bao giờ gặp trước đây trong cuộc đời mình, những anh chị em không cùng niềm tin với chúng ta, tất cả mọi hạng người. Tuy nhiên, mọi người đều được Chúa Cha yêu mến, vì ước muốn cao cả của Ngài là bao bọc, chở che mọi người trong tình yêu của Ngài.

Nếu chúng ta học được đức tính hiền lành do ơn phúc mang lại trong mọi hoàn cảnh, qua Thánh lễ mà chúng ta cử hành, khi ấy toàn bộ tiến trình này sẽ được hoàn tất nơi cuộc đời chúng ta. Sau hết, mỗi Thánh lễ mời gọi chúng ta chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa ‘mọi lúc và mọi nơi’, vì chúng ta có là gì cũng như tất cả những gì chúng ta có, mọi thứ đều bắt nguồn từ nơi Ngài, Đấng là nguồn mạch mọi ơn lành. Và lời chúc tụng cao cả nhất mà chúng ta tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh lễ chính là quà tặng dâng hiến chính mình mà Đức Giêsu ban cho chúng ta qua việc vâng phục Chúa Cha. Trong suốt Thánh lễ, quà tặng này được thể hiện dưới hình thức biểu tượng, nhưng quà tặng này lại được diễn tả một cách xác thực trên đồi Can-vê. Vì thế, việc chúc tụng Thiên Chúa của chúng ta cũng phải hướng đến đồi Can-va-ri-ô trong cuộc đời chúng ta, qua đó chúng ta cũng phải trao ban chính mình vì lợi ích của tha nhân.

Khi chúng ta có thể chúc tụng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, chúng ta sẽ nhận ra rằng thập giá của chúng ta sẽ nhẹ hơn và dễ vác hơn, vì qua việc chúc tụng Thiên Chúa, chúng ta nhận ra rằng những thập giá này bắt nguồn từ Chúa Cha và mang những mục đích tốt bên cạnh nó. Thậm chí, chúng ta có thể cảm thấy rằng những thập giá này đem lại lợi ích cho anh chị em chúng ta và có thể làm cho họ mở lòng mình ra đối với tình yêu cứu độ của Chúa Cha. Vì thế, thái độ của chúng ta sẽ trở nên bớt ích kỷ đi trong suốt ngày sống.

 

Ngày 20/6

“Chúa nhân lành không bao giờ bỏ rơi người nghèo, những người vốn là đối tượng của biết bao lời cầu nguyện” [ ]

Lời khẳng định này của cha Eymard gợi lại biến cố được đề cập trong sách Công vụ Tông đồ khi ông Phê-rô ở Giô-pha và một phụ nữ Ki-tô giáo tên là Linh Dương qua đời. Tất cả các bà góa xúm lại quanh ông Phê-rô, vừa khóc vừa cho ông xem những áo dài và áo choàng mà bà Linh Dương đã may khi còn sống với họ (Cv 9,36-40). Cử chỉ này là một lời nài xin thinh lặng của họ để đề nghị ông Phê-rô làm một điều gì đó, và ông đã chấp nhận lời đề nghị này. Ông bảo mọi người rời khỏi căn phòng, nơi đặt thi thể của bà Linh Dương, ông khẩn khoản cầu nguyện trên bà, làm cho bà trỗi dậy và đưa bà trở về với cộng đoàn. Quả thực, Thiên Chúa không bỏ rơi người nghèo, những người kém may mắn, là đối tượng của biết bao lời cầu nguyện.

Dĩ nhiên, nền tảng của sự kiện này chính là lời Đức Giê-su đã nói, ‘ở đâu hai, ba người, hay anh em xin bất cứ điều gì, thì anh em sẽ nhận được từ Chúa Cha’ (Mt 18,20). Và vì Người đã đảm bảo cho chúng ta về sự hiện diện của Người nơi một nhóm người hiệp nhất như vậy. Bên cạnh đó, sự hiệp nhất của họ trong lời cầu nguyện cũng là một sự nhìn nhận chân thực và khiêm tốn về sự thiếu thốn, cũng như sự bất lực của mình trong tình huống như vậy. Khi sự bất lực của một người nào đó được liên kết với quyền năng vô biên của Thiên Chúa, thì điều vĩ đại sẽ xảy ra. Vậy sẽ thế nào khi toàn thể cộng đồng Ki-tô hữu cùng cầu nguyện theo cách mà Đức Giê-su đã dạy, với một sự khiêm nhường và chân thật, cho những người nghèo không được trợ giúp?!?

Tuy nhiên, khi nhìn vào những gì đang diễn ra giữa chúng ta ngày hôm nay, có lẽ câu hỏi nảy ra trong đầu là, ‘vì sao chúng ta không có nhiều kinh nghiệm về những trường hợp mà lời cầu nguyện của con người đem lại những kết quả tuyệt vời và thậm chí còn kỳ diệu nữa? Có thể nói rằng con người ngày nay quá đề cao chủ nghĩa cá nhân và cái tôi trong hành động của mình? Chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng con người ngày nay không có thời giờ, cũng như không có thiên hướng san sẻ tấm lòng và cuộc sống cho những người đang cần giúp đỡ? Chắc chắn, có những người, cụ thể là những người thuộc phong trào Canh Tân Đặc Sủng, quy tụ thành những nhóm nhỏ để cầu nguyện cho những bệnh nhân cũng như những người cần trợ giúp. Nhưng điều quan trọng cần phải nhớ là để cho lời cầu nguyện này đem lại hiệu quả, mỗi thành viên trong những nhóm ấy cần phải biết hoàn toàn từ bỏ Cái Tôi! Không nghi ngờ gì nữa, đây là một cái giá lớn phải trả, nhưng người ta có thể tưởng tượng ra rằng vô vàn ơn phúc sẽ đổ dồn về những người đang cần được giúp đỡ.

Cuối cùng, chẳng phải Hội thánh được gọi là một cộng đoàn của những con người được cứu chuộc đó sao? Tất cả chúng ta được mời gọi để chia sẻ với người khác những gì mà chính chúng ta đã được chúc phúc. Và kinh nghiệm cho chúng ta thấy, chúng ta càng chúc lành cho người khác bao nhiêu, thì chúng ta lại được chúc lành bấy nhiêu. Dĩ nhiên, hành động của chúng ta không nên là chúc lành cho người khác để được chúc lành lại. Nếu chúng ta hành động như vậy, chúng ta sẽ chẳng cảm nhận được hiệu quả gì cả. Tuy nhiên, sự thật là khi chúng biết mở rộng lòng mình ra để đến với những ai đang cần giúp đỡ, chúng ta sẽ không sợ mất phần thưởng khi chính chúng ta cũng cần được giúp đỡ!

 

Ngày 21/6

“Hãy trông cậy vào sự chở che của Đức Trinh Nữ diễm phúc, trong sự nhân lành vô biên của Thiên Chúa.” [ ]

Tình yêu Thiên Chúa quả đúng là một mầu nhiệm đối với những ai muốn dùng lý trí để hiểu. Tình yêu của Ngài chỉ có thể hiểu được bằng niềm tin, được phản ánh qua câu nói ‘con không hiểu, nhưng nếu Ngài, lạy Thiên Chúa, nói như vậy, thì quả thực là đúng!’ Khía cạnh đầu tiên của mầu nhiệm chính là không có lý do giải thích vì sao Thiên Chúa lại yêu thương chúng ta hết thảy, vì sao Ngài làm như vậy. Ngài không mắc nợ chúng ta tình yêu để rồi phải trả nợ bằng tình yêu của Ngài. Thứ hai, chính tình yêu vĩ đại và vô biên của Ngài khiến Ngài tạo ra những phương tiện tuyệt vời để đến với mỗi người bằng tình yêu của Ngài. Ngài dùng bất cứ ai như những công cụ thích hợp của Ngài, để thông chuyển tình yêu của Ngài một cách thích hợp. Trải qua phần lớn giai đoạn lịch sử Giáo hội, cũng như qua giai đoạn trưởng thành của mỗi người, Đức Maria là một khí cụ mạnh mẽ lôi kéo mọi người cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha. Những lời đáp trả của Mẹ đối với Thiên Chúa gần như là hoàn hảo nhờ ơn trợ giúp vô biên của Ngài, vì thế trước mặt chúng ta, Mẹ như một mẫu gương để chúng ta noi theo.

Người ta nói rằng trong những giai đoạn khởi đầu của đời sống thiêng liêng của con người, nói chung, người ta sẽ dựa vào ‘Thánh Mẫu luận’ để đến với Chúa Cha. Điều này được gọi là ‘qua Mẹ để đến với Chúa Giêsu”. Bên cạnh đó, về phương diện lịch sử, điều này phù hợp với thần học của các thời đại; nó cũng phù hợp với mức độ trưởng thành tâm linh của một con người khi xem Đức Maria là một “người trung gian” cầu bầu cho con cái Mẹ trước tòa Chúa, Đấng sau này là một Vị Thẩm phán công minh và không thiên vị, có vẻ xa lạ và lạnh lùng! Tuy nhiên, khi người ta biết và cảm nghiệm được Thiên Chúa một sâu sắc hơn qua thời gian, đặc biệt qua việc chăm chú đọc và hiểu biết Sách Thánh, cách làm này sẽ mở ra giai đoạn kế tiếp gọi là “Ki-tô luận” đến với Chúa Cha, nhờ Chúa Con! Bấy giờ, Chúa Giêsu trở thành Đấng Trung gian với Chúa Cha. Sau cùng, khi tất cả những gánh nặng của cái tôi nơi chúng ta bị phá đổ dưới ánh sáng của việc hiểu và cảm nghiệm Tin Mừng, thì chúng ta sẽ bước sang giai đoạn thứ ba gọi là “Ba Ngôi” đến với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Thần Khí! Chúng ta đủ dũng cảm để chạy thẳng đến Chúa Cha, nhưng cùng với và trong Chúa Con và Thần Khí.

Điều quan trọng cần lưu ý là sẽ có nhiều người ở giai đoạn Thánh Mẫu học, bất chấp họ ở độ tuổi nào, vì có nhiều điều cần phải làm với hình ảnh Thiên Chúa nơi người đó! Vì thế, trong suốt thời kỳ này, người ta cần cậy nhờ vào sự chở che của Mẹ Maria. Thế nhưng, tình yêu sâu đậm của Mẹ Maria dành cho những đứa con yêu dấu của Thiên Chúa sẽ không cho phép Mẹ nuông chiều hay làm tổn hại đến mối tương quan mật thiết của chúng với Chúa Cha. Vì thế, tại Ca-na-an, Mẹ Maria nói với các gia nhân “hãy làm theo những gì Ngài nói”. Ở đây, các gia nhân phải đưa ra một quyết định nghiêm trọng, nghĩa là họ sẽ phải thi hành mệnh lệnh của Đức Ki-tô, làm theo tất cả những ý định và mục đích mà xem ra hơi ngớ ngẩn. Cái họ cần đó chính là ‘rượu’ chứ không phải nước và chắc chắn là không phải nước đổ vào các chum dùng cho việc thanh tẩy! Chúng ta lưu ý rằng người ta không đề cập đến các chum chứa rượu. Nơi đâu các Ki-tô hữu sẵn sàng làm theo lời khuyên của Mẹ Maria, thì không có lý do gì để tin rằng họ sẽ bỏ lỡ những ơn phúc mà Thiên Chúa đã phú ban cho họ.

 

Ngày 22/6

Tán dương hay phê bình, yêu mến hay ghét bỏ. Mọi sự chẳng là gì nếu không có Thiên Chúa.” [ ]

Khi Thiên Chúa trở thành tâm điểm của đời sống chúng ta, bấy giờ mọi sự chúng ta trải qua, dù tốt hay xấu, đều được nhìn dưới ánh sáng của tình yêu và lòng nhân từ của Ngài. Mọi sự vật, con người và mọi biến cố đều được xem và xuất hiện là tốt hay xấu khi được xét theo quan điểm của con người. Đối với Thiên Chúa, không có gì là xấu cả. Hữu thể tự bản chất là tốt. Không thể có một dấu vết nào của sự dữ ở nơi Ngài và nơi mọi sự Ngài làm. Vậy thì, bao lâu chúng ta, những người con của Ngài, sống trong sự liên kết mật thiết với Chúa Cha, thì chẳng có gì được xem hay được coi là xấu hoặc tội lỗi cả. Thậm chí điều dường như có thể là xấu khi nhìn dưới con mắt tự nhiên của chúng ta, thì thực sự lại là một ơn lành từ Thiên Chúa. Nếu Ngài cho phép biến cố ấy xảy ra trong cuộc đời chúng ta, thì lý do duy nhất mà Ngài cho phép điều đó xảy ra là vì nó tốt cho chúng ta, dù gần hay xa.

Có lẽ điều này sẽ rõ ràng hơn nếu chúng ta đưa ra một ví dụ cụ thể. Đối với hầu hết mọi người trong mọi tình cảnh, sự chết được hiểu như một sự dữ vì chúng ta xem nó như là sự kết thúc những thành tựu của mình trên trần gian này. Nhưng đối với ai ở gần Thiên Chúa, thì đó lại là một cuộc trở về nhà. Qua cái chết, chúng ta trở về với Cha, Đấng chúng ta chỉ biết qua một tấm gương, lờ mờ và mơ hồ. Qua cái chết, chúng ta sẽ diện kiến Ngài “diện đối diện” không có bất kỳ trung gian nào, chẳng phải là điều hạnh phúc sao? Vì thế, nếu cái chết mang ý nghĩa là dấu chấm hết cho sự hiện hữu của chúng ta ở trần gian, thì theo quan điểm này, nó được xem là xấu; thế nhưng nhìn từ khía cạnh tích cực, thì đó lại là một ân sủng vô biên. Và điều này cũng được áp dụng cho mọi sự làm nên cuộc đời chúng ta.

Cha Eymard chú ý đến việc tán dương hay phê bình, yêu mến hay ghét bỏ, hai tình huống đụng chạm đến đời sống trên trần gian của chúng ta. Nếu người ta cảm thấy bị chối bỏ, đặc biệt là từ một người mình yêu, thì người ta hiểu rằng điều đó đau khổ như thế nào. Tương quan tình yêu càng sâu đậm đến nỗi không thể bị phá vỡ chừng nào, thì khi bị chối bỏ, người ta sẽ càng cảm thấy đau đớn chừng ấy. Cũng có thể nói như vậy đối với sự phê bình, đặc biệt khi điều đó hoàn toàn không đáng! Sự trái ngược của hai khía cạnh này sẽ thuộc phạm trù của những kinh nghiệm thú vị, nhưng chúng không có ý nghĩa hay giá trị thực sự nếu như không được nhìn từ khía cạnh của việc Thiên Chúa tuôn đổ tình yêu của Ngài trên chúng ta. Khi bỏ qua khía cạnh này, chúng ta xem những ơn lành như thành tựu của chính chúng ta vậy, và điều này sẽ dẫn chúng ta đến chỗ sa ngã, không sớm thì muộn.

Thái độ an toàn hơn là thái độ của ông Gióp trong Cựu Ước khi ông nói: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA.” (G 1,21). Vì thế, mọi sự đều có vị trí thích hợp của nó khi nó phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta càng biết học cách sống theo kế hoạch này, chúng ta lại càng hạnh phúc trong cuộc đời mình. Vì thế, điều tốt nhất là chúng ta “sống, cử động và hiện hữu” trong Người (Cv 17,28), và bấy giờ mọi sự sẽ được nhìn dưới một khía cạnh hợp lý và thích hợp! Khi ấy, chúng ta sẽ học được cách vượt lên cả lời tán dương và phê bình, và tìm được hạnh phúc nơi một mình Thiên Chúa vì chỉ khi ấy chúng ta mới ở gần Ngài!

 

Ngày 23/6

“Hãy đến cùng Thiên Chúa tựa như những tia nắng hướng đến mặt trời.” [ ]

Trong lời giải thích này của cha Eymard, rõ ràng cha nhìn nhận Thiên Chúa là trung tâm của toàn thể vũ trụ. Vì thế, xuất phát từ chính Thiên Chúa là trung tâm, nên mọi sự sẽ phát xuất cũng như trở về với cùng một trung tâm ấy. Chúng ta cũng phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta không phải là những sản phẩm do chính mình lựa chọn hay do chính mình làm ra. Chúng ta là ‘sản phẩm do tay Người, là đoàn chiên thuộc về chủ chiên’ (Tv 95,7). Do đó, trong suốt cuộc đời, những gì chúng ta làm, nói hay thậm chí là suy tưởng, thì nên hướng về Thiên Chúa là trung tâm của đời sống chúng ta. Và sự thật là khi Thiên Chúa thực sự là tâm điểm của chúng ta, mọi sự sẽ quy hướng về Người, hầu như là tự động, vì đó chính là bản chất của các sự vật do Thiên Chúa dựng nên.

Nhưng khi ảo tưởng về sự vĩ đại của mình hay tự lên mặt dạy đời, chúng ta tự biến mình thành trung tâm của vũ trụ, bấy giờ chúng ta sẽ nhanh chóng nhận ra rằng toàn bộ trật tự do Thiên Chúa thiết lập sẽ bị đảo lộn và mọi thứ sẽ không còn ăn khớp với nhau nữa. Đó là lúc chúng ta cảm nghiệm được sự xáo trộn, mất phương hướng, một cảm giác hay cảm thấy mọi sự nằm ngoài tầm kiểm soát trong cuộc đời mình và cần phải làm một điều gì đó để sửa lại tình huống đó cho đúng. Thậm chí khi chúng ta đến với Chúa qua việc cầu nguyện trong một tình huống bị bóp méo như thế, lời cầu nguyện của chúng ta hầu như là không đến được với Chúa, vì lời cầu nguyện ấy không thể làm nên một con đường dẫn đến Người giống như những tia nắng của mặt trời quay trở lại với nguồn gốc của nó. Lúc đó, chúng ta không cần phải băn khoăn vì lời cầu nguyện của mình không thể được lắng nghe cũng như không được đáp lại, và chúng ta phải từ bỏ những ý riêng của mình.

Khi nhận thấy mình rơi vào tình trạng như thế, điều duy nhất chúng ta có thể và nên làm chính là kiểm tra lại định hướng căn bản của mình với câu hỏi ‘Tôi dành cho Thiên Chúa vị trí nào trong cuộc đời tôi? Tôi vui mừng và sẵn sàng lắng nghe và vâng theo lời Người như thế nào? Tôi đã ngợi khen ai khi công việc diễn ra một cách tốt đẹp?’ Một vài sự tự vấn lương tâm nghiêm túc có thể cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa, chẳng những không trở thành tâm điểm của cuộc đời chúng ta, mà Người còn không có một vị trí nào trong cuộc đời chúng ta nữa, vì chúng ta có chủ ý hay nói cách khác là chúng ta đã đưa Cái Tôi thế vào vị trí của Người. Nếu sai lầm căn bản này không được sửa chữa, sự xáo trộn và sự bóp méo sẽ tiếp tục diễn ra trong cuộc đời chúng ta. Thay vì chạy đến Đền Thánh này hay đền thánh nọ, liệt kê ra hết tuần cửu nhật này đến việc cầu nguyện nọ, thì trước tiên chúng ta cần ngồi lại và sửa chữa những đường hướng sai lầm và bấy giờ mọi sự sẽ bắt đầu trở nên tốt đối với chúng ta.

Chúng ta có thể dùng một ví dụ đơn giản để hiểu điều này: Nếu tôi không phải là một chuyên gia thực thụ hay một thợ máy mà dám mở chiếc đồng hồ báo thức ra với ý định là lau chùi nó, nhưng sau đó lại lắp ráp các bộ phận một cách lộn xộn, thì liệu tôi có thể mong chờ đồng hồ sẽ chạy đúng giờ, hay báo thức đúng giờ không? Lúc đó, dầu và việc đánh bóng bề mặt ngoài sẽ không thể làm cho đồng hồ chạy tốt được. Tôi cần phải đem đồng hồ đến một ai đó biết được hoạt động bên trong của nó và người ấy có thể lắp ráp lại mọi thứ cho đúng. Nhưng nếu tôi có ý định dùng đồng hổ để báo đúng giờ, thì từ nay trở đi, tôi sẽ phải tuân theo những qui luật làm cho nó hoạt động và không buộc nó phải theo trật tự mà tôi nghĩ là tốt nhất. Cũng thế, trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, nếu như và cho đến khi Người chưa thực sự là tâm điểm của cuộc đời chúng ta, thì chúng ta không thể mong chờ những điều vĩ đại sẽ xảy ra trong cuộc đời mình. Như Đức Giê-su đã nói ‘trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa còn mọi sự sẽ được ban cho sau’ (Mt 6,33).

 

Ngày 24/6

“Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành người bạn đồng hành của Người.” [ ]

Trong Tin Mừng Mác-cô, chúng ta đọc thấy ‘Người lên núi và gọi những kẻ Người muốn. Các ông đến với Người. Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ. Người lập nhóm Mười Hai’ (Mc 3,13-16). Đôi khi câu cuối có thể dịch là ‘các ông đã trở nên những người bạn đồng hành của Người’, điều đó có nghĩa là các ông trở thành thành viên trong “nhóm bạn hữu” của Người. Dường như thánh sử Mác-cô đã chỉ ra rất rõ những gì mà cha Eymard viết trong câu văn ngắn gọn này: Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành thành viên trong nhóm bạn hữu thân thiết của Người. Dĩ nhiên, ngày nay, những ai đã quen thuộc với khái niệm “Giao ước” đều biết rằng đây là mục đích mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, những con người được Thiên Chúa dựng nên. Người ban cho chúng ta lý trí và ý chí tự do, để chúng ta có thể hoàn toàn tự do chọn lựa thuộc về Người trong sự liên kết mật thiết gần gũi gọi là Giao ước.

Bản chất của Giao ước chính là chúng ta sống những đòi hỏi được diễn tả trong Kinh Thánh, ‘Ta sẽ là Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là dân của Ta’. Chúng ta trao phó mọi sự có thể xem là của chính chúng ta vào bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, để Người sử dụng theo kế hoạch và mục đích của Người. Không khi nào chúng ta được phép ra lệnh cho Người về những gì Người sẽ thực hiện trong cuộc đời chúng ta hay bất kỳ một phần nào đó. Chúng ta dâng hiến hoàn toàn quyền kiểm soát từng chi tiết của cuộc đời mình. Rõ ràng, điều này chỉ có thể xảy ra nếu chúng ta đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Tuy nhiên, giao kèo này không đơn thuần chỉ có một phía. Giống như chúng ta trao phó tất cả “những gì” của mình vào tay Thiên Chúa, thì Người cũng trao ban tất cả những gì của Người vào tay chúng ta. Người cũng nói với chúng ta rằng: “tất cả những gì của Cha đều là của con!” Người đã chẳng minh chứng điều này khi sai Con Một của Người để trở nên Đấng Cứu Độ chúng ta đó sao? Thiên Chúa không đặt ra bất kỳ một hạn định hay điều kiện nào khi sai Đức Giê-su đến giữa chúng ta. Thậm chí khi chúng ta đối xử với Đức Giê-su như một kẻ phạm thượng và một tội nhân, cũng như là kết án Người phải chết trên thập giá, Thiên Chúa đã không can thiệp nhưng tôn trọng tự do của chúng ta để chúng ta vui lòng. Ngài đã giữ lời hứa của Ngài để hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta. Nếu chúng ta có thể tôn trọng và kính trọng thỏa thuận của mình một cách tuyệt vời như Thiên Chúa đã làm, thì quả thật đó sẽ là một sự khác biệt.

Tuy nhiên, trở lại với cha Eymard và lời khẳng định của cha, điều mà cha nói với chúng ta là Thiên Chúa muốn chúng ta thuộc về thành viên trong nhóm bạn hữu thân thiết của Người, nơi đó có một tình yêu và sự tin tưởng lẫn nhau, nơi đó chúng ta chia sẻ cuộc sống với nhau, nơi đó có ‘sự cho đi và nhận lại’. Ngày nay, kiểu chia sẻ thân mật này không chỉ diễn ra sau khi chúng ta chết, ở trên thiên đàng; mà nước trời của chúng ta đã bắt đầu ngay bây giờ, ngay giây phút chúng ta chấp nhận thuộc trọn về Chúa. Điều này xảy ra vào ngày chịu phép rửa của chúng ta, nhưng vì tất cả chúng ta đều được rửa tội từ lúc còn nhỏ, nên điều này sẽ diễn ra sau đó khi chúng ta ý thức đổi mới lời cam kết của mình. Với lòng nhân từ, Thiên Chúa ban cho chúng ta cơ hội tốt vào đúng thời, rắc rối dường như xảy ra khi chúng ta không giữ được sợi dây giao ước, khi chúng ta quyết định muốn trở thành những ông chủ cho chính định mệnh của mình và không để cho Thiên Chúa hành động trên cuộc đời mình. Nhưng như tổ phụ Áp-ra-ham, Đức Ma-ri-a, và tất cả các vị đại thánh, chúng ta có thể sống bằng sự dâng hiến chính mình mỗi ngày, khi đó chúng ta không còn lo lắng về việc Thiên Chúa sẽ chăm lo cho những nhu cầu của chúng ta! Vì thế, tất cả những gì chúng ta cần làm là thuộc về nhóm bạn đồng hành của Người!

 

Ngày 25/6

Tôi đau khổ và tôi hy vọng… tôi giống như một người trôi dạt trên biển, chỉ có một tấm ván để bám víu vào, và phó mặc đời mình cho gió định đoạt với niềm cậy trông hoàn toàn vào lòng nhân từ của Thiên Chúa.”. (được tìm thấy trong những bài suy niệm do cha Eymard viết ở Chaintre, 1855)

Những bài suy niệm này đánh dấu thời điểm cha Eymard đang ra sức làm việc để thành lập một Hội dòng mới. Cha không loại bỏ viên đá nào cản trở nỗ lực của cha trong việc đáp trả một cách cân xứng với ơn gọi mà nhiều lần cha đã nhận được, và rõ ràng cha là người được chọn để thành lập một Hội dòng như vậy. Thế nhưng, như vẫn thường xảy ra với mọi công việc của Thiên Chúa, khi khí cụ được trao vào tay ai để cày xới, thì hàng loạt khó khăn bắt đầu nổi lên, thử thách niềm tin của họ, làm cho mọi sự lại càng trở nên khó khăn hơn. Chúng ta thấy rõ điều này trong Xh 4,24-26 khi ông Mô-sê khởi hành cuộc hành trình trở về Ai Cập, chính ông đã chiến đấu với Thiên Chúa, Đấng tìm cách giết ông. Đêm tối cho thấy sự tối tăm mà chính ông Mô-sê không thể hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Chẳng phải là ông đã chấp nhận làm theo những gì Thiên Chúa đòi buộc ông, sau biết bao nhiêu lời biện hộ mà ngay từ đầu ông đã cố gắng đưa ra để thoái thác nhiệm vụ này? Vậy thì tại sao sau đó Thiên Chúa lại phá đổ toàn bộ sự mạo hiểm này?

Các nhà chú giải, khi thừa nhận sự huyền nhiệm của cuộc gặp gỡ này, đã nói cho chúng ta biết rằng có thể có một điều gì đó cần phải làm đối với Cái Tôi đang nhen nhóm. Kết thúc cuộc thử thách, ông Mô-sê thừa nhận sự siêu việt của Thiên Chúa, điều này được diễn tả qua việc cắt bì cho đứa con trai của ông. Cha Eymard cũng nhận thức về sự cần thiết của việc từ bỏ hoàn toàn cái tôi khi khởi đầu dự án này. Chính cha cảm thấy mình phải đối diện với những bất lợi không thể vượt qua, dù khi đó tất cả những gì cha muốn làm là hoàn thành kế hoạch mà chính Thiên Chúa đã chỉ thị cho cha phải làm. Trong tình huống đó, cha đã nhận ra sự cần thiết của việc trông cậy hoàn toàn vào Thầy Chí Thánh nơi một đầy tớ bất xứng là chính cha. Công việc này là công việc của Thầy, và Người sẽ dõi theo nó cho đến lúc hoàn thành vì Người đã chọn lựa công việc đó. Tấm ván mà cha Eymard đề cập đến không gì khác hơn chính là niềm tin mà cha mang theo trong tình huống này. Bám víu vào sự linh hứng nội tâm mà cha đã nhận được, cha lại ngước nhìn lên Chúa và khó khăn này đến khó khăn khác sẽ bị xóa tan đi, giống như đám mây mù tan biến đi khi mặt trời mọc.

Toàn bộ đoạn trích này dường như quá đơn giản, khi bóng tối bị đẩy lui thì ánh sáng lại chiếu rọi. Nhưng khi tiến trình này diễn ra, nó có thể đòi hỏi và nhấn mạnh đến công cụ được chọn lựa, vì người ấy có thể nắm giữ hoàn toàn ngoại trừ ý muốn của Thiên Chúa và Ngài sẽ trông chừng nó. Không một người nào khác có thể giúp đỡ trong tình huống này, vì con người không thực sự là một phần của dự án. Thường thì lời cầu nguyện cũng không đem lại nhiều ánh sáng hay sự ủi an khi Chúa dường như bị che khuất hay không xuất hiện. Tuy nhiên, nếu khí cụ có thể nắm giữ được niềm tin tuyệt đối và tình yêu vô vị lợi, bấy giờ chắc chắn dự án này sẽ thành công, vì đó là công việc của Thiên Chúa và khí cụ không thể đặt ra những thử thách hay không thể ngăn cản được.

 

Ngày 26/6

“Cho tới nay mặt trời Thánh Thể vẫn chưa tỏ rạng. Nhưng sự phong phú của Thánh Thể vẫn đang mở ra trước mắt chúng ta. Thật là kinh ngạc; chúng ta cảm nhận được một tia sáng đơn lẻ, tia sáng ấy sau này sẽ như thế nào?” (PJE 1867)

Cái ngày được nhắc đến ở trên cho biết cha Eymard đã làm việc trong Hội dòng được hơn 10 năm; chắc chắn cha sẽ không biết rằng cha đã được ban nhiều ơn để thực hiện dự án trong vòng một năm. Những năm đầu tiên của Hội dòng chắc chắn là một nỗi thất vọng đối với cha Eymard vì dường như nó không thực sự diễn ra một cách êm xuôi, mặc dù nhu cầu đối với một Hội dòng là rất lớn. Niềm tin vững mạnh của cha đã giúp cha đứng vững, đặc biệt là trong những năm khởi đầu. Cha có thể thấy rõ sự phong phú của Thánh Thể cho dù những đồng nghiệp của cha có lẽ đã chưa thực sự nhận ra như cha đã nhận ra.

Cha Eymard đủ khiêm tốn để nhận ra rằng mặc dù cha có thể đánh giá cao sự phong phú của Thánh Thể, nhưng đó vẫn chỉ giống như một tia sáng phát ra từ mầu nhiệm vĩ đại, còn có nhiều điều cần được khám phá và chia sẻ với dân của Chúa. Cha đã quá tập trung vào Thánh Thể đến nỗi chẳng có gì lôi cuốn được cha. Nhiệm vụ của cha trong Hội Thánh là làm cho sự phong phú của toàn bộ mầu nhiệm Thánh Thể được biết đến, và loan truyền đến tất cả mọi con cái của Thiên Chúa, đặc biệt là những người khước từ và chối bỏ. Cha cũng nhận thức được rằng công việc mà cha được trao phó sẽ không đem lại nhiều sức quyến rũ và sự công nhận từ những người khác, thế nhưng công việc ấy chiếm vị trí không thể thay thế được trong sự quan phòng của Thiên Chúa đối với dân Người, và đó là một nhiệm vụ không thể chối bỏ được.

Một phẩm chất khác cũng đáng để suy nghĩ trong cuộc đời của cha Eymard chính là cha luôn có cái nhìn tích cực. Cha đã tìm cách để mường tượng ra toàn bộ bức tranh, luôn luôn giữ nó trong tâm trí, để hết đau khổ này đến đau khổ khác, cha có thể hướng đến sự viên mãn của nó. Cha đã phát triển một cách tiếp cận tiêu cực trong cùng một tình huống vốn có thể cản trở sự thăng tiến của cha! Chúng ta thấy rằng chẳng bao lâu khi chúng ta bắt đầu làm bất kỳ công việc nào cho Thiên Chúa, chúng ta sẽ phải đối diện với những khó khăn, hết khó khăn này đến khó khăn khác. Ngược lại với nền tảng này, có một hình ảnh tích cực về toàn bộ dự án có thể loại bỏ đi nhiều tình huống đau khổ không cần thiết.

Vậy vinh quang sau cùng của Thánh Thể sẽ thực sự là gì? Dĩ nhiên chúng ta biết rằng không có sự hiện diện Thánh Thể hay Bí Tích Thánh Thể trên Nước Trời. Mà ở đó, chúng ta sẽ có được chính con người của Chúa Giê-su rạng tỏ và chiến thắng khải hoàn. Vì thế, đỉnh cao của việc tôn sùng Thánh Thể sẽ là sự nhận thức sâu sắc về sự hiện diện thực sự và hiệu quả của Đức Ki-tô nơi mỗi người qua phòng Tiệc Ly Nội Tâm của cuộc đời họ! Khi một người nào đó đạt đến chiều sâu của sự thân mật ấy, tất cả mọi ranh giới sẽ trở nên vô nghĩa. Có thể là khi viết câu này, cha Eymard thậm chí đã không thể mơ rằng chính cha sẽ đạt đến sự viên mãn của việc tôn sùng Thánh Thể để tạ ơn ân huệ nhưng không của Thiên Chúa tặng ban cho tất cả những ai tìm kiếm Người!

 

Ngày 27/6  

“Tôi cảm thấy mọi con đường mà tôi đi qua nhờ vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa đều là một sự chuẩn bị cho ơn gọi tuyệt vời và thánh thiện này; cũng như tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa về những gì tôi có được khi là tu sĩ dòng Đức Mẹ, khi là một linh mục triều cũng như khi là một cha phó” [ ]

Ở đây cha Eymard liệt kê ra những nguyên tắc quan trọng trong đời sống tâm linh. Thiên Chúa không bao giờ phân công một ai đó vào một công việc cụ thể mà trước tiên lại không chuẩn bị cho người ấy, cũng như trang bị cho người tất cả những gì cần thiết và hữu dụng để người ấy hoàn thành công việc. Và sự chuẩn bị này thậm chí còn bắt đầu trước cả khi người ấy được sinh ra trong thế gian này và sẽ còn tiếp tục mãi trong suốt cuộc đời. Vì vậy, mỗi biến cố làm nên một phần cuộc sống của người ấy đơn giản là được đặt vào đúng trật tự với sự chuẩn bị mai sau này. Cha Eymard có thể nhận ra điều này nơi chính cuộc đời ngài. Không có điều gì xảy ra với ngài, ngay cả những lời từ chối chính đáng của cha ngài khi không cho ngài theo đuổi ơn gọi linh mục, mà không phải là những bước chuẩn bị để hướng đến ơn gọi sau cùng: trở thành Đấng sáng lập Dòng Thánh Thể.

Khi một ai đó có một cái nhìn tích cực về cuộc đời mình, người ấy sẽ nhận ra rằng không có gì phải cằn nhằn hay than phiền cả. Tất cả những gì người ấy cần làm là hợp tác một cách quảng đại và đầy yêu thương với những gì Thiên Chúa định cho mình, học hỏi những bài học quan trọng được ẩn chứa trong mỗi kinh nghiệm ấy. Và kinh nghiệm này sẽ dẫn đến giai đoạn kế tiếp, giai đoạn này sẽ ăn khớp với tất cả các giai đoạn khác, giống như trò chơi lắp ghép hình vậy, cho tới một ngày đẹp trời, bức hình ấy sẽ trở nên rõ ràng và hấp dẫn. Bấy giờ, tất cả những gì người ấy có thể làm đơn giản là tạ ơn Thiên Chúa từ tận đáy lòng mình về lòng nhân từ liên lỉ của Người trong việc hướng dẫn người ấy đúng lúc.

Sự hiện diện của cha Eymard trong dòng Đức Mẹ (Marist) chẳng có gì là sai cả, việc từ chối hay không thể gia nhập dòng Hiến sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Oblat) cũng không có gì sai! Mỗi kinh nghiệm đều dạy cho cha những bài học quan trọng, và đem lại cho cha kinh nghiệm sống còn giúp cha đứng vững sau này. Chúng ta cũng nhận ra cách làm này trong cuộc đời của Môsê. Ông trở thành ‘tội phạm’ khi giết một người Ai Cập, đây là điều đáng khiển trách. Tuy nhiên, điều đó đã đưa đẩy ông trốn thoát khỏi Ai Cập đến vùng đất Mađian, nơi ông đã học được một bài học mà ông không thể học được tại cung điện của Pharaô để hiểu biết về Thiên Chúa một cách sâu sắc hơn. Phải chăng đó chỉ đơn thuần là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi ông tìm đến nhà của ông Gít-rô, vị thượng tế Tối cao, cũng như việc ông Gít-rô có 7 cô con gái, vì thế không còn một người đàn ông nào khác trong gia đình ấy có thể chia sẻ công việc với Môsê, một sự chia sẻ giữa những người đàn ông với nhau? Cuộc hành trình mà Môsê đã đi trong sa mạc sẽ giống như cuộc hành trình mà sau này ông sẽ dẫn dắt dân Ít-ra-en ra khỏi Ai Cập. Từ kinh nghiệm bản thân, ông đã vượt qua những khó khăn trong sa mạc và sau này có thể cảm thông và hiểu được những khó khăn của dân chúng.

Khi chúng ta áp dụng nguyên tắc này vào trong cuộc đời của chúng ta ngày nay, chúng ta thấy rằng cái chúng ta thường thiếu đó là niềm tin để nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động trong cuộc đời của chúng ta; Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta và có một kế hoạch dành sẵn cho chúng ta, sẽ không bỏ rơi chúng ta dù chúng ta từ chối cộng tác với Ngài. Tình yêu của Ngài thì vĩ đại hơn sự bướng bỉnh của chúng ta, và cuối cùng Ngài luôn luôn chiến thắng.

 

Ngày 28/6

“Hãy tỏ lòng biết ơn như những người nghèo thường làm.” [ ]  

Kinh nghiệm hàng ngày dạy chúng ta rằng hầu hết những người nghèo đều là những người có lòng biết ơn. Và lý do giải thích cho điều này cũng quá rõ. Vì nghèo và không thể tự lo liệu cho bản thân hay có ít của cải, nên những người nghèo phải phụ thuộc vào sự rộng lượng của người khác và họ nhìn mọi thứ họ có đều là một ân huệ từ nơi Thiên Chúa, hay từ những người hàng xóm láng giềng có lòng thương cảm. Theo tính tự nhiên, họ nhìn mọi sự xảy ra như hành động ban phát một ân huệ, hay như một ân phúc tuôn đổ xuống trên họ và bộc phát thành lời tạ ơn. Và còn gì hơn nữa, khi gặp những khó khăn thực sự trong cuộc đời, lời tạ ơn của họ thường không chân thật và chân thành, bên cạnh việc tự phát.

Ngày nay, nhiều người có thể nghèo về mặt vật chất, nhưng điều này không áp dụng cho mọi người. Một vài người hạnh phúc vì có nhiều của cải vật chất. Nhưng tất cả chúng ta, không có ngoại lệ, đều là những người nghèo về mặt tâm linh khi ra trước Thiên Chúa. Và trong vấn đề này, Thánh lễ dạy chúng ta biết phát huy thói quen tạ ơn. Mở đầu Kinh Tiền Tụng, chủ tế nhắc nhở mọi người rằng ‘thật là chính đáng và phải đạo để tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa… mọi lúc mọi nơi!’ Thế nhưng, chúng ta thấy rằng thông thường chúng ta đón nhận những ân huệ của Thiên Chúa ban cho chúng ta và quên cảm ơn Ngài hay quên luôn những khí cụ mà qua đó Ngài gửi đến cho chúng ta những ơn lành.

Một trong những lý do giải thích cho điều này có thể là vì chúng ta thiếu ý thức trong việc thực hành nghệ thuật ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa trong suốt Thánh lễ. Nếu chúng ta có thể ghi khắc trong tâm trí những biến cố cụ thể một cách có ý thức để ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa, và nỗ lực mỗi ngày để chuẩn bị trước điều này, thì sẽ tạo nên sự khác biệt trong việc diễn tả lòng biết ơn suốt cả ngày sống. Thực ra, đây chính là ý nghĩa của câu ‘chúng con đang hướng về Chúa’, qua câu này cộng đoàn đáp lại lời vị chủ tế mời gọi họ ‘nâng tâm hồn lên’, hay nói theo ngôn ngữ bình dân, họ có lý do để ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa bằng tâm trí và tâm hồn mình.

Ngày nay, khi cộng đoàn thưa ‘chúng con đã sẵn sàng’ thì điều đó có nghĩa là họ có lý do cụ thể đặt ra trước mắt mình về những gì họ muốn ngợi khen Thiên Chúa, nhưng thực tế, rất ít người suy nghĩ về những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ không đến tham dự Thánh lễ vì những lý do này có sẵn trong tâm trí và trong lòng họ! Những lời họ nói ra dường như chỉ là làm theo thói quen. Vì vậy mà không lấy làm ngạc nhiên khi trong suốt ngày sống, họ ít dành thời giờ để tạ ơn Chúa. Việc cử hành Thánh Thể hầu như là không ảnh hưởng gì đến toàn bộ ngày sống hay cuộc đời họ. Nếu có, thì chắc chắn nó sẽ tạo ra sự khác biệt lớn trong thái độ của họ. Không những cuộc đời họ sẽ thay đổi, mà những người khác cũng chịu ảnh hưởng bởi tấm gương biết ơn của họ trong cách đối xử với mọi người. Do đó, sự nghèo khó về mặt tâm linh sẽ biến chúng ta trở thành những con người có lòng biết ơn trong suốt cuộc đời, cũng như trở thành những sứ giả loan truyền những giá trị của Thánh Thể cho mọi người xung quanh.

 

Ngày 29/6

Khi Ông chủ được phục vụ và cảm thấy hạnh phúc, thì mọi sự sẽ tốt đẹp.” [ ]

Lời nhận xét này của cha Eymard dựa trên quan điểm: chúng ta, những thụ tạo, là những tôi tớ được Thiên Chúa trao cho một nhiệm vụ cụ thể trong cuộc sống. Tất cả điều này ăn khớp với kế hoạch lớn của Thiên Chúa vì lợi ích của toàn thể vũ trụ này. Vậy khi mỗi thụ tạo thi hành những gì được trao cho chúng, rõ ràng là toàn bộ trò chơi ghép hình sẽ diễn ra một cách trơn tru với mỗi mảnh ghép ăn khớp với vị trí của nó. Kết quả này chắc chắn làm hài lòng Ông Chủ, vì ông không mong muốn gì hơn là con cái của ông luôn luôn hạnh phúc và vui vẻ. Ông mong muốn điều tốt cho chúng và ông nhắc nhở chúng “Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi- sấm ngôn của Đức Chúa-, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng. Bấy giờ các ngươi kêu cầu Ta, các ngươi đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhận lời các ngươi. Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp- sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến- sấm ngôn của Đức Chúa-, Ta sẽ dẫn các ngươi trở về nơi Ta đã bắt các ngươi phải rời xa để đi đày.” (Gr 29,11-14)

Nhưng thật không may, từ khởi đầu con người đã chọn lựa đi theo con đường riêng của mình và làm xáo trộn kế hoạch tuyệt vời mà Thiên Chúa dành sẵn cho họ. Kết quả là không chỉ những cá nhân hay cộng đồng nổi loạn này mất hạnh phúc, mà họ còn phá vỡ cuộc sống yên bình của người khác nữa. Chúng ta sống trong một xã hội có mối ràng buộc với nhau, và những hành động của cái này sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ những cái khác, hầu như là rất kinh khủng. Các nhà khoa học nói rằng nếu một con bướm vỗ cánh của nó ở một nơi nào đó trên đất nước Nhật Bản, thì sự nhiễu loạn không khí gây ra do việc vỗ cánh này có thể truyền đến tận Ấn Độ. Và nếu điều này là đúng ở cấp độ vật lý, thì thử hỏi làm sao mà chúng ta lại không gây ảnh hưởng nhiều đến người khác về mặt tâm linh cơ chứ, vì tất cả chúng ta là “một thân thể trong Đức Ki-tô” cơ mà (Rm 12,4-8)?

Vì thế, chính vì lợi ích của toàn thể vũ trụ mà mỗi người phải học cách bước theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa bằng tình yêu không thể tin nổi, nhằm đem lại điều tốt cho mọi người. Nếu chúng ta sẵn sàng và toàn tâm làm theo mệnh lệnh của Ngài đó là: chúng ta yêu mến nhau như Ngài đã yêu mến chúng ta, bấy giờ tất cả chúng ta sẽ có cơ hội được hạnh phúc, được chia sẻ niềm hạnh phúc của chính Ông chủ. Nhưng phần quan trọng nhất của sứ điệp này là thậm chí khi chúng ta không làm theo mệnh lệnh của Thiên Chúa và kết quả là chúng ta nhận thấy một sự xáo trộn nơi chính chúng ta, thì chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước để đem chúng ta trở về và phục hồi phẩm giá của chúng ta trong vương quốc tình yêu của Ngài. Tình yêu bao la của Ngài dành cho chúng ta sẽ không cho phép Ngài bỏ rơi chúng ta lại vùng đất lưu đày quá lâu, trái tim yêu thương của Ngài động lòng trắc ẩn và Ngài sẽ kêu mời tất cả các thụ tạo tham dự vào cuộc hành trình trở về nhà (x. Is 40,1-11). Và khi chúng trở về, Ngài sẽ tổ chức lễ hội như đã được đề cập đến trong dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15,11-32). Sự trở về của con cái Ngài sẽ đem đến niềm vui khôn tả cho Cha trên trời. Đây chính là sự kiện mà Ngài hằng mong mỏi với niềm hăng hái mong chờ. Tuy nhiên, khi chúng ta phục vụ Chúa một cách có ý thức và trung thành qua những công việc hằng ngày, thì điều đó cũng đem đến cho Thiên Chúa niềm vui và sự hài lòng khôn tả.

 

Ngày 30/6

“Tình yêu thì không bao giờ nói, ‘thôi đủ rồi’.” [  ]

Một trong những đặc điểm của tình yêu chính là không đặt ra bất kỳ giới hạn nào, đặc biệt là đối với việc dâng hiến bản thân. Thực ra, điều đặc biệt của tình yêu Thiên Chúa chính là luôn luôn tuôn đổ trên người khác, trước hết là chính nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, tuôn đổ trên Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và sau đó là tuôn đổ trên mọi thụ tạo. Và vì Thiên Chúa thì vô hạn, nên việc tuôn đổ tình yêu cũng không có giới hạn. Quả thực, tình yêu ấy dường như tốt hơn và mạnh mẽ hơn khi tình yêu ấy tiếp tục cho đi chính mình. Và Thiên Chúa càng trao ban, thì nguồn tình yêu nơi Người lại càng tiếp tục cho đi. Thiên Chúa tìm thấy sự viên mãn bao la qua việc trao ban.

Hơn nữa, dưới cái nhìn của việc luôn sẵn sàng và quảng đại trao hiến chính mình, tình yêu lôi kéo mọi sự vật khác vào cơn lốc của chính nó, để mọi sự được chính tình yêu tác động sẽ dần dần từ bỏ đi sự ích kỷ của mình. Vì thế, mọi sự phát xuất từ năng lực sáng tạo của Thiên Chúa đều dẫn đến việc luôn sẵn sàng và không ngừng cho đi chính mình. Đây là năng lực sáng tạo tuôn chảy đến toàn thể vũ trụ, và biểu lộ những hình thức khác nhau của cuộc sống. Thật vậy, đây là đặc điểm mạnh mẽ nhất của tình yêu, đến nỗi tình yêu không bao giờ ngừng chảy hay cạn khô.

Tuy nhiên, điều duy nhất có thể đóng khung năng lực sáng tạo bao la của tình yêu chính là chủ nghĩa cá nhân, một thứ quyền lực xa lạ mà con người chúng ta muốn có để giữ lại cho riêng bản thân mình mọi thứ tình yêu xung quanh chúng ta. Cần biết rằng chúng ta tự biến mình trở thành trung tâm của vũ trụ và của một thứ tình yêu độc chiếm, chúng ta tiếp tục tìm kiếm điều đó ngày càng nhiều hơn. Nhưng, như dân Ít-ra-en đã bị cảnh báo, khi họ lưu lạc trong sa mạc, rằng không được thu lượm man-na nhiều hơn nhu cầu cần thiết cho một ngày (ngoại trừ là vào ngày sa-bát), số man-na lấy dư ấy sẽ mục nát và trở nên vô dụng, cả số lượng man-na lấy ban đầu cũng như số man-na khác cũng bị lấy đi. Điều ấy cũng sẽ xảy ra với chúng ta, khi chúng ta tìm cách thu vén tình yêu cho thật nhiều, hơn cả mức chúng ta cần cho bản thân mình.

Thế nhưng, khía cạnh đẹp nhất của tình yêu chính là chúng ta càng cho đi tình yêu một cách vô vị lợi, thì chúng ta lại càng nhận được tình yêu một cách dư tràn không thể đo lường nổi. Chúng ta càng biết cho đi tình yêu, chúng ta lại càng nhận được nhiều hơn. Chúng ta gieo tình yêu một cách quảng đại và thu lượm tình yêu, trong khi người khác lại gieo sự đối nghịch, đó là sự thù ghét hay bất kỳ hình thức nào của chủ nghĩa cá nhân, thì người ấy sẽ gặt được những gì mình đã gieo. Vì thế, cách tốt nhất để đảm bảo rằng chúng ta có được một nguồn tình yêu liên tục chính là tiếp tục gom góp tất cả tình yêu mà chúng ta có thể có! Như thánh Phao-lô đã diễn tả điều này hết sức rõ ràng: “Ðức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Ðức mến không bao giờ mất được” (1Cr 13,4-8). Và hơn thế nữa, Chúa Giê-su đã trao ban cho chúng ta tình yêu như một dấu chỉ để nhận biết người môn đệ đích thực của Ngài: ‘Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em!’ (Ga 13,34).

Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, SSS

 

© 2016 Dongthanhthe.net. All rights reserved.